CHƯƠNG X TÌNH THẦY TRÒ GIỮA BOSSUET VÀ HOÀNG TỬ LOUIS DE FRANCE- (Trò bất trị là mồ chôn đại chí của trò.)
Thầy tận tình lo cho trò, ý thức đến cao độ nghề làm Thầy, làm giáo sư mà soạn cả một chương trình giáo dục như của một cơ quan nhà nước, nhưng trò chịu ảnh hưởng thầy không bao nhiêu. Tại thầy kém sư phạm chăng? Hay tại tính khí của trò thuộc loại mang di truyền khó dạy. Hay tại hoàn cảnh đầy huyền uy, phú quí làm trò hư. Hay tại dòng máu phát xuất từ cuộc hôn nhân loạn dâm, có nhiều mặc cảm nào đó làm cho trò trở thành bất trị và thầy cảm thấy đành bất lực. Đó là trường hợp của thầy Bossuet và trò Hoàng-tử Louis de France, con vua Louis XIV của Pháp hồi thế kỷ 17.
A.- LAI LỊCH HOÀNG-TỬ LOUIS DE FRANCE:
Vua Louis XIV của Pháp (1638-1715) sau khi được phong vương tại Reims ngày 7-6-1654, thay vì thành hôn hợp pháp, lại đi cưới một người em họ là nàng Marie-Thérèse tại Saint-Jean de Luz ngày 9-6-1660. Như vậy là nhà vua sống trong tình trạng loạn hôn nghịch luật đời lẫn luật đạo vì ông vốn là công giáo. Ông cùng Marie-Thérèse sinh ra Hoàng-tử Louis de France, một dòng máu kết quả của loạn dâm. Louis de France sinh năm 1661 tại lâu đài Fontainebleau, qua đời tại dinh Meudon năm 1711. Theo truyền thống hoàng tộc, người ta gọi ông là Hoàng-tử cả (Le Grand Dauphin) còn người đồng thời gọi là Đức ông (Monseigneur). Vì quá bất tài lại vô đức nên vua cha là Louis XIV không giao cho chức vụ gì quan trọng. Năm 1679, ông kết hôn với Marianne de Bavière, cùng bà nầy có 3 con trai là Louis Công-tước ở Bourgogne, Philippe Công-tước ở Anjou và Charles Công-tước ở Berry.
Louis de France tuy là người tầm thường song được phụ vương giao cho một sư phụ lỗi lạc đó là Giám-mục Bossuet, hùng biện gia số một của Pháp hồi thế kỷ 17.
B.- LAI LỊCH GIÁM-MỤC BOSSUET:
1.- Tiểu sử: a) Là con của một Luật-sư ở tòa án Dijon và Metz, Jacques-Bénigne Bossuet sinh ngày 27-9-1627. Ông là con thứ 7 trong gia đình 11 con sống rất đạo hạnh. Từ nhỏ Bossuet học với các linh mục Dòng Trên. Từ 1642, ông lên Paris học trung học Navarre. Người ta nói lúc còn thanh niên ông đã lui tới Hội quán Rambouillet và một chiều nọ ông làm một bài thuyết giáo xuất sắc tại đó đến nỗi văn hào Voiture phải nói: "Tôi chưa từng nghe thuyết giáo không quá sớm cũng không quá muộn như vậy". Qua tuổi trẻ Bossuet nổi danh về lòng đạo đức lẫn kiên chí học hành. Bạn bè ông hay gọi riêng ông bằng tên riêng Bos Suetusarato, nghĩa đen là: Con bò quen với cái cày. Họ dựa vào tên ông là Bossuet để nhái ra hai tiếng Bos Suetus mà đồng thời tỏ ý khâm phục chí chuyên cần đèn sách của ông. Năm 1650, Bossuet trình một luận án ở Sorbonne và năm 1652 ông đỗ Tiến-sĩ Thần-học. Cũng năm ấy ông thụ phong Linh-mục, rồi lãnh nhiệm sở tại Metz với chức Tổng-Phó-Tế của Sarrebourg. Từ 1652-1659, Bossuet lo bổn phận một Linh-mục tại Metz, trừ một lần năm 1657, ông lên Paris giảng về thánh Paul. Mấy năm tận tụy cho nghề Linh-mục, Bossuet ngày đêm nghiên cứu Thánh-kinh và các Thánh-phụ của công giáo. Ông chưa nghĩ đến sự nghiệp văn chương nhưng vô tình ông đã chuẩn bị sâu sắc cho sự nghiệp ấy. Trên địa hạt hùng biện, Bossuet đã bắt đầu nổi tiếng do các bài thuyết giáo soạn công phu và trình bày nghệ thuật của ông. Ông chuyên về tán điển văn (Panégyrique) và văn tế.
