CHƯƠNG IX TÌNH THẦY TRÒ CỦA ALBERT LE GRAND VÀ THOMAS D AQUIN- (Trò là đầu thai của Thầy)
Thầy đã vĩ đại mà trò còn vĩ đại hơn. Đó là trường hợp của Albert Le Grand được gọi là tiến sĩ thế giới (Doctor universalis) và Thomas d'Aquin được gọi là tiến sĩ thiên thần (Doctor angélicus). Trong đại học, trò bị ganh tị, ngạo nghễ bằng biệt danh "Con bò đực cổ câm của Sicile". Thầy binh trò, nổi cộc nói: "Phải, người ta có thể gọi nó là con bò bởi vì nó rống những tiếng thông minh vang dội khắp Đại học". Nếu thế kỷ 13 nói riêng, thời trung cổ nói chung là nhịp cầu nối túi khôn thời thượng cổ với túi khôn của các thời cận đại, hiện đại thì chính Albert Le Grand và Thomas d'Aquin là hai trụ đồng của thế kỷ 13 hay của thời trung cổ vậy. Có thể nói Thomas d'Aquin là cái vương miện danh dự cho Albert Le Grand. Chắc bạn muốn biết coi con người mà bộ óc hút được hết tinh hoa của óc Aristote, con người mà đã từng làm cố vấn thần học cho 7 trào Giáo-hoàng trong suốt đời mình, con người mà thi hào Dante trong cuốn Hài kịch thánh gọi là nhà Thần triết học vĩ đại nhất, con người mà hồi hộp cộng đồng Trente, trên bàn thờ, tác phẩm.
Tổng lược thần học để cạnh cuốn Thánh kinh, con người mà ngày 18-7-1323 khi được tôn lên hàng hiển thánh đã được Giáo-hoàng Gioan XXII nói về mình: "Hết các bài thánh nhân viết đều là phép lạ". Con người mà vừa nghe tin mình ly trần, Đại-học Paris trong bức thư phân ưu viết: "Đấng Quan Phòng chỉ gửi Thomas cho thế giới bằng một ân huệ đặc biệt và cũng chỉ trong một thời thôi những ai cũng tin rằng ông có mặt trên dương trần là để khám phá cho thiên thu nhưng bí mật của trần thế", người mà có lần vua thánh Louis dành cho danh dự ngồi trên ngai vàng của mình, người mà thưa bạn, sau khi đã dùng ngòi bút xây cho mình một Hi-Mã-Lạp-Sơn sách, có lúc buồn và theo tài liệu của Sertillanges, nói: "Tôi không viết nổi nữa. Hiện giờ tất cả những gì tôi viết, tôi coi như rơm rác", con người ấy, chac ban muon biet xu doi voi ton su minh the nao.
I. HAI VĨ NHÂN - ALBERT LE GRAND VÀ THOMAS D'AQUIN
A. ALBERT LE GRAND LÀ AI?
1.- Tiểu sử Albert:
Ông sinh năm 1193 tại Lauingen trong gia đình bá tước De Bollstadt và qua đời năm 1280 tai Cologne. Lúc xuân thời Albert học Văn hóa tại Padoue. Đến năm 1223, vào tu viện Dominique. Nơi đây nền học vấn của ông được nặng về khoa học và nhờ thường du lịch đó đây nên tài năng của ông phát triển nhanh chóng. Chính ông cho biết năm 1240 ông quan sát sao chổi tại Saxe và đi nhiều nước để nghiên cứu về các loại kim khí. Thời đó mà như vậy kể ra thực xuất chúng. Năm 1228, Albert dạy thần học tại Cologne rồi từ đó đi làm giáo sư môn ấy cho nhiều nơi khác.
Tại Paris năm 1245, Albert lãnh chức giáo sư thực thụ về thần học. Nhờ tài giảng huấn sâu sắc, hấp dẫn, ông nổi danh khắp Âu-Châu. Môn đồ của ông rất đông. Trong đó lỗi lạc nhất là Thomas d'Aquin, người đã thụ giáo với ông từ năm 1245-1248. Đang khi làm giáo sư, Albert soạn nhiều sách khoa học, triết học. Đến 1256 thì tác phẩm soạn xong nhưng Albert cứ để sửa đi sửa lại cho thực vừa ý. Năm 1248, khi Albert trở về Cologne người ta cũng thấy Thomas d'Aquin theo học nữa với ông.
