CHƯƠNG VII TÌNH THẦY TRÒ CỦA MAHOMET VÀ CÁC ĐỆ TỬ ĐẠO HỒI HỒI-(Thầy chân chồn gối mỏi: chí cả chi mong nơi Trò.)
Một tôn giáo phát triển vừa bằng thánh thư vừa bằng binh thư, giáo sĩ kiêm nhà tướng, thánh đường cất sát trại lính, cộng biên cương nầy với biên cương kia lại to bằng đế quốc La-Mã của César nhập với đế quốc của A-Lịch-Sơn đại đế thời thịnh nhất, sau chiếm 400 triệu tín đồ vừa ca tụng thiên đường siêu thế vừa hưởng thụ thiên đường tại thế có câu kinh tiếng kệ pha lẫn khúc ca khải hoàn, có sữa thơm chảy thành suối, mật ngọt tuôn thành biển, dĩ nhiên không thiếu thánh ca hòa lẫn tình ca và chập chờn bóng giai nhân mắt đen môi mộng, trông không biết mê hồn hay thoát tục.
Tôn giáo nào đó bạn đoán biết rồi. Một giáo tổ nuôi mộng bá đồ vương, muốn thống nhứt đất nước, làm cho xứ sở thành một thế giới thứ hai mà bằng biện pháp tôn giáo, lấy Thượng-Đế Allah làm Chúa lãnh đạo tối thượng, tự coi mình là đại diện chúa ấy có một ở trần gian. Một giáo tổ đến 50 tuổi đầu, chí phiêu lưu còn như hồ hải, ngày nọ họp các môn đồ ruột thịt nhất lại, thầy trò uống máu ăn thề, lập thành bộ tham mưu vừa tu hành vừa đánh giặc. Giáo tổ đó bạn cũng đoán biết là ai. Một tôn sư vừa được coi như Tiên tri duy nhất của Chúa Allah vừa là quốc vương bà chủ, có hằng trăm, hằng ngàn đệ tử hết tụng kinh thánh Coran thì thọc huyết quân thù cho chảy thành sông biển, lúc Thầy còn sống thì reo lên với Thầy khi xua quân xâm lăng rằng: Tiến tới nổ súng là Thiên Đàng, thụt lùi đầu hàng là địa ngục, lúc Thầy chết rồi cấu kết với nhau đem gươm súng lẫn kinh Coran khắp Tây-Á, Trung-Á, Bắc-Phi, ùa qua Âu-Châu, hăm he cả vua nhà Đường của Trung-Hoa nữa, sốt sắng đọc kinh trên xác người đứt đầu lòi ruột say sưa chinh phục thiên đàng một lượt với địa đàng đến đỗi có lần than: "Lạy chúa Allah của Mahomet, nếu không đụng đầu Đại-Tây-Dương thì chúng con còn sẽ đem vinh danh của Ngài không thiếu chỗ nào trên thế giới."
Tôn sư đó là ai? Bạn lại dư biết rồi. Ở đây tôi xin miễn bàn về giá trị thần học của Đạo Hồi Hồi, cũng không xét khía cạnh chính trị của cuộc đời Đức Mahomet. Các sự kiện kể trên là những sự kiện lịch sử. Xin dành quyền phán quyết cho bạn. Ở đây tôi chỉ chú trọng tình thầy trò giữa Đức Mahomet với các đệ tử của Ngài trong cuộc bành trướng tôn giáo chính trị vĩ đại như vậy.
Trước khi rút ra những nguyên nhân nào thúc đẩy được thầy trò Đức Mahomet keo sơn cộng tác nên đế quốc Hồi-giáo đại qui mô như vậy, ta cần tìm biết Đức Mahomet là ai, Hồi-giáo là gì? Phần chót là phân tích tâm lý thầy trò của họ.
I. Đức Mahomet là ai?
1) Thời thơ ấu và thanh niên: Đức Mahomet cũng gọi là Muhammad hay Mohamed, sinh tại La Mecque, năm 570 hay 580 và qua đời năm 632 tại Medine. Ngài phát xuất từ gia đình vọng tộc Hachim thuộc dòng dõi Quarych.
Thân sinh Ngài tên là Abdallah ly trần tại Meduc. Mẹ Ngài tên Amina khuất núi khi Ngài mới lên sáu. Mồ coi sớm như vậy Ngài được ông nội là Abd Al Muttalib nuôi rồi lại được người cậu tên Abu Talib đem về nuôi. Nhân cơ hội nầy Ngài có người em họ là Ali, coi như bạn thân thời măng trẻ. Lên 12 tuổi, Ngài cùng cậu hoạt động thương mại với các thương đoàn qua sa mạc. Trong thời kỳ nầy Ngài gần gũi một tu sĩ Ky-Tô giáo và chịu ảnh hưởng giáo lý Đức Ky-Tô. Ngài sinh sống bằng nghề chăn trừu rồi giúp việc cho một bà góa thương gia giàu sụ tên là Khadijah. Bà nầy lớn tuổi hơn Ngài nhưng sau một thời gian hai người thành ông chủ bà chủ. Năm 619 bà qua đời. Ngài góa vợ sớm nuôi bốn con gái mà người trưởng là Fatima.