b) Năm 1659, năm đánh dấu sự nghiệp vinh quang trong làng hùng biện của Bossuet: ông lên Paris mà vẫn không bỏ những chức vụ ở Metz. Ông giảng ngày hai bài tán điển văn về Thánh Joseph và Thánh Thérèse trước sự chứng giám của bà Hoàng-thái-hậu, mẹ vua Louis XIV. Ông cũng giảng hằng loạt bài nhân mùa chay và mùa vọng tại nhà thờ chánh tòa Paris. Danh tiếng ông nổi như cồn. Từ 1659 đến 1669, Bossuet liên tiếp thuyết giáo hết đọc văn tế đến đọc tán điển văn. Nhiều người đạo Tin-lành trứ danh trở về công-giao do ba tấc lưỡi của ông. Chẳng hạn như Turenne, bà De Bouillon, v.v... Độc đáo nhất là Bossuet triền miên nghiên cứu.
c) Năm 1669, Bossuet thụ phong Giám-mục.
Năm 1670, Vua Louis XIV chọn ông làm Thái-sư cho Hoàng-tử Louis de France.
Năm 1671, Bossuet đắc cử vào Hàn-lâm-viện Pháp.
Vì quá bận dạy dỗ Hoàng-tử, ông phải từ dịch nhiều công việc vừa kết quả giáo dục theo dư luận chung là gần như vô ích vì tâm tính Hoàng-tử chứng nào tật nấy còn thêm bẩm phú quá tầm thường nữa. Trường hợp thất bại của Bossuet trong giáo dục quả là điều làm cho nhiều nhà giáo dục để ý rằng không phải ai mình dạy cũng nên đâu. Đất sỏi đá dù gieo giống tốt, bón phân, tưới nước đến đâu vẫn không đâm chồi, trổ quả được. Đáng khen chỉ là thiện chí của ông thầy thôi. Từ 1670 đến 1680, Bossuet mắc bù đầu bù óc với Hoàng-tử nên giảng thuyết rất ít. Trong các năm 1669 và 1670, ông đọc hai bài tán điển văn kiệt tác đó là bài về Henriette de France và bài về Henriette d'Angleterre.
d) Trách vụ làm thái sư xong, Bossuet bắt đầu một nhịp đời hoạt động mạnh. Ông cho xuất bản các sách ngày trước biên soạn để dạy Hoàng-tử. Ông lãnh chức vụ Giám-mục tại thành Meaux năm 1681, làm việc đạo quyết liệt. Do đó ông trở thành đối tượng ganh tị, bôi lọ của người khác đạo và người cùng đạo mà lạc hậu. Năm 1681, nhân Đại-hội Giáo-sĩ Pháp, ông đọc một diễn văn khai mạc trứ danh. Diễn văn nầy là thuyết văn độc nhất của ông được xuất bản mà ông coi như một tuyên ngôn. Năm 1688, Bossuet cho chào đời cuốn "Lịch sử biến thiên của các giáo hội thệ phản". Từ đó ông còn xuất bản nhiều tác phẩm khác về biện hộ giáo. Ông viết không biết bao nhiêu thư từ giao dịch với các nhân vật tên tuổi trong và ngoài nước. Ông cũng nổi danh về loại thư tín hướng dẫn kẻ khác nhứt là linh hướng. Bossuet qua đời ngày 12-04-1704 trong khi đang đầy nhiệt huyết hoạt động. Nói theo kiểu Saint-Simon là ông chết mà "khí giới đang sẵn trong tay".