Năm 1252, Albert đề nghị với thượng cấp cho người học trò xuất sắc của ông là Thomas được thi Tú-tài. Bằng cấp nầy hồi thế kỷ 13 có giá trí đặc biệt về nhân bản học khác hẳn bằng Tú-tài thời nay. Từ 1254 đến 1257, Albert lãnh trách vụ bề trên giám tỉnh tại Đức nên ông nhẹ về nghiên cứu song nặng về hoạt động và tổ chức. Năm 1256, được lệnh Giáo-hoàng tranh luận chống học thuyết của Averroès. Lúc nầy ông viết cuốn De unitate intellectus (Toàn nhất của trí khôn). Từ 1257-1260, Albert trở lại nghề giáo sư. Người ta gặp ông năm 1259 tại Valenciennes. Nơi đó ông cùng môn sinh xuất chúng của ông là Thomas d'Aquin và Pierre de Tarentaise hợp soạn chương trình giáo dục mới cho Dòng tu Dominique. Từ 1260 đến 1262, Albert làm giám mục tại Ratisbonne. Từ 1260 đến 1265, ông thường ở La-Mã với Thomas d'Aquin. Sau đó người ta thấy ông giảng cho thập tự quân tại Bohême. Năm 1277 học thuyết của Thomas bị tấn công, Albert đến Paris để binh vực học trò của ông. Ngày 15-9-1280 ông tạ thế tại Cologne.
2.- Đặc điểm của Albert:
1.- Là người uyên thâm các khoa học đời:
Albert chủ trương học các khoa học và triết học ngang hàng thần học. Ông chuyên nghiên cứu Aristote và văn hóa Arabe.
2.- Là nhà khảo bình.
Lãnh vực khảo bình của ông là các triết gia cổ thời và các khoa học cần thiết cho thần học.
3.- Là khoa học gia:
Đề cao khoa học thực nghiệm đầu tiên trong làng khoa học. Chú trọng óc quan sát, thí nghiệm và qui nạp giống như Roger Bacon. Thúc đẩy môn đồ quay về thiên nhiên để khảo sát. Ông lặn lội trong các khoa học: địa lý, thiên văn, khoáng chất học, luyện kim học, y học, động vật học, thực vật học. Hai cuốn De Végétatibus (khảo về thực vật) và De Animibus (khảo về động vật) của ông là hai công trình biên khảo trứ danh.
4.- Là triết gia:
Bộ óc của Albert là bộ óc hệ thống hóa. Khi khảo bình Aristote và thuyết tân Platon ông làm việc với phương pháp khoa học. Ong hệ thống hóa lại những gì ông cho là hay hay dở. Ông nặng nề phân tích cũng như về tổng hợp.
5.- Là thần học gia:
Thần học dĩ nhiên là sở trường của Albert. Ông là thầy của thần học suy lý. Ông dùng khoa học và triết học phục vụ thần học. Ông mở đường cho Thomas d'Aquin trên địa hạt nầy.
B.- THOMAS D'AQUIN LÀ AI?
1.- Tiểu sử Thomas:
Thomas sinh lối năm 1224 tại Rocca Secca. Cha người gốc Ý. Mẹ gốc Normands. Ban đầu Thomas học tại núi Cassin. Năm 1239 học đại học Naples. Tháng 4 năm 1244, ông vào tu viện Dominique cũng tại Naples. Năm 1245, sang Paris học triết và thần học. Có lúc ông bị anh em trong gia đình bắt cầm tù cố ý để ông bỏ Dòng tu. Mùa thu năm 1245, ông gặp được tôn sư Albert le Grand. Từ đó đời ông gắn liền với cuộc đời sư phụ. Năm 1248, ông theo Albert đến Cologne. Năm 1252, thượng cấp chỉ thị ông về Paris chuẩn bị sau nầy dạy thần học. Từ năm 1252 đến 1259, Thomas dọn hai bằng Tú-tài gọi là Baccalauréus biblicus (Tú-tài thánh thư) và Baccalauréus sententiarius (Tú-tài đề kiến thư). Sau khi đỗ cử nhân giảng huấn (Licentia docendi) Thomas giữ ghế giáo sư trong tu viện Dominique. Năm 1259, Thomas sang Ý được bổ làm giáo sư trong trường của Tòa-thánh thuộc triều đại Giáo-hoàng Alexandre tại Anagni và thuộc triều đại Giáo-hoàng Urbain IV tại Orvieto. Năm 1269, ông trở về Paris. Ông chống thuyết của Averroes tiếp tay tôn sư là Albert le Grand. Năm 1272, Thomas lại sang Ý nữa, tiếp tục dạy học. Ngày 7-3-1274, ông qua đời tại Fossanova trên đường đi Lyon theo lệnh của Giáo-hoàng để chuẩn bị cho Công giáo nghị. Ông thọ 49 tuổi.
