← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VIII TÌNH THẦY TRÒ CỦA HUYỀN-TRANG VÀ GIỚI-THIỀN PHÁP-SƯ CỦA -FRANÇOIS XAVIER VÀ IGNACE DE LOYOLA-(Tình thần thánh là động cơ của tiến bộ tôn giáo.)

1. Bạn đọc kỹ bộ Tây-Du-Ký rồi chứ? Bạn chỉ dùm tôi trong lịch sử nhân loại, có ai làm một việc vĩ đại mà được cả dân tộc của họ thần thoại hóa đời mình, hành động gian truân gần như vô tiền khoán hậu của mình, vào một bộ tiểu thuyết, bộ Tây-Du-Ký, được đọc mê say từ lê thứ đến vương giả rồi được dịch sang hằng mấy chục ngoại ngữ trên thế giới. Một người mà toàn bộ cuộc đời trong trắng như đóa hoa sen, từ ấu thơ dốc tâm tu hành, làm một cuộc thỉnh kinh, khổ cực đắp thành núi, công phu chứa thành biển, vậy mà trước khi viên tịch dặn kỹ môn đồ rằng: "Thầy mất rồi đừng chôn cất linh đình. Hãy quấn thi hài Thầy trong một chiếc chiếu rồi lựa nơi tịch liêu nhất mà chôn". Một người khi đi vào lòng đất một cách thánh thiện rồi để lại cho dân tộc mình trên 1000 quyển sách lập thành 75 bộ và vô số tài liệu nhận xét tại chỗ, ghi chú chính xác về địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, chính trị, cổ tích của miền Trung-Á và của Ấn-Độ. Một người đã làm giàu cho từ điển Trung-Hoa trên dưới 35.000 danh từ mới lạ, đã tỏ lòng biết ơn Thầy nên dịch bộ "Đại-Thừa khởi tín luận" từ tiếng Tàu sang tiếng Phạn. Đây là bộ sách của Ấn-Độ viết bằng tiếng Phạn mà lâu đời thất lạc, chỉ còn bản dịch tiếng Trung-Hoa nay được dịch lại tiếng Phạn. Một người mà tại quê hương của Đức Phật, tại nguồn suối của Phật-giáo được một đại tăng trụ trì. Chùa Nâlandâ, bảo tự và đại học đường xưa nhất, lớn nhất của Ấn-Độ, tổ chức nghinh tiếp trọng thể, lại được đại tăng già 106 tuổi không còn thuyết pháp nữa mà nay bảo rằng thần linh báo mộng phải thuyết pháp lại cho thượng khách. Thưa bạn người đó chính là Huyền-Trang và Đại-Tăng đó là Cilabhadra.

a) Cilabhadra là ai?

Cilabhadra ta dịch theo Tàu là Giới-hiền Pháp-sư, là một bực tu hành gương mẫu và là một học giả trứ danh thời bấy giờ tại Ấn Độ. Như đã nói trên, ông trụ trì chùa Nâlandâ, và một ngôi chùa có trước Công niên đâu cả hai thế kỷ. Đại cổ tự nầy ở giữa một khu vực bao la, cảnh trí thơ mộng, nhà cửa nguy nga. Hàng tăng lữ trong đó từ lâu nổi tiếng là những bực chân tu và học cao hiểu rộng. Trong chùa có một thư viện khổng lồ chứa chất thiên kinh vạn quyển, tủ sách Phật kinh đến các loại sách thuốc và sách khoa học như địa lý, chiêm tinh, bói toán v.v... Dưới sự lãnh đạo của Giới hiền Pháp sư, chùa Nâlandâ vốn lừng danh càng nổi tiếng hơn nữa về tu học và về kỷ luật nghiêm khắc. Đã trên nửa thế kỷ thuyết pháp, đào tạo môn đồ, Giới-hiền Pháp-sư khi trên trăm tuổi không còn giảng kinh nữa. Nhưng tương truyền là Giới-hiền Pháp-sư trước khi Huyền-Trang đến đã nằm mộng thấy thần linh cho biết ông sở dĩ được sống lâu là để chờ gặp một bực cao tăng Trung-Hoa đến hầu truyền các lễ tế vi nhất của Phật pháp. Khi nghe tin Huyền-Trang đến chùa Nâlandâ, Giới-hiền Pháp-sư như trẻ lại, tổ chức rước tân khách vô cùng long trọng. Huyền-Trang khi gặp Giới-hiền Pháp-sư quì xuống bái chào và xin làm đệ tử.

b) Huyền-Trang là ai?