2.- Tâm tính: Nếu dựa vào các bài diễn văn, văn tế đầy uy nghi lộng lẫy hay dựa vào sự quyết liệt lúc ông chống Fénélon nhân vụ Quétisme mà phán đoán tâm tính Bossuet thì sai trớt. Ông vốn là người nhân hậu, hiền hòa và luôn gây thiện cảm với bất cứ ai đến với ông. Nội việc ông chịu đựng can trường giáo dục Hoàng-tử đủ chứng minh tâm tính đầy thiện chí và nhẫn nại của ông. Ông chỉ khẳng khái, dứt khoát khi phải binh vực chân lý hay khi thấy tà thuyết đang phá hoại tâm hồn kẻ khác. Đối với các nhân vật của đạo Tin-lành ông cư xử tuyệt vời lễ độ, cao nhã. Khi chống Fénélon ông cũng chỉ dùng những diễn văn biểu lộ nhân cách mã thượng. Một khía cạnh vàng son nữa của tâm tính ông là ông luôn làm việc với lương tâm: từ dạy học, giảng thuyết đến viết sách, Bossuet luôn nghiên cứu, sưu tầm tài liệu phong phú, đến nơi đến chốn. Ông luôn đối xử chân thành với mọi người, ngay cả đối với nhà vua mà lắm lúc ông thấy không mấy lương thiện. Các thư từ ông gởi cho nhà vua đều là những bài học khuyến vương rất giá trị. Có thể nói ông vừa là nhà văn vừa là luận lý gia mà óc phán đoán luôn theo lương tri, chính trực vì chừng mực. Lương tri nổi bật nơi ông chứng tỏ ông là người quân bình và dồi dào nhân tính.
3.- Tài nói: Phải nhận Bossuet thuộc nòi giống của những thần hùng biện nhập thể như Demosthenes, Cicéron, Crassus v.v... Ông tự nhiên có khẩu tài. Ông ứng khẩu còn hơn người ta chuẩn bị chảy mồ hôi. Sở trường của ông là đọc những tán diễn văn và những văn tế. Trong lịch sử nhân loại, cho đến bây giờ chưa ai hạ nổi Bossuet về đọc văn tế. Ông không chú trọng làm văn chương khi soạn diễn văn cũng như khi ứng khẩu, song tự nhiên ông trở thành một nhà văn thuộc loại cổ điển gương mẩu thế kỷ 17. Trong cuốn "20 bài về nghệ thuật viết văn" Antoine Albalat khuyên nên luyện văn theo Bossuet và Pascal. Khi nói, Bossuet không muốn người ta nghe ông để giải trí hay để thưởng thức khoa nói một cách phù phiếm. Ông nói là ông dồn hết chân lý vào óc tim thính giả. Lòng say mê truyền bá sự thật trở thành khí giới hùng biện vô cùng cuốn hút của ông. Ngay những nhân vật của Port Royal là những thính giả khó tánh nhất, vừa gắt gao về lý thuyết vừa ti mỉ về nghệ thuật nói trước đám đông, mà cũng phải phục tài hoạt bát từ nội dung đến hình thức của "con phụng hoàng thành Meaux". Nghe Bossuet nói, người ta cảm thấy như bị ru hồn. Lời và giọng văn của ông có cái mà những nhà phê bình gọi là âm điệu tự tình phát xuất du dương như cung điệu của chiếc đàn Lyre. Có kẻ định nghĩa tính chất văn nhạc nầy là sự diễn tả say mê, gợi ảnh của những tâm tình cá nhân mà dựa trên những đề tài có tính cách công cộng. Điều nầy thực lạ nơi Bossuet vì bạn quá biết thế kỷ 17 ở Pháp là thế kỷ của lý trí, của lý luận, của lối suy luận theo phương pháp khuôn thước của Descartes. Bossuet lý luận bằng đàn Lyre thành công chắc tại biết cho sương tình cảm rơi đúng mấy mảnh đất lý lẽ đã làm quá khô khan cằn cỗi chăng?