2) Xao xuyến siêu hình và bắt đầu lập đạo: Lúc ở Medine Ngài gặp nhiều nhà tu Do-Thái giáo cũng như lúc theo các thương đội cùng ông cậu, Ngài chịu ảnh hưởng Thánh kinh ra tâm hồn Ngài thu hút tinh hoa đạo Moïse lẫn đạo Ky-Tô. Đến 40 tuổi nhân dịp Ngài lưu trú trong một hang động nọ thuộc núi Hi-Ra, Ngài suy nghĩ nhiều về sứ mệnh lập giáo. Ngài cứ bị ám ảnh theo tương truyền rằng lúc sinh ra Ngài được nhiều hiện tượng lạ chứng minh rằng Ngài là đấng Tiên-Tri. Ngài xác tin rằng có vị thiên thần từ Trời xuống vạch ngực Ngài đóng trên đó con dấu Tiên-Tri. Thiên sứ đó là Gabriel. Ngài cho ai nấy biết rằng Ngài thường được thị kiến qua chiêm bao là phải truyền giảng đạo độc thần truyền bá thiên đàng, hỏa ngục, phục sinh v.v... Khi Ngài băn khoăn lập đạo như vậy thì xung quanh Ngài, đạo đa thần thịnh hành tràn lan. Phong trào truyền giáo độc thần của Ngài bị nhiều giới chống đối kịch liệt. Tâm trí Ngài bị xâm chiếm bởi hai lý tưởng: Làm sao thống nhất dân Á-Rập và truyền bá khắp thế giới độc thần Allah. Ngài lấy lý tưởng sau làm khí giới thực hiện lý tưởng trước vì nghĩ rằng phải thống nhất tinh thần trước thống nhất chính trị. Ngài dẹp hết các việc làm ăn. Ngày đêm quyết tâm thực hiện mộng vĩ đại đó. Các giới tấp nập theo tín ngưỡng của Ngài, ban đầu là những cùng đinh, ở đợ, phu xe, nhân công khố rách. Đạo của Ngài tự nhiên biến thành trào lưu cách mệnh xã hội. Bọn phú hào, đa số là tài phiệt nhập với bọn tu sĩ suy đời thời bấy giờ nhảy tâng lên chống đối Ngài, vu cáo Ngài đủ điều.
3) Năm lịch sử: Ở La Mecque bị chống đối quá. Đức Mahomet tìm khí hậu khác cho tôn giáo của Ngài. Năm 622, Ngài cùng một số môn đồ sang thành Yathrib. Từ đó thành nầy trở nên thành của Đấng Tiên-Tri và danh từ Medine phát xuất mấy tiếng "Madinat al-Nabi". Đây là môi trường lý tưởng mà Đức Mahomet dùng để tổ chức xã hội Hồi giáo theo Ngài, quan niệm Ngài coi Hồi giáo như sợi dây nối kết các công dân trong thành lại. Ngài tự biểu lộ là thủ lãnh tối cao của thành về mặt tôn giáo lẫn mặt chính trị. Tín ngưỡng căn bản đầu tiên mà toàn dân dưới quyền lãnh đạo của Đức Mahomet phải theo răm rắp là: "Chỉ thờ một chúa Allah và chỉ tin một tiên tri duy nhất tức Mahomet". Cuộc truyền giáo của Ngài tại Medine đang phát đạt thì bị nhiều nhóm Do-Thái phá rối. Kẻ thì chế nhạo Ngài dốt Thánh kinh. Kẻ khác tố Ngài xúi dân làm loạn. Ngài phản ứng quyết liệt bằng vũ lực, tống cổ các Do-Thái chống đối Ngài ra khỏi thành. Ngài kết giao với các chính quyền lân bang, gây thiện cảm với họ để tủa ảnh hưởng của mình ra bốn phương. Ta sẽ xét phần nầy trong mục "Hồi-giáo là gì?" Ở đây ta cần để ý con người Đức Mahomet là con người phức tạp. Tâm hồn hướng về thần bi, tình cảm lênh láng như thi sĩ, mà lại tháo vát, óc thương mãi pha lẫn mưu lược chiến tranh, tâm địa hào phóng, nghĩa hiệp, biết thương người nhưng có lúc nhìn đầu rơi cười khoái trá.
Sức làm việc của Ngài thì kinh hồn. Lúc lọt vòng vây tại Medine, ông vừa chỉ huy trận địa vừa vác cuốc đào hầm đắp lũy. Chí xâm lăng cũng ngang dọc thuộc loại Hamibal và Thành-Cát Tư-Hãn cọng lại. Ngài đứng thấy chật trong bán đảo Á-Rập. Giang sơn của Ngài là sa mạc và sa mạc, song Ngài định cho nó chảy sữa tuôn mật như Ba-Tư huyền ảo hay Damas phì nhiêu. Theo Tự Điển Larousse du 20e Siècle thì sau ngày bà Khadijah qua đời, Đức Mahomet cưới 14 bà vợ nữa. Một số người cho rằng Ngài có máu Kiệt-Trụ. Người khác binh vực Ngài cho rằng đó là kết duyên vì bang giao. Xuyên qua Kinh Coran Ngài tỏ ra đề cao luân lý. Trong suốt mấy chục năm hò hét xây dựng, thống nhất Á-Rập, Ngài vô cùng quyết liệt: Bằng bất cứ giá nào Á-Rập cũng phải huy hoàng mà cho được vậy thì ai nấy đều phải quì gối dưới chân một chúa Allah thôi. Toàn quân đội của Ngài không ai lơ mơ được. Không giết giặc vì Allah thì rảnh tụng kinh Coran chớ không nhậu nhẹt, cờ bạc, lêu lổng.