2.- Đặc điểm của Thomas:
a) Là nhà khảo bình:
Người ta gọi Thomas d'Aquin là ông hoàng của triết học kinh viện. Ông là môn đồ của Albert nhưng vượt xa tôn sư. Ông tiếp tục công việc của thầy là nghiên cứu Aristote nhưng ông phân tích, tổng hợp thuyết Aristote đến cao độ. Độc đáo của ông là khảo bình bằng óc sáng tác.
b) Là sử gia:
Ông đọc cẩn thận lại hết triết sử của Hi-Lạp, La-Tinh, Á-Rập, Do-Thái và các thánh phụ của Ky-Tô giáo. Ông phân tích và tổng hợp các học thuyết liên quan đến thần học. Độc đáo là ông làm công việc ấy với phương pháp và tinh thần của một sử gia nên việc làm của ông có sức nặng vững chắc.
c) Là giáo sư và văn sĩ:
Thomas là giáo sư mà tài giảng huấn lên đến cao độ. Hai bộ Tổng-lược ông soạn cố ý làm sách giáo khoa. Còn nói về nghệ thuật viết sách của ông thì cứ nhìn hai cuốn "Tổng-lược Thần-học" và "Tổng-lược chống ngoại giáo" tất biết khả năng siêu quần bạt chúng của ông. Ngòi bút của Thomas là ngòi bút súc tích, chính xác và trong sáng.
d) Là triết gia:
Gần như thừa khi nói Thomas là triết gia vĩ đại. Ông quán tuyệt trong việc sử dụng óc suy lý lẫn óc thực tế. Từ thời Augustin người ta lẫn lộn triết với thần học. Đến Thomas, triết là khoa học tự lập. Nó giúp thần học chứ không lẫn lộn trong thần học. Nổi bật nhất nơi Thomas là óc tổng hợp. Nếu gần hết khôn ngoan thời thượng cổ tập trung vào Aristote thì gần hết khôn ngoan của Aristote tập trung vào Thomas d'Aquin.
3.- Tác phẩm của Thomas:
Tượng trưng một phần cho giá tri của Thomas d'Aquin là đống tác phẩm khổng lồ của ông. Tớ cổ kim, có lẽ Thomas thuộc loại sáng tác nhiều nhất và gây ảnh hưởng nhất trong nhân loại. Dưới đây là mấy tác phẩm căn bản của ông:
1) Loại giáo khoa:
Khảo bình về 4 quyển đề kiến thư
Vấn đề được tranh luận (6 quyển)
Khảo bình Aristote (10 quyển)
Khảo bình Boèce (2 quyển)
2) Loại linh tinh:
Nguyên tắc thiên nhiên
Hữu thể và yếu tính
Tổng-lược chống ngoại giáo
Tổng-lược Thần-học (vĩ đại nhất)
Vĩnh cửu của vũ trụ
Toàn nhất của trí khôn
Toát lược thần học
II.- TÌNH THẦY TRÒ GIỮA ALBERT VÀ THOMAS D'AQUIN:
1.- Thầy lo xa cho trò:
Như bạn đã biết, Albert trong thời đại ông là một ngôi sao khoa học, triết và thần học. Riêng trong lãnh vực khoa học, ông là người đầu tiên có những công lớn về hóa học sau đây: Lọc vàng tác dụng ác-xít ni-trít trên kim-loại, nghiên cứu diêm và pô-tát. Ông còn kiến tạo một hình người nộm đi được và nói được nữa. Thực kỳ lạ một thiên tài ở thời ấy.
Tại Paris, ông gặp môn sinh vừa thông minh vừa thánh thiện: Thomas d'Aquin. Ông đề nghị với thượng cấp cho Thomas học thi các bằng cần thiết để chuẩn bị nghề giáo sư. Thomas muốn có bằng Cử-nhân và Tiến-sĩ để làm giáo sư thực thụ ở đại học. Nhưng lúc bấy giờ kinh sĩ Guillaume de Saint-Amour vốn là linh mục triều không muốn Linh-mục Dòng dạy đại học. Cuộc xung đột bùng nổ to. Các Linh-mục Dòng Đa-Minh nhảy vào vòng chiến chống các giáo sư đại học của nhà nước nào mà theo chủ trương bóp chẹt trên.