4.- Tài viết: Ông thuyết giáo bằng văn viết lẫn văn nói. Ông bút chiến. Ông viết sử. Ông viết thư từ đủ loại. Nội dung ngòi bút của ông là chân lý rút ra từ các tác giả La-Hi, từ Thánh kinh, từ kho vô tận của các Thánh phụ. Hình thức ngòi bút của ông là gợi cảm xúc và hấp dẫn cao độ. Bình phẩm bút pháp của Bossuet, nhà phê bình nổi tiếng gắt gao Buffon nói: "Tư tưởng cao, cảm động sâu và diễn tả hay".
Bài học có thể rút ra từ bút pháp của Bossuet là bài học của những đức tính cổ điển tối cần cho văn bất hủ: Viết chính xác, viết tự nhiên, viết biến hóa, viết độc đáo. Văn nói thì nhịp nhàng, lý luận mà đam mê, uy nghiêm mà không lố bịch, thực tế mà nhiệm bí, cân đối mà không khách sáo. Đọc hay nghe Bossuet người ta vừa thấy bổ dưỡng óc não vừa say mê tâm hồn.
C.- TÌNH THẦY CỦA BOSSUET ĐỐI VỚI TRÒ HOÀNG TỬ:
Như bạn đã biết là Giám-mục Bossuet đã bỏ ra 10 năm trời chuyên dạy Hoàng-tử Louis de France. Nghĩa là từ 1670 đến 1680, ngoài chức vụ tôn giáo kể như ông dồn hết hoạt động cho việc giáo dục chí tử công phu nầy. Ông từ dịch luôn trách vụ ở tòa Giám-mục nữa bởi lẽ không thường hiện diện ở đó. Công lao rèn luyện của ông như trời biển mà kết quả theo hai Thạc-sĩ Abry và Audic là Hoàng-tử quên sạch. Trong lịch sử giáo dục của nhân loại, tôi chưa gặp trường hợp nào kỳ lạ như vậy! Bạn nghi ngờ phương pháp giáo dục cùng nhiệt tâm của Bossuet chăng? Nhiệt tâm thì chắc khỏi bàn nơi ông rồi như tôi đã chứng minh ở trên. Còn muốn biết phương pháp thụ nhân của ông thì không gì hay bằng đọc lại bức thư bằng La-ngữ ông gửi ngày 8-3-1679 cho Đức Giáo-hoàng Innocent XI. Trong đó ông trình bày chương trình ông dạy Hoàng-tử.
1.- Thầy chuẩn bị cho trò vốn học uyên bác:
Chương trình ghi trong thư nói trên gồm:
1) Nghiên cứu tôn giáo: (Giảng giải Thánh-kinh và giáo sử).
2) La văn: (Văn phạm, thực tập, đọc các tác giả cổ điển).
3) Địa lý: (Chú trọng các phong tục).
4) Lịch sử: (Nặng về sử Pháp).
