← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XI TÌNH THẦY TRÒ GIỮA FÉNELON VÀ CÔNG-TƯỚC BOURGOGNE- (Thầy giỏi chưa chắc trò nên.)

Lại một vĩ nhân nữa làm Thầy cho Hoàng-tử. Đó là Fénelon, môn đệ của Bossuet, Tổng-Giám-mục tại Cambrai, làm thái sư cho Hoàng-tử Công-tước Bourgogne, con của Hoàng-tử cả, vốn là học trò của Bossuet. Nếu Bossuet dạy vua cha 10 năm kể như thất bại thì Fénelon dạy vua con 6 năm coi như thành công. Cả hai học trò đều thuộc loại khó dạy. Trò Hoàng-tử cả, vua cha đây thì đần độn đến bất trị. Còn trò Hoàng-tử, vua con tuy không hắc ám như phụ vương song cũng là cái kho tật xấu.

Hai thái sư có nhiều điểm đồng dị đặc biệt. Mẫu số chung của cả hai tôn sư là con người đạo đức, đều là Giám-mục, là văn hào lỗi lạc, là học giả uyên thâm. Ông nào cũng viết sách dạy học trò, cả hai đều dạy dỗ chí tử công phu, dạy con vua mà không ngán rầy la, thương trò như cha thương con, coi trò như gà nòi tương lai đầy hy vọng của mình. Còn dị điểm giữa hai vĩ nhân là đâu? Khá nhiều cái khác nhau giữa Bossuet và Fénelon như ta sẽ có dịp thấy ở các mục sau.

Sự kiện Fénelon làm sư phụ cho Công-tước Bourgogne cung cấp cho ta rất nhiều bài học thâm thúy về đạo sư đệ y như trường hợp của Bossuet và Hoàng-tử cả.

A.- HOÀNG-TỬ CÔNG-TƯỚC BOURGOGNE LÀ AI?

1.- Lai lịch:

a) Bạn còn nhớ chứ? Vua Louis XIV của Pháp lấy em họ là Marie-Thérèse đẻ ra Louis de France thường gọi là Hoàng-tử cả (Le Grand Dauphin). Ông nầy cưới Mariaume de Bavière đẻ ba con trai: Louis Công-tước Bourgogne, Philippe Công-tước Anjou và Charles Công-tước Berry. Bossuet vốn là thầy của Fénelon, làm thái sư cho cả ba Công-tước nầy. Mà thường người ta hay nói đến Công-tước Bourgogne nhiều hơn, vì ông quan trọng trong chính trị thời bấy giờ hơn hai ông em. Vả lại trong việc thụ giáo ông dính líu với Fénelon hơn hẳn hai bào đệ.

b) Hoàng-tử Bourgogne sinh tại điện Versailles năm 1682 và qua đời cũng tại đó năm 1711. Ông là con trưởng nam của Hoàng-tử cả. Sư phó (Gouverneur) của ông là Công-tước Beauvilliers. Sư phó là một chức quan đặc trách dạy dỗ, bảo hộ con vua. Còn thái sư của ông là Fénelon. Ông lập gia đình với bà Marie Adélaïde, sinh hai con trai: Công-tước Bretagne và Công-tước Anjou tức là vua Louis XV. Công-tước Bourgogne ly trần sau bà vợ vài ngày do một chứng bịnh truyền nhiễm.

2.- Tâm tính:

Fénelon khi dạy Công-tước Bourgogne, viết cuốn Télémaque làm sách giáo khoa trong đó mô tả ông qua nhân vật Mélante, đọc thấy tính tình ông khủng khiếp quá. Bạn biết danh từ Mélante kết thành bởi tiếng Hi-Lạp có nghĩa là Hắc-Hoa ngụ y diễn tả tâm tính tối đen của Hoàng-tử. Dưới đây là mấy nét tả chân của Fénelon về học trò của ông. Ông bắt trò dịch ra La-văn (cũng theo kiểu Bossuet) vào mấy lúc trò vui. Lối mô tả nầy bạn cũng thấy trong cuốn Les Caractères của La Bruyère nghĩa là đưa ra câu hỏi rồi dồn dập trả lời. Fénelon đại khái tả: "Cái gì xảy ra cho Mélante (tức Hoàng-tử)? Chàng ngủ dậy. Đôi giầy vải nhăn một chút cũng làm chàng bất mãn. Cả ngày nổi giông tố. Ai cũng phải khổ vì chàng. Chàng làm tình làm tội. Chàng khóc y như con nít. Chàng tru rống như sư tử... Cái gì giúp chàng giải trí, chàng chê chán hết. Chàng tìm cách nói ngược kẻ khác, than thở, khích bác ai nấy. Chàng bực dọc sao thiên hạ không nổi giận. Lắm lúc chàng đấm đá trên không giống hệt một con bò rừng, sừng bén ngót nổi khùng đá gió. Rồi khi thấy không có lý gì tấn công kẻ khác thì chàng quay lại tấn công mình. Chàng tự phiền trách, tự thấy mình không cái gì tốt hết. Chàng thất vọng. Chàng muốn cô độc mà lại một mình chịu không nổi. Chàng tìm đám đông rồi lại dám chống lại đám đông. Thấy chàng vậy, ai nấy đều làm thinh. Chàng bắt ghét thứ thinh lặng đó. Người ta nói thì thầm, chàng tưởng nói xấu chàng. Người ta nói to tiếng, chàng cho như vậy là già hàm. Chàng buồn thảm trong khi ai nấy vui cười. Người ta buồn, chàng tưởng là trách móc lỗi lầm của chàng. Thiên hạ cười, chàng tưởng ngạo nghễ chàng. Làm sao bây giờ? Tánh quái đản nầy đến cũng như đi. Khi nó đến người ta tưởng đó là cái lò-xo máy móc tự động. Không còn biết nổi ngày đêm gì cả cho một đầu óc mang quái tính như vậy. Rồi vầy mới ly kỳ nữa chứ: không ai biết chàng muốn hay không muốn. Chàng hăm dọa. Chàng run lên. Chàng trộn lộn cái cao cả buồn cười với cái đê hèn bất đáng. Chàng khóc. Chàng cười. Chàng giậm chân. Chàng nổi lôi đình. Trong mấy lúc thiên lôi nhập chàng đến nổi khùng như vậy, chàng hài hước, hùng biện, tế nhị... Có thể chàng dung thứ cho một số người nào chàng thích chăng? Không. Tật quái gở của chàng không nới tay cho một ai hết. Rủi cho ai đến gặp mặt chàng đầu tiên. Chàng làm mích lòng hết mọi người. Chàng không thương ai hết. Người ta bắt bớ chàng, phản bội chàng, chàng không kể gì hết. Mà rồi bạn sẽ thấy một cảnh khác diễn ra: chàng cần hết mọi người. Chàng yêu thương. Người ta cũng yêu thương chàng. Chàng nịnh bợ hết những ai không làm khổ chàng. Chàng tự thú lỗi, cười chê tật kỳ dị của mình, làm ngược lại mình... Cái trò trên diễn xong bạn tưởng ít ra chàng sẽ không hì hợm như vậy nữa phải không. Than ôi! Bạn lầm. Chàng sẽ diễn ra nữa, chiều nay, sáng mai, mãi mãi mà không bao giờ chịu sửa mình". Đọc mấy dòng trên, bạn có điên cái đầu không! Đó là tôi toát lược mấy nét chính trong một đoạn của Télémaque chứ Fénélon còn mô tả nhiều chi tiết nữa của tính rắc rối đến cao độ của Công-tước Bourgogne. Còn đây bạn hãy tưởng tượng tánh nết của con ngựa chứng có máu hoàng tộc đó dưới ngòi bút của Saint-Simon: "Bẩm sinh khủng khiếp cứng đầu, nóng nảy đến cực độ, thô bạo như điên, khó tính vượt mực, tự nhiên nổi cơn hung ác, dã man một cách ngạo nghễ". Đấy! Thưa bạn, trong bàn tay giáo dục của Fénelon một học trò tâm tính nghe qua ai cũng hoảng hồn như vậy đó.