Ngài y như một César thời xưa của La-Mã trong câu: "Pax romana super impérium et terram, Bình yên La-Mã trên đế-quốc và thế-giới". Dù gì là gì, Á-Rập cũng phải vĩ đại nên toàn quân, toàn dân chỉ có con đường độc đáo là lập ngay trên trần thế một thiên đường vật chất mà việc đầu tiên là san bằng bất cứ ai chống Hồi-giáo, phản bội Đấng Tiên-Tri tức là Ngài. Còn đã trung thành với lý tưởng ấy mà vong mạng thì đi thẳng về thiên đường trên trời càng phúc lạc hơn nữa. Con người Ngài khủng khiếp thực. Ở thời đó mà Ngài tổ chức chiến tranh chính trị đến cao độ. Những văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ hay bất cứ nghệ sĩ nào mà sáng tác ca tụng Allah, cổ võ chinh phạt dân ngoại giáo, hoan hô chiến thắng của Hồi-giáo thì được trọng thưởng một phần chiến lợi phẩm. Hai phần kia tất nhiên là dành cho chiến sĩ rồi. Nghệ thuật đắc dân tâm và đắc quân tâm của Ngài cũng phức tạp như cá tính của Ngài. Ai chống lý tưởng của Ngài thì Ngài ác độc đến thành dã man nhưng Ngài cũng đủ sức mềm mỏng ngoại giao với chính quyền lân bang để Hồi-giáo lan rộng. Ngài thành tín với Allah nhưng không kém thủ đoạn xảo quyệt với ai thờ đa thần. Ngài cho bay đầu, lòi ruột, quăng thây cho quạ mổ kên kên xơi những ai ra trận mà đầu hàng, đào ngũ, nhưng Ngài cũng biết chia ngọt, xẻ bùi, nằm gai, nếm mật với đồ đệ, tướng lãnh, quân sĩ tuân lệnh Ngài. Giống hệt một Tào-Tháo trên đường hành quân lấy rừng mơ nhử binh sĩ đang sắp chết khát, Ngài dùng Thiên đàng tương lai làm mồi câu thuộc hạ của Ngài. Tuy đình đám cổ võ thứ vườn địa đàng thứ hai đầy lạc thú thần tiên, nhưng Ngài sống khắc khổ, ăn chay, cầu nguyện. Thực không ai hiểu nổi Ngài. Cho đến ngày nay khi viết về Ngài không sử gia nào không ngượng nghịu ngòi bút vì không thể quả quyết tuyệt đối về Ngài thế nào cho được. Trong Ngài có quỉ Satan mà cũng có Thượng-Đế. Ngài dùng quỉ Satan để đưa về Thượng-Đế. Rồi Ngài cũng nhơn danh Thượng-Đế làm nhiều việc của quỉ Satan.
4.- Lượng giá của con người Đức Mohamet: Theo tài liệu của W.M. Watt thì Ngài trung trung người. Vai ngực rộng. Nhìn vào thấy rắn chắc. Cánh tay dài. Bàn tay, bàn chân hơi thô kệch. Trán cao, vồ. Mũi nhọn quặp. Mắt đen nâu. Tóc dài quăn, cứng. Râu và lông ngực rậm. Má gầy. Miệng rộng. Cười khả ái. Đi nhanh. Hay buồn. Thích thinh lặng. Ưa suy nghĩ. Ở không chịu không nổi. Luôn bận việc. Không nói chuyện vô ích. Nói gì thì nói minh bạch. Biết chế ngự tình cảm. Khi bị công kích, biết né tránh. Khi được thỏa mãn, thì thưởng thức trầm mặc. Lúc phải cứng, rất quyết liệt. Nhưng không vì đó mà kém hiền hòa. Thường chỉ mỉm cười hơn là cười.
a) Nặng tình gia đình. Trìu mến con cái. Thích biểu lộ âu yếm với con trẻ. Có lần gặp một đứa trẻ buồn vì con họa mi chết, Đức Mahomet tận tình an ủi nó. Ngài rất thương thú vật. Lần nọ đi ngang qua một con cho cái và bầy con, Đức Mahomet chẳng những bảo đoàn tùy tùng đừng làm chúng sợ mà Ngài còn chỉ thị riêng một người theo dõi coi lệnh được thực hiện chu đáo không. Đấy, đại khái tâm tính con người của Đức Mahomet là như vậy.