5) Triết học:
6) Luật pháp:
7) Vạn vật học:
8) Vật lý học:
9) Toán học:
Để thực hiện chương trình bao la nầy, Bossuet có các phụ tá thường xuyên tiếp tay ông. Đó là các ông Montausier, Huet, Fleury và Bloudel. Như vậy là Bossuet lập riêng cho Hoàng-tử một thứ trung học lai đại học rồi chứ còn gì. Có cả một ê kíp giáo sư. Môn học thì không thiếu thứ gì từ văn chương, khoa học đến triết lý, thần học. Người điều khiển trường không phải chỉ biết chỉ huy mà lăn vào dạy hơn hết các giáo sư.
2.- Thầy dạy như chẻ óc trò nhét chữ vào:
Không phải Bossuet dạy dỗ lơ mơ mà dạy như chẻ óc Hoàng-tử nhét cái khôn vào. Hãy nghe chính Bossuet kể với Giáo-hoàng Innocent XI về công dã tràng của ông chẳng hạn về môn sử: "Chúng tôi đọc lớn tiếng cho Hoàng-tử nghe cố ý cho ông dễ nhớ. Chúng tôi bắt ông lặp lại: ông phải trả bài viết bằng tiếng Pháp rồi bằng tiếng La-tinh. Làm vậy coi như ông tập dịch ra ngoại ngữ. Xong rồi chúng tôi sửa cả Pháp-văn lẫn La-văn cho ông. Ngày thứ bảy ông phải đọc lại hết những bài ông đã viết suốt tuần qua".
Riêng về tiếng La-tinh, không phải Bossuet cho Hoàng-tử học trích từng đoạn của từng tác giả mà cho học "toàn bộ và liên tục". Các môn quan trọng hay những phần quan trọng của từng môn đều do chính Bossuet giảng bài, kiểm bài.
3.- Thầy soạn cua (cours) thành sách dạy trò:
Dạy Hoàng-tử, không phải Bossuet chỉ dùng sách giáo khoa có sẵn hay dạy theo cảm hứng ứng khẩu mà soạn bài công phu, viết thành bản thảo sách giá trị. Các tài liệu nầy, sau khi chấm dứt nghề làm thái sư và sau khi qua đời, được in thành sách.
Đó là cuốn:
Khảo luận thế giới sử (1681)
Chính trị học rút ra từ Thánh-kinh (1709)
Khảo luận về biết Thượng-Đế và biết mình (1726)
Xét về phương pháp biên soạn của từng loại sách trên đây, người ta có thể sánh với thời nay cho là kém giá trị. Nhưng xét về tài liệu tra cứu, về công phu biên soạn, về lập luận và về lối hành văn thì ai cũng phải nhận là những tác phẩm thuộc hạng có sức nặng. Người ta còn nhìn thấy một Bossuet triết gia trong khi ông viết sử nữa. Không phải là sai nếu nói ông là tiền hô của Montesquieu.
4.- Tại sao mà trò trời ơi đất hỡi như vậy?
Ta thử tưởng tượng làm giáo sư cho một người mà phải một văn hào, một Tiến-sĩ thần học, một Giám-mục như Bossuet với 10 năm giảng dạy chuyên cần! Nhưng không biết bộ óc Hoàng-tử ra sao mà chữ nghĩa vô không nổi. Tội nghiệp thật. Desgranges nói về con vua không đáng làm vua nầy: "Hoàng-tử có bộ óc nặng nề, đần độn và dường như ít lợi dụng các bài học của một thái sư như vậy". Mà đâu phải tại vì dạy con vua rồi Bossuet nể nang không dám rầy la, trừng phạt đâu. Lúc làm thái sư, Bossuet vừa là Giám-mục, là văn sĩ lỗi lạc, là hàn lâm học sĩ và đặc trách đào tạo Hoàng-đế tương lai nên có uy thế đối với nhà