Cuộc xung đột ác liệt đến đổi có một sinh viên tử thương. Thomas d'Aquin viết cuốn "Contra impugnantes de cultum et Religionem" để đối đầu lại cuốn "De péricularis novissi morum temporum" của Guillaume de Saint-Amour. Khi Thomas lâm chiến như vậy thì Albert Le Grand ráo riết binh vực cho học trò của mình. Vả lại nếu từ trước Albert không lo cho Thomas thi cử thì gặp cuộc xung đột nầy, con gà của ông chắc cũng yếu thế. Mới hay trên đời có một lão sư phong phú đầu óc tiên kiến tiên liệu là một kho báu.
2.- Thầy xây ổ cho trò:
Sở dĩ Thomas có được bộ óc làm việc theo khoa học, khúc triết lẫn tổng hợp và sở dĩ ông đỡ tốn công buổi đầu trong việc khảo bình triết học, thần học là nhờ sự chuẩn bị lâu năm của Albert-Étienne Gilson trong cuốn "Triết học trung cổ" đã được Larousse du 20e siècle trích tư tưởng sau đây: "Nếu không có công phu phong phú, kinh khủng của thầy thì nhà tổ chức sáng suốt về những ý tưởng tức Thomas d'Aquin phải tốn một phần lớn nỗ lực trên đường nghiên cứu".
Những bài mà Thomas chống Averroès, phần lớn dựa trên những lập luận của Albert. Đọc hai bộ Summa của Thomas, đến mấy chỗ ông nối kết chân lý đức tin với các chân lý của triết Platon, triết Aristote, người ta cảm thấy ngay óc tổng hợp của tôn sư ông là Albert đã từng làm như ông không đến nơi đến chốn bằng ông. Hơn nữa, mặc dầu trong 2 bộ Tổng-lược Thomas vay mượn nhiều ở thuyết Aristote, song cái khuôn lý luận vẫn còn giữ truyền thống của các giáo phụ Hi-Lap. Mà vốn giáo phụ học nầy ai truyền miếng nghề lại cho Thomas, nếu không phải là Albert. Ta thấy với tư cách khảo bình, Thomas làm lại nhiều việc tôn sư đã làm mà một cách đại qui mô hơn nhờ rút kinh nghiệm và dựa trên các tài liệu của thầy mình. Chẳng hạn, Albert đã từng khảo bình Aristote, các tác giả Á-Rập, Do-Thái. Thomas cũng khảo bình lại nhưng về nhiều phương diện hơn, phương pháp tân kỳ hơn. Mà phương pháp nghiên cứu nầy Thomas cũng rút tinh hoa nơi tinh thần khoa học của sư phụ ông vốn là một nhà khoa học tên tuổi thời bấy giờ. Ta đừng quên từ đầu thế kỷ 13, Albert cùng Roger Bacon đã đề cao các phương pháp quan sát, thực nghiệm và qui nạp rồi. Riêng trong lãnh vực giảng huấn thì rõ rệt là Thomas đã được thầy luyện thép từ cả chục năm trở lên. Hàng ngày ông chiêm nghiệm lối giảng dạy rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát của su phụ. Về sau cộng thêm thiên tư cùng vốn học bao la nữa nên Thomas trở thành một ngôi sao sư phạm là phải. Quả thật chân sư tự đầu tư trong minh đệ vậy.
3.- Thầy trò binh vực nhau sống chết.