Theo học giả Grousset trong cuốn "Theo vết chân Phật" (Sur les traces de Bouddha - Plon xuất bản) thì Huyền-Trang sinh năm 602 tại huyện Lộ-Châu tỉnh Hà-Nam của Tàu. Ông là con út của Trần-Tuệ một nho sĩ quí phái, đầy tiết tháo. Thời Huyền-Trang ra đời là thời Nho giáo ở Trung-Hoa đi xuống mà Phật-giáo thịnh hành. Chùa chiền mọc lên như nấm. Hàng tăng lữ được chính quyền lẫn dân chúng kính trọng và hưởng nhiều bảo lộc. Ông quy y tại chùa Tịnh-Độ hồi 13 tuổi. Tính nết thuần nhã, trí tuệ thông minh, lại hiếu học, cầu tiến nên Huyền-Trang được thầy bạn trọng quí. Từ lúc quy y, Huyền-Trang đêm đêm ngày ngày nghiên cứu kinh Phật. Ông bỏ ra gần 20 năm đi cùng khắp Trung-Hoa để tìm giáo lý chân truyền của Đức Phật. Nhưng ông thấy ở đâu cũng không làm ông vừa ý. Kinh Phật chất hằng núi mà đem đối chiếu nhau thì đầy mâu thuẫn. Thứ dịch mờ ám, thứ dịch sai, thứ gia thứ giảm, không còn biết đâu là học thuyết nguyên truyền của Đức Thích-Ca. Ông đâm ra ý nghĩ: phải sang tận quê hương Đức Phật để thỉnh kinh mới mong khỏi tu hành lạc lối. Huyền-Trang bắt đầu học tiếng Ấn-Độ và nhứt định đi Ấn-Độ cho kỳ được. Đến năm 28 tuổi tức năm 629, Huyền-Trang bắt đầu cuộc thánh du vạn lý. Nếu sánh cuộc du hành truyền giáo của thánh François Xavier thì tuy ông không đi nhiều nước như nhà truyền giáo nầy, song công lao xuất du thì kham khổ của cả hai đều đáng khâm phục. Ban đầu ông đi ra khỏi Trung-Hoa tức từ Trường-An đến Ngọc-Môn-Quan rồi đến biên-thùy Trung-Hoa Ấn-Độ là Kapica. Ông sang Ấn Độ, đi cùng khắp "xứ đạo huyền bí" nầy. Không nhà tu lừng danh nào ông không đến. Không bảo tháp nào trứ danh ông không vào. Cuộc tìm đạo thỉnh kinh của ông kéo dài trong 16 năm nghĩa là đến 44 tuổi ông mới về nước. Nhưng đánh dấu lịch sử quyết liệt nhứt trên cuộc hành hương của ông là việc ông gặp được Giới-hiền Pháp-sư, mà ông coi là bực thầy lý tưởng. Cuốn Kinh Huyền-Trang được đại tăng tôn sư giảng là cuốn Du già luận tức bộ sách xương sống của thánh kinh nhà Phật. Hết công trình thỉnh kinh của Huyền-Trang trong chuyến đi mười mấy năm, khắp 128 xứ ở Trung-Á, ngày ngày đêm đêm tu niệm, dịch sách, soạn kinh, tất cả đều được chi phối bởi tinh thần chân tu và sáng suốt của tôn sư Cilabhadra. Ta thử tưởng tượng nếu Huyền-Trang không gặp được thầy ông thì bao nhiêu gian khổ nghe nói đến bắt hãi hùng của ông, bao nhiêu cố gắng cầu học của ông có được đi đến kết quả như ông để lại cho đời vậy không. Ôi! Tình thầy trò quan trọng quá, cao siêu quá.

2.- Còn bạn có biết một tổ chức tu hành gọi là đạo binh Giê-Su (Compagnie de Jésus) thành lập tại La-Mã năm 1540 do một nhóm nhà thông thái của Đại-hoc Paris mà thủy tổ là Ignace de Loyola không? Đó là đạo binh tu hành sản xuất Alexandre de Rhodes với chữ quốc ngữ của ta hay Teilhard de Chardin với thuyết tiến hóa toàn diện làm chấn động thế giới hiện nay đó. Đạo binh Giê-Su người ta hay gọi bằng danh từ phổ thông là Dòng Tên. Việc thành lập tổ chức vừa thánh thiện vừa thông thái vĩ đại nầy, buổi sơ khai, dựa trên một mối tình thấy trò vô cùng lý thú. Đó là cặp thầy trò Ignace de Loyola và François Xavier.

a) Ignace de Loyola, thủy tổ Dòng Tên là ai?