b) Còn hồi do đâu mà Ngài có sức hấp dẫn đệ tử, môn đồ ghê gớm như lịch sử đã chứng minh thì ngoài những biện pháp luân lý có thể khiển trách, ai cũng phải nhận là do lý tưởng tôn giáo và do nhiều đức tính biểu lộ con người ngoại hạng của Ngài. Chẳng hạn các đức can đảm, cương nghị, quyết liệt mà bao dung, cẩn thận và thực tế, đinh thép trong chỉ huy mà cũng hy sinh, đồng lao cộng khổ. Đó là chưa kể những đức tính thuộc về tư cách, sức lôi cuốn cửa phong độ xử thế mà Đức Mahomet có từ bẩm sinh, tự nhiên gây thiện cảm và giúp Ngài thành công. Xưa nay trong các tôn giáo, không tôn giáo nào bị bách hại ác nghiệt bằng Đạo Hồi Hồi. Đạo đối với đạo với nhau, nó cũng đầu tư đủ thứ gian truân. Qua bao thế kỷ nó là đối tượng kinh tởm của Ky-Tô giáo. Các trận thánh chiến là những bằng chứng cụ thể. Cả Âu-Châu thời trung-cổ coi Hồi-giáo là "Đại Thù". Có lúc danh từ Mahomet bị đổi là Mahound có nghĩa là Vua Hắc-ám. Đế quốc Bizance bị quân đội Hồi-giáo đánh tơi bời ở Tiểu-Á nên ghét Hồi-giáo như ghét quỉ sứ. Còn về thành kiến trong các giới trí thức, ngoài chứ không kể trong Ky-Tô giáo, thì nghe nói đến Hồi-giáo, người ta cứ nghĩ toàn chuyện xấu, chuyện bậy chứ không xét phải quấy. Dư luận chung thì bảo rằng Đức Mahomet là tay đạo phiệt, dùng toàn thủ đoạn thỏa mãn tham vọng bất lương và gieo rắc những giáo điều mà chính Ngài biết là sai lạc. Cách đây hàng trăm năm, trong cuốn Tôn thờ anh hùng, Thomas cũng tàn nhẫn đối với Đức Mahomet. Ngay từ trong nôi của nó là thành La Mecque, nó đã bị đập phá tơi bời. Qua Medine rồi trên đường xâm lăng đại qui mô, nó là bia cho vô số mũi dùi khủng khiếp. Nhưng tại sao nó bành trướng như vũ bão. Tại sao nó chinh phục được những người tâm tính cương nghị và thiện chí như Abu-Bakr và Umar? Theo W.M. Watt thì chung qui là do Đức Mahomet là người trung trực với chính mình. Ngài có thể lầm, người khác lầm theo nhưng ông không có chủ tâm lường gạt. Tại ông tin cả quyết rằng ông là tiên-tri của Thượng-Đế, rằng Thượng-Đế là duy nhất, rằng phải tạo vinh quang Thượng-Đế bằng hai loại thiên đường hiện thế và siêu thế. Trong khi xung quanh ông nạn đa thần biểu diễn loạn lên, tồi phong bại tục đó đây ê chề, xứ sở chia rẽ, ly tán trầm trọng, ông rao giảng các vấn đề trên tự nhiên gây chú ý và hấp dẫn nhiều người. Còn quân thù càng đông trợ lực càng gay gắt mà Hồi-giáo tiến nhanh, tiến mạnh thì càng chứng minh giá trị nào đó của Đức Mahomet.
c) Không ai phủ nhận được nơi giáo tổ Hồi-giáo bộ óc khôn ngoan ngoại hạng. Ông tính toán, tiên liệu, khi cương khi nhu, khi ẩn khi hiện, khi tấn công quyết liệt, khi tránh né để chuẩn bị thành công tối hậu. Nhờ bộ óc đó mà ông biến đất nước ông từ một tiểu nhược quốc nát như tương thành một đại đế quốc thống nhất.
Ông chẳng những là một nhà thị kiến bắt mạch được nhiều vấn đề hệ trọng trong thời đại của mình mà còn là một nhà lãnh đạo kiêm hành chánh lỗi lạc. Bằng chứng là hồi lúc ông qua đời, Á-Rập trên đà hưng thịnh rực rỡ. Theo đà đó, Hồi-giáo đã tủa ánh sáng văn mình ra suốt 13 thế kỷ từ Đại-Tây-Dương đến sông Indus nghĩa là một vùng địa dư mà chính những nhà chinh phạt như A-Lịch-Sơn đại đế, César, Hannibal hay Attila cũng không chiếm cứ bằng và ảnh hưởng bằng.
d) Nhìn Đức Mahomet qua lăng kính thần học, nhiều người chối nơi Ngài vai trò Tiên-Tri. Nói cách khác là Ngài không đại diện cho Thượng-Đế như Ngài quả quyết.
Nếu hiểu Tiên-Tri là cứu thế và nếu hiểu cứu thế theo quan điểm thần học thì cái ca Mahomet chắc là đề tài tranh luận không làm sao ngã ngũ được. Dĩ nhiên phe tín đồ Hồi-giáo quả quyết Ngài là Đại Tiên-Tri, Đại Cứu-thế rồi. Còn phe đối nghịch về tôn giáo nhìn Ngài như quỉ Satan nhập thể, về chính trị coi Ngài là tên phản động, thực dân, đế quốc, quân phiệt v.v...
Công bình mà nói thì nên bảo rằng Đức Mahomet là người có óc tưởng tượng sáng tạo thuộc hạng siêu đẳng. Do óc sáng tạo đó, Ngài đưa ra những ý tưởng độc đáo đáp ứng thời đại và nơi chốn mà Ngài truyền đạo. Ý tưởng ấy phát xuất từ đâu? Từ Thượng-Đế chăng? Từ đời sống chăng? Nếu là chân lý thì chắc chắn là từ Thượng-Đế vì thần học chủ trương rằng Thượng-Đế là nguồn chân lý. Nếu là chân lý mà phát xuất từ đời sống thì cũng phát xuất từ Thượng Đế luôn vì Thánh kinh quả quyết rằng Đức Giê-Su vừa là Thượng-Đế vừa là sự sống. Mà bộ Coran ai cũng phải nhận phần lớn chứa đựng chân lý; chỉ một số tư tưởng nào đó cần xét lại về mặt tín lý và luân lý thôi. Vậy tóm lại, nếu Đức Mahomet không là Tiên-Tri hiểu theo nghĩa cứu thế thì ít ra Ngài cũng là nhà thị kiến với óc tưởng tượng sáng tạo siêu quần bạt chúng.