B. FÉNELON LÀ AI?

1. Tiểu sử:

a) Tại lâu đài Fénelon, ở Périgord, François de Salignac de la Mothe-Fénelon sinh năm 1651, trong một gia đình vốn sang trọng mà nghèo. Ông nặng lòng đạo, vào chủng viện Saint-Sulpice rất sớm, có lẽ do ảnh hưởng của Bossuet mà ông vốn là đệ tử. Ông muốn hoạt động tông đồ tại Levant. Song vì kém sức khỏe và nhờ uy tín ủng hộ của Bossuet, ông làm bề trên một cơ quan dạy giáo lý cho các thiếu nữ đạo tin lành trở lại đạo công-giáo, tên là Nouvelles Catholiques (Tân nữ Công-giáo dân). Trong thời gian phục vụ ở đây, Fénelon tỏ ra một giáo sĩ vừa đạo đức vừa có khả năng và ông biên soạn quyển sách đầu tiên nhan đề "Khái luận giáo dục thiếu nữ". Sâu sắc chỉ Nantes, ông lãnh trách vụ truyền giáo giữa các tín đồ Tin-lành ở Aunis và Saintonge.

b) Năm 1689, Sư phó "Gouverneur" của Công-tước Bourgogne là Beauvilliers theo lệnh Hoàng-tử cả, chọn Fénelon làm thái sư cho cả ba cháu nội của Louis XIV nhưng riêng Công-tước Bourgogne là đối tượng ông chú trọng giáo dục nhất. Ông được đề cử lãnh trách vụ nầy phần lớn do giới thiệu của Bossuet vì thấy ông viết cuốn "Khái luận giáo dục thiếu nữ". Tuy là viết cho các nam nữ Công-tước Beauvilliers song có tiếng vang khả quan. Fénelon vui lòng nhận nhiệm vụ mới nầy. Ông thực hiện nó 6 năm. Bạn sẽ thấy ông thành công trong giáo dục và viết nhiều sách bất hủ qua mấy năm ấy.

c) Năm 1693, Fénelon đắc cử vào Hàn-lâm-viện Pháp.

Năm 1695, ông được vinh thăng chức Tổng Giám-mục tại Cambrai. Chính Bossuet tấn phong ông trong nhà thờ Saint-Cyr. Trong thời gian làm thái sư, cũng như Bossuet, ông soạn sách để dạy học trò, đó là các cuốn: Truyện biến ngôn, Đối thoại của người chết, Tê-lê-mạc. Cuộc đời của Fénelon trong chức vụ tôn giáo cũng như giáo dục trôi qua êm đềm, thánh thiện, cần mẫn. Song khi vụ Ái-tĩnh thuyết (Quiétisme) xảy ra và khi xuất bản cuốn Tê-lê-mạc, ông bị Tòa-thánh kết án và bị thất sủng đối với nhà vua. Với vụ Ái-tĩnh thuyết, ông bị kết án rối đạo. Với Tê-lê-mạc, ông bị tố cáo là công kích vua Louis XIV cùng triều đại của vua nầy. Sau các bão tố ấy, Fénelon chuyên lo việc đạo, sống âm thầm trong dinh Tổng Giám-mục ở Cambrai. Nơi đó ngày 7-1-1715, ông qua đời trong bầu không khí đạo hạnh.

2.- Tâm tính:

a) Fénelon có tâm tính hào hoa mà cao nhã, cương nghị mà hiền dịu. Đầu óc thông minh. Ý chí cương quyết nhứt là trong vấn đề học thuyết. Hãy nghe một danh sĩ đồng thời với ông là Saint-Simon mô tả ông: "Người cao ráo, mảnh khảnh, đề đạm, da mét, mũi to. Trong đôi mắt, lửa và thông mình tuôn ra như dòng suối. Khuôn mặt thấy ít có ai giống như vậy và nếu ai gặp một lần cũng khó quên. Nó gồm nhiều nét song các điểm đối nghịch không chống chỏi nhau. Nhìn vào thấy vừa nghiêm nghị vừa bỡn cợt. Diện tướng có vẻ một nhà thông thái, một Giám-mục và một bực vua chúa. Trong toàn con người ông tủa ra tế nhị, hóm hỉnh, duyên dáng, đoan trang, nhứt là cao nhã. Phải cố gắng lắm mới thôi nhìn ông được. Ở đâu, nhờ sự êm dịu ít ai từ chối. Có nghệ thuật làm đẹp lòng một cách nồng nhiệt mà không thấp hèn, quá lố, tầm thường, sái chỗ luôn luôn thích đáng cho từng người. Chung qui, đó là một bộ óc thông minh và là một vĩ nhân." Bạn thấy Saint-Simon tả ông bằng những nét chấm phá mà chú trọng vào các điểm đối nghịch nhau.