Don Inigo Lopez de Recalde sinh lối 1941 và mất lối 1556. Là con nhỏ nhất trong gia đình 11 con. Ông ấy tên là Ignace vì lòng sùng kính thánh Ignace d'Antioche. Lúc trẻ học hành rất ít. Đời sống trôi nổi trong đủ thứ nghề. Năm 1521, ông đang ở trong quân đội, bị gãy một chân. Lúc nằm quân y viện, buồn quá, không sách tiểu thuyết đọc, ông đọc đỡ cuốn Légende dorée của Jacques de Voragine. Đây là một cuốn sách thuộc loại tu đức lấy đời sống các thánh nhân làm gương. Thấy gương các thánh nhân cao cả quá, Ignace tự hỏi lòng mình: "Tại sao tôi không làm được như những thánh François và Dominique. Từ đó ông quyết định bỏ nghề hiệp sĩ nhà binh và nhất định làm hiệp sĩ cho Thượng-Đế.

Năm 1522, lành vết thương ở chân xong, ông đến thánh đường Notre-Dame de Montserrat, làm một cuộc sám hối, xưng tội tổng quát. Áo choàng ngoài, Ignace cho một người ăn mày. Thanh gươm ông treo ở bàn thờ Đức Maria trong thánh đường. Ông quyết định hiến dâng cuộc đời còn lại trọn vẹn cho Thượng-Đế. Ignace bắt đầu soạn tác phẩm trứ danh của ông là cuốn Linh-thao (Exercices spirituels). Tiểu ngữ mà ông nêu ra để phục vụ suốt đời là "Vì đại vinh của Thượng-Đế" (Ad Majorem Dei Gloriam). Sau đó, ý thức rằng muốn truyền bá chân lý trong các giới trí thức mà văn hóa kém không được, Ignace mới bắt đầu làm lại vốn kiến thức của ông. Về điểm nầy ta thấy ý chí sắt đá đến kinh thiên của ông. Ông đi học lại, ngồi chung cùng lũ con nít. Rồi ông học trung học. Rồi ông học đại học ở Alcala và Salamanque. Năm 1528, Ignace quyết định đến Paris để vào học đại học Sorbonne. Ông ở tại Paris 7 năm để vừa học vừa chiêu dụ môn đồ. Ông đỗ dần dần từ tú tài, cử nhân lên đến cấp bằng gọi là "Thầy nghệ thuật" (Maître ès arts). Hằng ngày ông sinh sống bằng cách đi ăn mày ăn xin. Công trình lập chí của ông đáng khiếp quá. Lúc ở Paris, Ignace tụ tập được 6 môn đồ mà nổi bật nhất là François Xavier. Ngày 15-8-1534, Thầy trò ông kéo đến thánh đường Saint-Denis-de-Montmartre tuyên thệ trọn đời sống nghèo khổ, độc thân để phục vụ Thượng-Đế. Ignace đặt tên cho tổ chức của ông là: "Xã hội Giê-Su: Société de Jésus" và đặc biệt là ông đặt tổ chức dưới quyền sử dụng của Tòa Thánh. Bởi vậy bạn thấy Dòng Tên ngoài ra 3 lời tuyên thệ thông thường như các dòng tu khác là Thanh-bần, Tuân-phục, Độc-thân còn thêm tuyên thệ thứ bốn là: Tuân-phục Giáo-Hoàng. Ý nghĩa thẳm sâu của tiếng Đạo binh Giê-Su mà Ignace đặt cho Dòng Tên của mình là tu sĩ được coi như những khí giới, theo lệnh Giáo-Hoàng để bài trừ các tà thuyết, bảo vệ Giáo hội và truyền bá chân lý. Lúc ở La-Mã, Ignace thụ phong linh mục và thực hiện thánh lễ mở tay ngày Noël năm 1538 tại nhà thờ Sainte-Marie Majeure. Ignace tiếp tục soạn bản hiến chế cho Dòng tu của ông. Khi hiến chế xong, ông dâng lên cho Giáo-hoàng Paul III phê chuẩn. Đọc xong Giáo-hoàng vui mừng cực độ, nói: "Ngón tay của Thượng-Đế ở đây". Năm 1540, Giáo-hoàng ban hành sắc chỉ Régimini Militantis Ecclésiae để phê chuẩn hiến chế của Dòng Tên.