II. Đạo Hồi Hồi là gì?
1.- Lai lịch:
Hồi-giáo là tôn giáo của Đức Mahomet sáng lập hồi thế kỷ thứ 7. Người ta còn gọi là đạo Ích-Lam dịch bởi tiếng Islam hay Islamisme. Theo truyền thuyết đạo nầy thì nó phát xuất từ trời, được đem đến bởi thiên thần Gabriel bằng những thiên khải tập trung trong cuốn Coran. Sau khi Mahomet qua đời, bốn người kế vị đầu tiên truyền bá nó vượt khỏi biên giới Á-Rập tạo thành một đế quốc Hồi-giáo từ sông Indus đến Đại-Tây-Dương. Nó tràn lan qua Tây-Ban-Nha, Ba-Tư, Ấn-Độ, Turkestan, Insulinde, Bắc-Phi, Đông-Âu v.v...
2.- Kinh thánh của Hồi-giáo: Coran
Coran hay Koran có nghĩa là "đọc" là thánh thư của Hồi-giáo, gồm 114 chương viết theo lối văn xuôi có vận điệu gọi là Sura. Tức là những vế dài ngắn khác nhau. Mỗi Sura gồm nhiều câu mang nhan đề riêng rút theo ý nghĩa của một câu hay một chuyện được tường thuật.
Toàn bộ chứa đựng được tín lý là những điều phải tin và luân lý là những điều phải thi hành trong đời sống. Các điều nầy được tin là do thiên thần Gabriel thiên khải cho Đức Mahomet. Pha trộn trong đó có Thánh kinh của Ky-Tô giáo nhứt là những chuyện trong sách Khải Huyền. Từ thời Mahomet còn sống, Coran không được viết thành mà là những lời dạy được nhớ thuộc lòng. Sau khi Ngài ly trần, đến trào Calip thứ 3 (Calife ở đây có nghĩa là kế vị) tên là Uthman cũng ra lệnh thủ tiêu hết các sưu tập nào dị biệt với Coran do chính ông điều khiển soạn lục.
Về mặt phụng vụ nghĩa là giáo lễ thì Coran được chia ra 30 đoạn gọi là djuz và 60 vế gọi là hizb. Người Hồi-giáo đọc các đoạn vế ấy trong các giáo lễ, càng đọc nhiều càng được công đức.
Giáo lý được chép trong Coran gọi là Islam có nghĩa là nhẫn nhục. Người tin giáo lý ấy gọi là tín nhân (Musulman hay Moslemine). Nội dung Coran là:
a) Thượng-Đế duy nhất, sáng tạo vạn vật, đã tiền định con người ai lên thiên đường ai xuống địa ngục bằng quyết định bất di dịch.
Đó là định mệnh thuyết. Thượng-Đế sai các Tiên-tri rao giảng đạo Độc-Thần. Các Tiên-Tri ấy là Abraham, Moïse, Jésus và Mahomet là Tiên-Tri sau cùng.
b) Về luân lý thì tối cần 5 điều sau đây:
1) Tuyên xưng Allah là chúa duy nhất và Mahomet là Tiên-Tri của Người.
2) Đọc Coran mỗi ngày nhứt là đọc ngày thứ sáu tại những mốt-kê (mosquée) là nhà nguyện.
3) Bố thí.
4) Ăn chay tháng Ramadan: nhịn ban ngày rồi tối ăn no.
5) Cả đời ít ra một lần viếng thánh địa La Mecque.
Hồi giáo chủ trương mọi quyền hành đều do Allah. Mà Allah ủy quyền cho Mahomet nên Ngài là độc quyền tối thượng trên trần gian nầy. Quyền đó hiểu về mặt tôn giáo lẫn chính trị và hành chánh. Ý thức cầm quyền tối cao như vậy nên Đức Mahomet phát động thánh chiến chống các dân ngoại, các quốc gia nào không tôn phục Allah. Các Calip hiểu là những người kế vị Ngài thực hiện triệt để đường hướng đó.
Calip đầu tiên là Abu-Bakr (632-634) xua quân xâm lăng Syrie và Ba-Tư. Kế vị Abu-Bakr là Omar (634-644) mang danh hiệu Emir có nghĩa là thủ lãnh của tín đồ, tiếp tục xâm lăng Syrie, Ba-Tư chiếm luôn Ai-Cập.
Ngay trên nền đền thờ vua Salomon, Calip Omar dựng mốt-kê mang tên của ông. Từ 680 là triều đại của những Omniades, các xâm lăng mới lại nổi lên. Họ xâm chiếm Phi-Châu. Họ đánh thốc vào hông Tây-Ban-Nha, xô sập đế quốc Wisigoth do trận Xérxès năm 711. Họ ào qua Pháp đến Poitiers bị Charles Martel chận đánh năm 732.