Năm 1927, khi Thomas giảng huấn tại Paris bị một Giám-mục chỉ trích, Albert lúc bấy giờ đang ở tại Đức, liền về Pháp diễn thuyết và bút chiến binh vực học thuyết của môn sinh mình. Thiệt là hành vi can đảm và ân hậu phi thường. Ta biết lúc ấy là lúc Thomas bị Giám-mục bản quyền tấn công, bị nhiều giáo sĩ cao cấp triều tấn công. Albert cũng là Giám-mục tất có thể nể nang, nếu không phủ binh phủ huyện binh huyện thì cũng khớp miệng trò mình để gọi là giữ hòa khí với các đồng nghiệp. Hơn nữa ta thấy ở đời mấy kẻ lớn gặp nguy mà dám chịu trách nhiệm cho kẻ dưới, dám binh vực cho kẻ dưới bị mất công. Vậy mà Albert biểu lộ tình thầy trò một cách quyết liệt. Ông vừa sáng suốt vừa nhất định binh vực môn sinh của mình. Thì ra vĩ nhân có chung dòng máu, họ biết lựa con đường riêng cho vĩ nhân dễ đi chứ chức quyền, áp lực giai đoạn không dễ gì cám dỗ, mê hoặc họ được. Chẳng lạ gì ngày nay hễ nói đến Thomas là người ta nghĩ ngay Albert hay ngược lại. Cũng y như hễ nói Platon thì người ta không bao giờ quên được Socrate.
4.- Trò là danh dự và nguồn an ủi tuổi già thầy:
Từ hồi thanh xuân, Thomas đã được Albert đào luyện tinh thần và tâm đức. Công gieo giống ấy đã sinh mùa màng rực rỡ nơi Thomas ngoài một thiên tài siêu đẳng còn là một lương tâm thánh thiện sâu cao. Bằng chứng là năm 1323, Giáo-hoàng Gioan XXII đã phong thánh cho ông. Năm 1567, với danh hiệu Tiến-sĩ Thiên-Thần, ông được tuyên nhận là Tiến-sĩ của Giáo-hội và là Đấng bảo hộ các học đường công giáo. Một môn sinh đã từng theo sát cánh mình, ngày đêm ở trong vòng đai ảnh hưởng của mình mà lên chóp đỉnh thành công như vậy, ông thấy có tâm trạng làm sao? Bạn dư biết. Không sợ sai lầm gì hết, trong trường hợp nầy người ta có thể nói coi quả biết cây, thầy nào tớ nấy. Không riêng ở Việt-Nam thời nay, ở đâu và thời nào cũng vậy, lòng người có kẻ đáng khiếp lắm. Dĩ nhiên trong đó có lòng thầy trò. Quá thông thường đến thành tầm thường và hèn hạ là: Dạy trò rồi khinh trò, nghi trò ganh tị với trò, lo dìm trò kẻo sáng hơn mình, tôn trọng kẻ khác hơn trò vì mặc cảm bụt nhà không thiên. Dạy trò mà chỉ nghĩ mua văn bán chữ, mãi lo cái lợi trước lỗ mũi mà không thấy trò đang tiến hóa và năm mươi năm sau trò không còn là người mà mình nghĩ thế nào đó hôm nay. Trong lãnh vực văn hóa khác lãnh vực tài sản, tiền bạc thường người nối chí mình là môn đồ chứ không phải con cháu. Aristote tuy bị Platon không tin tưởng mà không giao quyền viện trưởng Académus một phần nào buồn thầy, có nhiều quan điểm khác thầy nhưng đại để nối được nghiệp thầy. Còn về Pseupissus là cháu ruột Platon đấy mà cho đến bây giờ mấy người biết đến tên chứ đừng nói nối chí nối nghiệp gì? Đó là nói phía thầy. Còn trò thì sao? Còn gì chua chát, mỉa mai bằng học thầy rồi dùng cái thầy dạy chống lại thầy. Học qua mặt thầy rồi quay lại khinh bỉ thầy. Thụ giáo đã rồi nghi kỵ thiện chí, xuyên tạc thiện tâm của thầy. Vì bị thầy sửa lỗi, thù vặt tráo trở, lật lọng lời giáo huấn của thầy để bôi lọ thầy. Cả hai thứ tâm địa thầy trò nói trên đều làm hoen ố tình sư đệ vốn là thứ loài hoa cao nhã, khó trồng mà là danh dự cho con người.
Tóm lại! Mối tình thầy trò giữa Albert Le Grand và Thomas d'Aquin là mối tình thuộc loại siêu đẳng. Từ thầy đến trò đều là vĩ nhân. Hai thầy trò đều là đại thánh của công giáo. Thầy là nhà khảo bình, là nhà khoa học, là triết gia, là thần học gia. Trò cũng đi con đường đó mà vượt thầy quá xa. Cả hai nêu gương sư đệ hậu thế nhờ thầy thương trò hết lòng và xây từng bực thang cho trò thành công. Trò thương thầy hết dạ và càng leo cao cây thang thành công càng quí trọng thầy, binh vực thầy, làm thầy nở mày nở mặt.