Thoạt đầu, Ignace qui tụ chỉ được 6 môn sinh. Đến lúc Dòng tu chính thức hoạt động, ông cùng đồ đệ đắc lực nhất là François Xavier chiêu tập được 60 tu sĩ. Ngày 7-4-1541, thể theo tinh thần của Dòng Tên là chiến đấu cho chân lý, thứ tinh thần quân đội mà hướng về kháng chiến chống tà thuyết, các tu sĩ bầu Ignace làm Tổng-tư-lệnh Đạo-binh Giê-Su. Từ đó Dòng Tên phát triển nhảy vọt. Sau ngày Ignace qua đời tức ngày 3-7-1556 Dòng Tên lên đến số ngàn tủa ra các nước trên thế giới và thịnh hành cho đến ngày nay. Đức Giáo-hoàng Grégoire XV tôn Ignace lên hiển thánh ngày 12-3-1622 và tôn thánh nhân làm Bảo-chủ các công tác siêu nhiên từ năm 1922.

b) François Xavier là ai?

Ông là cánh tay mặt của Ignace trong việc thành lập Dòng Tên và là cán bộ xuất sắc nhất của dòng ấy trong việc truyền giáo đầu tiên ở Đông phương. Ông sinh 1506 và mất 1552. Thuộc loại tính đam mê và được hướng về việc thiện. Cho tới chết, vẫn còn hăng say hoạt động kinh khủng. Hồi thanh xuân, ông sống cuộc đời phóng túng, háo danh và dĩ nhiên cũng theo bẩm tính là đam mê trong việc xấu. Nhưng đến khi phục thiện rồi, François trở thành một anh hùng.

Năm 19 tuổi, ông đến Paris học rồi ở đó đến 11 năm. Lúc học thần học tại Saint-Barbe, ông gặp tôn sư Ignace de Loyola. Nhờ vĩ nhân nầy mà François quyết định ly khai nếp sống quá khứ để trở thành khí giới của chân lý. Ông cùng 5 đồng chí khác và tôn sư tuyên thệ ngày 15-8-1534 như đã biết ở trên. Ông thụ phong linh mục do lịnh của Giáo-hoàng Paul III ngày 24-6-1537. Hoàng-đế Jean III của Bồ-Đào-Nha muốn có một số nhà truyền giáo vào Ấn-Độ để phổ biến văn hóa và chân lý tu đức. Thấy không ai xứng đáng xung phong trong công việc sẽ gặp đủ thứ gian truân như vậy, Ignace gởi con gà số một của mình là François Xavier. Nghe lời tôn sư, François lãnh trách nhiệm. Một mặt ông định truyền bá chân lý, mặt khác ông tiếp tay với tôn sư mở rộng tầm hoạt động của Dòng Tên. Ông thực hiện sứ mệnh bằng đời sống thanh bần. Ông từ chối hết các ân huệ hay phương tiện không cần thiết cho nhiệm vụ của ông. Ông làm một cuộc viễn du gian khổ như Huyền-Trang thỉnh kinh đất Tây-Trúc vậy. Trên bộ ông đi chân không. Trên đường biển, ông chịu cam go với các điều kiện thời tiết khí lạnh nứt da, khí nóng vuột da. Đến đâu ông nhắm trước hết người nghèo khổ và bịnh hoạn để giao tiếp, giúp đỡ, an ủi họ. Ngày quần quật làm việc, ban đêm ông thức khuya cầu nguyện. Cuộc du hành truyền đạo của François cũng là một thứ truyền kỳ như của Huyền-Trang. Ngày 7-4-1541 ông đi từ Lisbonne, đến Goa là tháng 5 năm 1542. Rồi ông đến mũi Camorin phía nam Ấn-Độ. Ông ở bờ biển nầy 3 năm sinh hoạt với đám dân chài lưới và chinh phục họ về chân lý. Sau đó ông đi Idonésie, qua Malacca rồi đến quần đảo Moluques. Năm 1549, ông đến Nhật-Bản. Ông cũng định qua truyền giáo ở Trung-Hoa song trên một hoang đảo nọ ông qua đời ngày 3-12-1552. Như vậy trong 10 năm, ông đã lội gần khắp miền Cực Đông. Quả thực ông là một thứ Huyền-Trang Tam-Tạng của công giáo. Người ta không tưởng tượng nổi mức độ gian khổ của từng bước chân của ông. Độc đáo nhất là đi đến đâu, ông đều lập được một cộng đồng tính hữu nhiệt thành đến đó. Các cộng đồng đó phát triển tồn tại cho đến bây giờ. Nếu Huyền-Trang đến Ấn-Độ học Phạn ngữ, viết sách bằng Phạn ngữ thì, François Xavier trong 10 năm lội nát miền Cực-Đông, đến nước nào là học tiếng nước ấy để truyền giáo. Người ta nói ông có thiên phú đặc biệt vệ sinh ngữ. Ông tạo tín đồ lên đến mấy chục vạn nhưng sau cùng trên đường truyền giáo hăng say ông chết trên một đảo hoang vắng với một môn đồ, ít ai hay biết. Lạ lùng là không biết vì sao thi hài ông không hư thúi. Vài tuần sau đó người ta đem về chôn trọng thể tại Goa. Năm 1619, Đức Giáo-hoàng Paul V phong ông á thánh và năm 1622, Đức Giáo-hoàng Grégoire XV phong ông Hiển thánh và ông được bầu làm Bảo chủ các miền truyền giáo.