b) Có điều lạ trong tâm tính lẫn trong đời Fénelon là gần như hay xảy ra cho ông những kết quả mâu thuẫn. Những kẻ mà ngày trước ông làm họ say mê như Bossuet, Louis XIV, sau cùng là ông làm họ thất vọng. Nhiều người thoạt đầu thán phục đầu óc sâu sắc, khoáng đạt của ông sau cùng chán nản vì những ý tưởng viễn vong của ông. Cái nên gìn giữ được nơi ông là cái hay đẹp trong toàn thể mà điều nầy đúng cho thời đại ông sống hơn là cho chính cá nhân ông. Không biết có phải tại thời kỳ của ông là giai đoạn giao thời mà nhiều mâu thuẫn tập trung nơi ông coi như người điển hình không. Bạn biết Fénelon là một trong những nhà văn tên tuổi nhất của Pháp ở cuối thế kỷ 17. Nếu thế kỷ nầy nặng nề quân quyền, nặng khuôn thước cổ điển thì thế kỷ 18 là thế kỷ của trào lưu dân chủ, cách mạng, say sưa tự do đến thành phóng túng quá độ. Người ta nói thế kỷ 18, thích Fénelon hơn Bossuet. Các trào lưu chống quân chủ, chống giáo hội đưa vào một số đồng điểm của họ với Fénelon. Chẳng hạn Fénelon bị thất sủng đối với nhà vua và Tòa-thánh, Fénelon trong Tê-lê-mạc tỏ ra tự do về chính trị, trong vụ Ái-tĩnh thuyết tỏ ra tự do về tôn giáo. Ông chịu thiệt thòi mà vẫn quảng đại đó vì giáo hội mà cũng vì nhân loại. Qua bức Thư gửi Hàn-lâm-viện, ông tỏ ra nhà phê bình tân kỳ. Cũng có phần đúng mà hình như cách mệnh khai thác hơi quá lố trên xác chết của Fénelon để bẻ quẹo phần nào tinh thần của ông.

c) Đứng phương diện tâm tính học, ta thấy Fénelon có cơ cấu tâm tính thực phức tạp. Chính ông trong thư gửi cho De Mortanar đã tự thú thế nầy: "Tôi không thể cắt nghĩa nội tâm của tôi. Nó ở ngoài tầm tay tôi, nó thay đổi mãi trong tôi. Tôi không thể nói được cái gì là sai cho tôi một lúc sau. Tật xấu căn bản và để thấy nơi tôi là tôi bấu víu tôi và thường thì lòng tự ái quyết định cho tôi." Nói vậy nhưng khi được án lệnh Tòa-thánh trong thông tri ngày 19-4-1699, ông tỏ ra tuân phục hoàn toàn. Từ khi bị thất sủng từ phía nhà vua đến Tòa-thánh và sau khi viết cuốn thư gửi Hàn-lâm-viện ông chỉ lo việc đạo, lo tu đức và dọn mình chết.

d) Nơi Fénelon, nổi bật nhất, là tình yêu. Vì đó đối với tâm hồn giáo sĩ, ông ngã về nhiệm bí. Ông say mê Ái-tĩnh thuyết là phải. Hãy nghe ông nói về ông và tình yêu: "Không yêu không phải sống. Yêu ít là làm tàn cỗi đời sống." Nếu ông không phải là Giám-mục, đọc mấy lời nầy chắc bạn không ngờ là của ông mà chắc tưởng là của một Baudelaire hay một Georges Sand. Dĩ nhiên ở đây ông ngã về tình yêu Thượng-Đế và nhân loại chứ không phải ái tình lứa đôi mặc dầu ông có tướng diện rất lôi cuốn thiên hạ ngắm nhìn.

e) Nơi Fénelon có sức quyến rũ ghê gớm. Hình như ông có sẵn thiên phú làm cho mình được yêu mến. Ông hấp dẫn bằng gương mặt hào hoa, bằng phong độ hoàng phái, bằng bặt thiệp ít ai bắt chước được. Trong quyển "Hồi ký" Saint-Simon nhận xét: "Không ai có mãnh lực làm hài lòng từ tớ đến chủ bằng ông."