vua lắm. Hai bức thư mà Bossuet gởi cảnh cáo vua Louis XIV nhứt là bức thư đề cập việc vua loạn dâm, chứng tỏ ông dám ăn dám nói. Đối với phụ vương còn vậy huống hồ đối với Hoàng-tử, Bossuet lúc cần thiết sửa trị tưởng đâu có ngán gì. Hãy nghe Bossuet nói với Hoàng-tử về việc học ngữ Pháp: "Hoàng-tử đừng tưởng chỉ vì lỗi những luật ngữ Pháp thông thường mà người ta phải đi rầy nặng Hoàng-tử. Chắc chắn là rất nhục nhã cho một con vua là kẻ phải có trật tự trong hết mọi việc lại phạm những lỗi như vậy. Song tôi nhắm việc cao hơn khi phải giận thế ấy: bởi vì không phải tôi trách chính cái lỗi mà trách cái tật vô ý, nó là nguyên nhân của lỗi. Tật nầy bây giờ làm Hoàng-tử lẫn lộn lời nói song nếu tôi để quái tật ấy thâm căn thì khi cần sử dụng, không phải lời nói mà chính các công việc, thì bấy giờ Hoàng-tử đảo lộn mọi trật tự. Bây giờ Hoàng-tử lỗi luật ngữ-pháp, sau nầy Hoàng-tử coi rẻ lẽ phải. Bấy giờ Hoàng-tử đặt trật ngôn từ, sau nầy Hoàng-tử đặt sai công vụ: Hoàng-tử thăng thưởng thay vì phải trừng phạt. Sau nầy Hoàng-tử sẽ làm cái gì cũng lộn xộn hết nếu từ tuổi trẻ, Hoàng-tử không tập óc chú ý, không tập chế ngự tật chia trí, lơ lửng và nhứt là không tập suy tưởng nghiêm chỉnh điều Hoàng-tử phải làm" (Thư gửi Louis de France).
Ai đã từng nghi ngờ thiện chí cùng khả năng giáo dục của Bossuet, nghe mấy lời trên chắc phải sám hối. Tôi thấy xưa nay ít có thầy nào viết thư cho trò mà vừa thẳng thắn, tâm huyết, sáng suốt vừa lo cho tương lai của trò như vậy. Đọc qua trích dẫn của bức thư bạn cũng có thể đoán được Louis de France, Hoàng-tử cả, thuộc loại tâm tính nào? Nhìn vào tranh vẽ của Coysenox chưng ở điện Versailles in trong Larousse du 20e siècle, thì đoán tạm là ông thuộc loại người lâm ba, mặt béo trông chắc thích ngủ hơn là suy tính. Đoán vậy thôi chứ không thể võ đoán được. Thấy Bossuet rầy rà rằng ông quá lơ đểnh, vô ý đến gần như đần độn. Thực tội nghiệp cho một con vua mà như vậy. Tóm lại! Ta thấy Bossuet đúng là một bực thầy đúng với sứ mệnh thụ nhân. Nơi ông nổi bật là lòng đạo đức, óc uyên bác và phán đoán thông minh nhứt là giàu lương tri, làm việc có phương pháp và tận tâm lo lắng cho trò tiến bộ. Còn trò không biết sao mà như vậy. Vì không có tài liệu nhiều về đời tư của Hoàng-tử cả nên không dám trách tâm tính của ông. Nhưng nếu quả đúng như sử sách cho biết rằng cả chục năm giáo dục của Bossuet bị ông cho đi đời nhà ma hết thì những ai làm nghề sư phạm nên suy nghĩ. Theo Trần-Hoàng-Mưu thì ai giáo dục cũng được. Theo thiện chí nhà giáo thì ai cũng phải giáo dục. Theo lý tưởng làm thầy thì trò càng khó dạy thầy càng có cơ hội tỏ ra tài ba xuất chúng của mình. Các lý nầy trúng hết. Nhưng trong thực tế, qua kinh nghiệm, ta thấy có một số ca (cas), nhà giáo dục