III. Đối chiếu Huyền-Trang và François Xavier.

1) Bạn thấy 2 vĩ nhân của hai tôn giáo lớn nhứt hoàn cầu là Huyền-Trang và François Xavier, phục vụ cho hai tín ngưỡng khác nhau, người đi vùng Trung-Á, người lội sạch Cực-Đông, cả hai đặt chân lên Ấn-Độ mỗi người du hành, làm việc gian truân mỗi kiểu mà cùng giống nhau ở chỗ đời sống tuyệt vời trong sạch, thánh đức và sống chết cho lý tưởng tìm chân lý. Mẫu số chung nổi bật nhứt nơi hai vĩ nhân là ai cũng nhờ công thầy mà làm nên nghiệp cả. Thầy Huyền-Trang nhờ Cilabhadra và François Xavier nhờ Ignace de Loyola.

2) Huyền-Trang say mê ánh đạo vàng của Đức Phật mà làm một cuộc vượt biển băng rừng thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu, may nhờ tôn sư dẫn đạo tinh thần mà thu kết quả vĩ đại. Đến nay chưa ai ngồi biên soạn kinh Phật được số lượng bằng Huyền-Trang. Ở Trung-Hoa chưa tác giả nào ảnh hưởng vào các tiểu thuyết truyền bá khắp dân gian bằng Huyền-Trang. François Xavier nhờ thầy chỉ cho nẻo tu theo Đức Giê-Su mà cùng thầy thành lập một Dòng tu oanh liệt nhất thế giới, mà nghe lời thầy làm một cuộc du thuyết truyền giáo vĩ đại thuộc loại của Thánh Paul ngày xưa ở thời đại ta, được mấy người giàu lòng nhiệt tâm truyền bá chân lý Phúc-âm bằng François Xavier? Rồi trên đường truyền giáo, ngay cả các tu sĩ cùng một Dòng với ông, được mấy kẻ sống thanh bần gương mẫu bằng ông.

3) Cả hai đều nhờ thầy mà ý chí truyền giáo trở thành sắt đá. Huyền-Trang hấp thụ tinh thần của Giới-hiền Pháp-sư chẳng những lo biên soạn, phiên dịch kinh sách mà còn đi biện giáo ngay tại Ấn-Độ nữa. Ngày nọ, có một tín hữu Bà-La-Môn chắc vì lòng ganh tị với Huyền-Trang, đem yết thị trước chùa Nâlandâ một bản gồm 40 lý luận về đạo rồi thách thức nếu ai bài xích được điều nào thì ông ấy tự trảm đầu tỏ ra thán phục. Đó đây không sư tăng nào bắt bẻ được điều gì. Huyền-Trang thấy ông ấy vừa hổn láo vừa đưa ra những tà lý nên xin tôn sư là Giới-hiền Pháp-sư cho phép đấu lý để làm sáng tỏ Phật pháp. Cuộc đấu lý diễn ra quyết liệt sau cùng người tín hữu Bà-La-Môn đầu hàng và xin tự trảm đầu tạ tội. Huyền-Trang can gián bảo rằng bực tu hành không nên sát sinh và tín đồ ấy từ đó coi Huyền-Trang như bực minh sư.