Như vậy ta thấy Hồi-giáo bành trướng vừa bằng thần quyền vừa bằng võ lực, chiếm một đế quốc rộng bằng hai đế quốc La-Mã, có đến 3 thủ đô. Thủ đô ở Đông phương là Bagdad. Thủ đô ở Ai-Cập là Le Caire. Thủ đô ở Tây-Ban-Nha là Cordoue.
3.- Hồi giáo không những là một tôn giáo mà còn là một bộ luật vĩ đại chi phối toàn diện đời sống tín đồ từ tôn giáo, chính trị, xã hội, gia đình đến cá nhân. Cương lĩnh, nguồn suối của bộ luật nầy là cuốn Coran. Nội dung của thánh thư ấy sở dĩ được áp dụng thành cuộc xâm lăng đại qui mô là do chí khí kinh khủng của Đức Mahomet vốn tự tin có thiên mệnh tạo vinh quang cho Allah. Nhưng đại nghiệp của Đức Mahomet giữa vô số quân thù, trở lực sở dĩ thành tựu là do các đệ tử. Toàn là những bộ óc thâm nhiễm chí cả của tôn sư, là những bàn tay chọc trời khuấy nước mà sau đây ta sẽ xét một số đặc điểm của họ.
III. - Tình thầy trò của Đức Mahomet và các đệ tử ban đầu.
1. Theo W.M. Watt trong cuốn Mahomet do Payot xuất bản, thì tín đồ đầu tiên của Đức Mahomet, không ai khác hơn là phu nhân của Ngài tức bà Khadijah. Còn nam tín đồ thì chắc là Ali bà con cô cậu của Ngài. Có người cũng nói có lẽ là một thanh niên Á-Rập, gốc người nô lệ sống trong gia đình Đức Mahomet tên là Zayd. Người em họ, Ali thì còn nhỏ quá trong khi Zayd lúc Đức Mahomet ngộ đạo mới được lối 30 tuổi nên có thể nói Zayd là người nam tín đồ đầu tiên đáng kể nhứt. Gọi Zayd là đệ tử tiên khởi cũng được. Có điều chắc nhứt là Đức Mahomet yêu thương Zayd lắm bởi lẽ Zayd được coi như con nuôi duy nhất trong khi con đầu lòng của ông bà Mahomet chết lúc còn non tuổi.
2.- Song một đệ tử tiên khởi mà quan trọng nhất phải kể Abu-Bakr. Nếu xét về tuổi tác thì Abu-Bakr chỉ là bạn của Đức Mahomet thôi vì ông nhỏ hơn Ngài có 2 tuổi. Song trong tinh thần hấp thụ tôn giáo, thì ông là đại đệ tử. Vốn sống bằng nghệ thương mãi, ông có tiền bạc rồi nên thoạt đầu ông đem về cho Ngài năm người, về sau thành môn sinh cột trụ trong việc kiến tạo đế quốc Hồi-giáo nhứt là sau khi Ngài tạ thế. Người ta bắt đầu thấy vai trò sáng chói của Abu-Bakr từ khi Đức Mahomet bỏ La Mecque sang Medine. Chuyến đi lịch sử đó người Hồi-giáo gọi là Hidjrad: Theo tiếng La-tinh là Hégira có nghĩa là di cư. Năm trẩy xuất thánh 622 được lấy làm kỷ nguyên Hồi-giáo cũng như người Ky-Tô giáo lấy năm một tức năm sinh của Đức Giê-Su làm kỷ nguyên công lịch nầy. Vai trò sáng chói ấy, Abu-Bakr khéo giữ cho đến khi Đức Mahomet lìa đời, chọn ông làm vị thừa kế chính thức.
3.- Những môn sinh và tín đồ sơ khởi của Đức Mahomet xuất hiện trong khoảng từ năm 610 đến 613 và tạm chia làm ba nhóm:
a) Nhóm đầu gồm những người có ảnh hưởng nhất trong các tông tộc có thế lực nhất. Nhóm nầy về sau chia ra hai phe. Có phe chống đối công việc của Đức Mahomet, tạo trở lực cho bước tiến của Hồi-giáo.
b) Nhóm hai là nhóm người trẻ trên dưới 30 tuổi kém ảnh hưởng và thế lực hơn. Chung qui nhóm nầy cũng không khác nhóm trên là mấy.
c) Nhóm ba là nhóm ở ngoài các tông tộc. Họ đa số là người ngoại quốc, là dân nô lệ cư trú tại La Mecque.
Nhìn chung thì những đệ tử, tín đồ ban sơ của Đức Mahomet đúng như người ta thường nói là những người trẻ và không mấy xuất sắc về phương diện địa vị xã hội. Theo tương truyền chánh thức nhứt trong Hồi-giáo thì Đức Mahomet không biết đọc biết viết và người ta xác quyết như vậy để đề cao việc Ngài tự thị kiến những huyền nhiệm, tự thốt ra những điều chép trong kinh Coran mà không do ảnh hưởng nào cả.
Nhiều người chủ trương bằng cái vốn tư tưởng Do-Thái, Ky-Tô giáo bàng bạc trong Coran là do bằng hữu thuộc giới thượng lưu kinh doanh của Đức Mahomet cung cấp cho Ngài.