nào thành thực với mình đều phải đầu hàng. Dĩ nhiên dạy thì dỡ hơn không dạy. Có học thì dỡ hơn không học gì hết. Nhưng trong đời dạy học không đáng kể gì của tôi, tôi thấy có nhiều trò bất trị hiểu theo nghĩa vô phương uốn nắn nổi. Nhiều khi vô lớp mình nhìn họ mà thương họ hơn các trò khác, nhứt là khi nghĩ đến tương lai có thể như đêm trường hắc ám của họ. Thường các trò đó là những loại người mang đâu tận đường gân thớ thịt, đâu tận sát đáy của tiềm thức hoặc là sự đần độn ngu si, hoặc là tính khí xấu tự bản chất, hoặc là lòng tự ái vô biên, hoặc là óc phán đoán tự nhiên sai lệch, hoặc là ăn nói, cư xử tự nhiên dáng lối vô duyên, hoặc là lương tâm tự nhiên ngã về cái ác. Bạn để ý điều nầy: nếu lỗi lầm mà lâu lâu xảy ra hay cố ý phạm mà biết nghe lời cảnh tỉnh, lo phục thiện thì nhà giáo dục ít lo. Nghề của họ là sửa dở dạy hay mà. Nhưng trúng thứ lỗi gọi là lỗi của tính khí, lỗi do di truyền, lỗi đâm rể trong kẹt óc, tiềm thức thì nếu không có ơn Trời Phật, nhà giáo phải co tay, thưa bạn. Gặp nhưng nộ tính khí như vậy ớn quá. Kinh nghiệm giáo dục cho bạn thấy rằng có nhiều trò nghe lời ta lúc học với ta, lúc còn thiện cảm với ta, đến lúc xa ta hay có gì bất mãn ta, họ trở về con người cố hữu của họ và chứng nào hoàn tật nấy. Cho số học trò nói trên, nhiều lúc tôi có cảm tưởng giáo từ như một lớp vỏ bọc ngoài cái cốt xấu của họ. Vỏ đó thấm vô cốt ấy không nổi. Đôi khi lại chọc tức họ, làm họ hiểu ngược, thi hành ngược lại các lời giáo huấn nữa. Mà như vậy thì thôi, nguy hiểm vô cùng vừa cho họ vừa cho kẻ dưới tay trong đời họ. Bởi vì họ sẽ khinh thường mọi chỉ giáo, sửa chữa, họ còn ngăn cấm kẻ thuộc về họ học hỏi, tiến bộ nữa. Đáng rùng rợn nhứt là khi một học trò vừa có cốt ngu, cốt xấu mà có thêm cốt tự ái và xấu bụng. Họ dùng tự ái như thanh trì bảo vệ lỗi lầm của họ. Họ dùng bụng dạ ác độc chống lại thầy. Nhiều khi họ sai quấy, thầy rầy họ không lo sửa lỗi mà lo trả đũa thầy. Còn thứ trò vừa thờ thần tự ái vừa sái trí nghĩa là chuyên môn phán đoán bậy bạ thì thôi: không biết Chúa và Phật hiện xuống một lượt dạy họ nổi không. Bạn thương họ, không nỡ để họ hư, rầy họ, họ cho rằng bạn ghét họ, mặc cảm xấu về họ, xử oan ức cho họ. Còn nếu dung túng lỗi lầm của họ, sợ họ ghét, bạn không nói thì lương tâm của một lương sư dày xéo bạn. Tôi không biết Bossuet khi dạy Hoàng-tử cả có gặp các trường hợp điên đầu trên không? Vô phước thay cha mẹ nào rủi sinh con bất trị.
Cũng vô phước thay thầy nào gặp trò bất trị.
Và vô phước nhất những trò nào vốn bất trị mà không biết mình bất trị, luôn chống đối ai lo làm cho mình hết bất trị. Dĩ nhiên vừa vô phước vừa khốn nạn chồng đống cho những ai thuộc quyền lãnh đạo chỉ huy của kẻ vốn là con người bất trị và cầm quyền một cách bất trị.