Lần khác, Huyền-Trang thuyết pháp trọng thể tại dinh của vua Harsha ở Kanaj. Tín đồ của cả hai phái Tiểu-Thừa và Đại-Thừa tập hợp nghe ông đông như kiến cỏ. Vua Harsha sốt sắng lòng đạo đến đỗi lấy bài của Huyền-Trang công bố cho dân chúng, lại thách rằng ai tìm ra điều nào sai thì được trảm đầu vua. Lại thách trảm đầu nữa. Qua cả nửa tháng mà phái Tiểu-Thừa và Bà-La-Môn không ai bắt bẻ Huyền-Trang được điều gì. Vua Harsha mừng rỡ như lên tiên, ra lệnh ban cho Huyền-Trang đủ thứ ân huệ và của cải châu báu. Còn chính nhà vua cũng bố thí hết các bảo vật trong đền vua. Nhưng các vua chư hầu mua hết các tặng vật ấy lại. Vua Harsha nhờ Huyền-Trang mà từ đó có lòng dứt khoát được các ham muốn trần tục và trở thành một minh quân. Dĩ nhiên là Huyền-Trang càng làm một ngôi sao càng có không biết bao nhiêu quân thù. Đó cũng là trường hợp của François Xavier. Khi François đi rao giảng Phúc-âm, đụng đầu với không biết bao nhiêu tà thuyết và ông suýt mấy lần bị ám hại. Huyền-Trang còn bình yên trở về cố quốc chứ François thì bỏ thây cô quạnh ở xứ người.

4) Một đồng điểm giữa hai bực tu hành khả kính là luôn được tôn sư theo sát hành động để yểm trợ tinh thần. François tuy lao mình vào các hiểm địa xa cách tôn sư Ignace ngàn vạn dặm song luôn luôn giữ đúng cương lĩnh Dòng Tên và thực hiện đúng tinh thần cuốn Linh-Thao mà Ignace là tác giả. Các phúc trình của François về cho Ignace và các bức thơ Ignace gởi cho ông nói lên thầy trò ông tuy xa mặt mà lòng như hình với bóng.

Huyền-Trang lúc thuyết pháp tại Ấn-Độ luôn luôn được thầy là Giới-hiền Pháp-sư cố vấn hay chứng giám nhứt là những lúc đấu lý ác liệt với các phe tà thuyết.

5) Hồi lúc François cùng thầy là Ignace thành lập Dòng Tên đã có lúc cùng thầy sang Jérusalem viếng thánh địa, quan sát những nơi Đức Giê-Su từng trải qua giảng đạo, làm phép lạ, những nơi Ngài bị bắt, bị xử tử hình và chịu đóng đinh. Cuộc hành hương ấy gia tăng nơi François lửa thiêng truyền bá Phúc-âm. Cũng như François, Huyền-Trang lúc ở Tây-Trúc đã từng viếng thánh địa của Phật-giáo. Ông hớn hở khi đặt chân trên Cabilavê là nơi Đức Thích-Ca ra đời, trên Xá Vệ là nơi Ngài thuyết pháp. Ông hân hoan khi đến Banaila nơi Đức Phật thành đạo. Ông bồi hồi cảm động như ngồi trên tòa sen khi viếng chùa Đề-La-Gia để chiêm ngưỡng gốc Bồ đề. Ông ngậm ngùi khi đến Kusinagara nơi Đức Phật giả từ dương thế. Cuộc hành hương đầy ý nghĩa nầy đã khắc tạc trong tâm địa Huyền-Trang những kỷ niệm thâm trầm, như ánh lửa nung nấu thêm nhiệt huyết truyền bá Phật pháp nơi ông.

Tóm lại: Ta thấy trong bất cứ sự nghiệp lớn lao nào, trong đó có sự nghiệp truyền giáo, tình thầy trò quan trọng quá. Nó là động cơ của mọi tác hợp lớn lao của người muốn chung vai sát cánh truyền bá chân thiện mỹ. Ta chưa kể từ Huyền-Trang đến François Xavier mỗi người có những đệ tử riêng. Ta chỉ mới kể họ, và các tôn sư của họ thôi. Có thể nói tình thầy trò đã tạo họ thành một quỷ đạo nhân sự keo sơn trong lý tưởng, tha thiết nhau trong chân tình, can trường khi chiến đấu, đùm bọc nhau khi lâm nạn và tất cả đều xá kỷ, hy sinh cho chân lý và hạnh phúc nhân loại.