Điều đó chắc không sai. Nhưng đúng nhất là do số môn đồ của Ngài sưu tầm, góp nhặt cho Ngài. Ta thấy tư tưởng độc thần trong Thánh kinh được lặp lại trong Coran và đường lối chính trị của Đức Mahomet có nhiều điểm giống Moïse. Chỉ có điều khác biệt căn bản là tinh thần của Thánh kinh, lý tưởng của Moïse thì tuyệt đổi hướng thượng, tuyệt đối chống cái gì bất luân, phản đức trong khi tinh thần của Coran vừa đề cao Thượng-Đế vừa ca tụng lạc thú trần gian. Lý tưởng của Đức Mahomet vùa nhắm Allah mà cũng không quên nhiều vinh lợi có khi rất bất lương.
4.- Lối năm 614 tức là lúc cuộc truyền giáo đã công khai, Đức Mahomet không ở trong nhà riêng mà ông ở trong nhà một đệ tử non 30 tuổi thuộc giai cấp phú hào tên là Al-Argam tại La Mecque. Lúc bấy giờ Ngài được 39 môn sinh. Các vị nầy thường trực lui tới Ngài trong nhà của Al-Argam. Tại La Mecque, giới thương gia cường hào sợ đạo mới của Ngài phá hoại cuộc săn tiền của họ nên lúc Ngài hoạt động mạnh tại nhà Al-Argam, Ngài bị cả đám con buôn eo éo lên chỉ trích. Ác liệt nhất trong bọn phá hoại nầy là Abu-Djahl. Có lần y đến chạm trán với Đức Mahomet, lộng ngôn mạt sát Ngài. Đức Mahomet làm thinh. Song có một người đàn bà nọ đem sự kiện đó thuật lại cho cậu của Ngài là Hamzab bấy giờ còn ở ngoài Hồi-giáo. Ông nầy nổi lôi đình lên, trên đường đi săn bắn về, xách cung ná lại bắn Abu-Djahl. Ông hằn học hỏi Abu-Djahl: "Có phải mầy hạ nhục cháu tao trong khi hiện giờ tao là một trong các đệ tử của Ngài không?"
Bạn để ý: Hamzab binh vực Đức Mahomet với tư cách là tín đồ, là đệ tử của Ngài mặc dầu Hamzab là cậu và trước đó còn ngoại đạo. Khỏi phải nói, khi thấy bị tấn công tất nhiên gần 40 trò, đâu để yên kẻ thọt gậy cuộc truyền đạo của Thầy. Người ta có thể trách biện pháp binh vực Đức Mahomet có vẻ "kém đạo đức" nhưng ở đây ta cần nhấn mạnh điểm Ngài được đệ tử chết sống với tôn sư.
5.- Chuyến trẩy xuất từ La Mecque sang Medine của Đức Mahomet với trên 70 đệ tử cũng là cơ hội biểu lộ tình thầy trò. Ngài sai một số môn đồ sang Medine trước để dọn đường. Ngài cùng Abu-Bakr không đến trực tiếp thành nầy vì sau lưng là dân La Mecque la ó, trước mặt là dân Medine hờ sẵn phản đối. Ngài và Abu-Bakr ẩn núp dưới một cái hầm không xa thành lắm rồi từ đó tiến kín đáo vào thành mà không gặp quân thù. Ngày chính thức của Hégira hay Hijrah tức Di tản là 24-9-622.
Năm nay là công niên của Hồi-giáo. Nếu đối chiếu với công niên ta đang dùng thì có nhiều sai biệt vì năm theo Hồi-giáo gồm 354 ngày. Như vậy 1 thế kỷ của ta là 103 năm theo Hồi-giáo.
Theo niên lịch Hồi-giáo thì ngày trẩy xuất là 16 tháng 7 năm 1 (662). Địa điểm đầu tiên Đức Mahomet đến là Quốc nhưng Ngài không dừng ở đó. Ngài cùng đoàn tùy tùng tiến về mạn Bắc-Quốc, đến bộ lạc An-Najjar. Tại đây Ngài có một đệ tử hiến dâng một khu đất và các môn đồ khác phụ xây nhà cửa cho Ngài. Ngôi nhà nầy qua bao biến thiên sau ngày Đức Mahomet và các bà vợ qua đời trở thành mốt-kê (mosquée) tức nhà để cầu nguyện.
6.- Không việc quan trọng nào mà Đức Mahomet không làm với môn sinh. Trong cuộc trẩy xuất khỏi La Mecque đến Medine, Ngài phái đệ tử dọn đường trước và khi đi, Ngài đi với đại đệ tử Abu-Bakr. Hai thầy trò lùm đùm gian khổ, trốn chui trốn nhủi buổi ban đầu.
Cuộc thánh chiến bắt đầu từ năm 621, lúc bấy giờ Đức Mahomet đã năm mươi mấy tuổi rồi, về đường mưu trí thì phong phú song về sức khỏe chắc chắn ông phải đặt mọi hy vọng nơi các đệ tử. Ông tập trung mấy chục môn đồ cốt cán lại, trình bày vai trò thần thánh của mình, hỏi ý kiến của họ, phân trần cùng họ các nỗi khó khăn, tha thiết kêu gọi tâm chí của họ. Họ hưởng ứng hết. Thế là Đức Mahomet tuyên bố: "Từ đây thầy trò mình sống chết với nhau. Chúng ta sẽ là bàn tay của Chúa Allah. Ai chống chúng ta là chống Allah. Ai qui phục chúng ta sẽ được hưởng hai thiên đàng: dương thế và hậu kiếp".
Sau cuộc họp tham mưu có tính cách uống máu ăn thề đó, Thầy trò Mahomet bắt đầu cuộc thống nhất lãnh thổ Á-Rập và cuộc xâm lăng vô tiền khoán hậu trong lịch sử loài người.
7.- Đức Mahomet là một thiên tài trong việc đào tạo môn đệ. Ai trách ông gì thì trách song phải phục tài ông ở chỗ ông sản xuất những đệ tử vừa bản lĩnh vừa trung thành. Nội cái hoàn cảnh chông gai hồi mới khai đạo tại La Mecque, rồi qua Medine và trong các cuộc viễn chinh, đủ làm cho ta thấy các đệ tử của ông là hạng người nào.
Họ điều binh khiển tướng, phát triển kinh tế, tổ chức hành chánh, truyền bá văn hóa Á-Rập mà trong bụng thuộc làu Coran, trên đầu luôn thờ Chúa Allah và không phút nào không bị tôn sư Mahomet ám ảnh. Tướng Akhah đến bờ Đại-Tây-Dương chĩa gươm nói: "Không có mi thì vinh quang của Allah còn tủa ra mọi nơi trên mặt đất".
Nếu không ý thức vai trò của tình sư đệ biến thành tình hiệp tác keo sơn, người ta khó giải thích được tại sao chỉ trong vòng 10 năm mà Đức Mahomet truyền bá đạo của ông toàn cõi Á-Châu đồng thời thống nhất được đất nước. Chúng ta biết Đức Mahomet lớn lên giữa cảnh thờ đủ thứ tượng thần. Người Á-Rập chia ra không biết bao nhiêu là bộ lạc sống biệt lập, du mục thờ thần riêng và mỗi thần có một đền thờ. Mỗi bộ lạc có vị thần, song tất cả đều tôn kính đền Kaaba tại La Mecque. Điện nầy được coi là Thánh điện vì chứa Hắc-Thạch và những tượng thần. Tương truyền rằng khi Ismael và Agar lạc trong sa mạc thì thiên thần Gabriel làm cho hòn đá nọ vọt nước ra cho hai người ấy giải khát. Rồi cũng chính thiên sứ ấy mang hòn đá đó cho họ gối đầu ngủ ban đêm. Thoạt tiên nó trắng song dần dần tội lỗi trần gian làm cho nó đen.
Tượng thần thì có 360, tượng trưng cho 360 bộ lạc. Hằng năm, người Á-Rập đến đền Kaaba thờ lạy các thần nầy cũng như thờ lạy Chúa của Abraham. Vì phản đối điều đó mà Đức Mahomet lập đạo cổ võ độc thần. Ngài giảng 11 năm, kết quả là hạ bệ được đa thần song La Mecque nổi lên chống Ngài ác liệt. Ngài và các đệ tử sang Medine. Ban đầu Medine đón tiếp Ngài nồng hậu nên nó trở thành địch thủ của La Mecque. Thừa thế thắng lợi Đức Mahomet chuyển hướng giảng đạo bằng ngôn từ thành các trận thánh chiến trước hết là chống La Mecque. Vì đó hai thành mịt mù khói lửa. Sau 8 năm lìa bỏ La Mecque, Ngài cùng đệ tử và những bộ đội tay cầm kinh Coran nhơn danh Allah tay cầm gươm giáo huy hoàng trở về La Mecque. Ngài tiến thẳng vô đền Kaaba. Sau khi chiêm bái Hắc-Thạch, Ngài ra lệnh đập nát hết 360 tượng thần trong đền thờ. Rồi Ngài trở về Medine tiếp tục cuộc xâm lăng của Hồi-giáo.
Thực hiện ngần ấy việc gây thù chuốt oán, chắc chắn Đức Mahomet không thực hiện một mình. Không có tình thầy trò, các đệ tử làm sao chịu nổi vô số gian khổ với ông. Ta không đặt vấn đề hành vi của Ngài công tội thế nào. Ta chỉ lưu ý ở đây sức hấp dẫn của cá nhân Ngài đối với đệ tử và lòng trung thành của đệ tử đối với Ngài. Trước khi qua đời tại Medine, Ngài trối trăn cùng các đệ tử: "Các con hãy truyền bá Allah khắp cùng thế giới". Thực y như Đức Giê-Su sai các đệ tử. Mặc dầu nhiều dư luận công kích từ đời tư đến các trận xâm lăng của Ngài, song đệ tử của Ngài thì sắt son một lòng thương mến thầy, coi mất thầy như mất cha. Đến thế kỷ 13, đại đế quốc Hồi-giáo to bằng đế quốc César lẫn đế quốc A-Lịch-Sơn đại đế cộng lại.
Hình ảnh Mahomet chôn sâu trong 400 triệu tín đồ Hồi-giáo thế nào, triệt tiêu chế độ đa thần hữu hiệu làm sao, thống nhất Á-Rập và các quốc gia từ sông Indus đến bờ Đại-Tây-Dương bao la thế nào thì khối tình sư đệ của Đức Mahomet và các đệ tử của Ngài vĩ đại thế nầy.