Cái nghệ thuật thu tâm khó điêu luyện đó, chính Fénelon trong một bức thư gửi cho người cháu là hầu-tước Fénelon, đã khuyên: "Vẫn phải tự học, tự áp dụng vào trách vụ song cũng phải luyện những cách xử đối và những cử chỉ niềm nở. Đừng vội vàng mà cũng đừng đóng kín quá. Không tìm đến những nhân vật to lớn mà ta có thể tạo ra họ, dùng những hoàn cảnh tự nhiên mua lòng họ." Như vậy là hay chứ hả bạn. Đó là những lề luật căn bản của khoa học xử thế chứ gì? Đọc thư ông, bạn có thấy một chút Dale Carnegie của Mỹ ngày nay hay một chút Lão-tử cương mà nhu của Tàu thời xưa không. Mới nhìn tướng diện có vẻ hào hoa và mới thấy lối xã giao bặt thiệp của Fénelon, nhiều người đồng thời vội tưởng ông là người thuộc loại tình cảm nhu nhược để dẫn dụ. Nếu ông không là Giám-mục chắc người ta có thể nghĩ con người ông thuộc hạng để làm đẹp lòng phái yếu. Nhưng tự bản chất con người Fénelon thế nào. Nhìn chung 6 năm trời ông cần cù giáo luyện một Hoàng-tử tập trung đủ thứ tật xấu như vậy, người ta nghĩ về ông làm sao? Phải nói Fénelon là con người nội cương mà ngoại nhu. Ông dùng nghệ thuật thu tâm để thành chí, để quản trị. Bên trong của ông là bộ óc minh mẫn, là lương tâm thánh đức và ý chí cầm cương điều khiển tình dục. Vì đó bên ngoài của ông tủa ra hào quang lịch sự trong bác ái, khôn ngoan mà không kiêu hãnh mềm mỏng mà nhu nhược. Khi phải chấp nhận chân lý như trường hợp nghe lời Tòa-thánh, ông dẹp tự ái ngay, tuân phục nói theo kiểu Ignace de Loyola là tuân phục như tử thi "ad cadaver". Còn khi chưa phải lúc tuân phục cần thiết, ông vẫn là con người bất khuất một cách cao nhã. Chẳng hạn lúc ông tranh luận với Bossuet về thuyết Ái-tĩnh. Vả lại một người mà giữ luôn được gương mặt bình thản, dịu hiền bao giờ cũng là người tự chủ. Như vậy là họ cầm lái tình dục, không cho biểu lộ bừa bãi... Còn người ai chọc một chút nổi sung la ó cho kẻ non trí được coi là dũng nhân nhưng kỳ thực là thất phu chi dũng.

Họ là nhược nhân không thuộc dòng máu của Fénelon, một mẫu người Saint-Simon nói là một khi đã thâm quyết thì không dễ gì lay chuyển nổi mặc dầu sức phản kháng bao giờ cũng ôn tồn.

3.- Vụ Ái-tĩnh thuyết "Quiétisme": Đầu đuôi việc Fénelon bị Tòa-thánh kết án là thế nầy. Thoạt đầu có một Linh-mục Dòng Tên, tên là Molinos, trong cuốn "Hướng dẫn thiêng liêng" (1672) phổ biến một học thuyết vừa đạo đức vừa luân lý. Theo thuyết nầy thì linh hồn yêu mến Thượng-Đế tuyệt đối cứ an nghỉ tĩnh mịch chiêm ngưỡng Ngài chứ không cần hành đức nữa. Do đó giáo dân mến Chúa là được nghỉ yên. Tiếng Quiétisme bởi tiếng La-tinh Quies là nghỉ. Tôi tạm dịch thuyết ấy là Ái-tĩnh thuyết nghĩa là yêu rồi tĩnh mịch.

Sau khi tung thuyết nầy ra, Molinos bị Tòa-thánh kết án năm 1687. Về sau có một góa phụ tên Guyon cổ võ lại, rủ rê thêm bà Maintenon và Fénelon. Ở Pháp, thuyết Ái-tĩnh tràn lan mạnh tại Saint-Cyr. Bossuet tuy là thầy, là đồng nghiệp thân tín của Fénelon, nhưng vì thấy một tà thuyết đầu độc nhiều người nên chống đối kịch liệt. Ông tổ chức ủy ban cứu xét hết tác phẩm của bà Guyon. Ông cũng thành lập hội đồng bắt buộc Guyon, Fénelon ký thú nhận là sai lầm. Về sau Guyon lái thuyết của bà qua chiều hướng khác chớ không bỏ hẳn nên bị bắt cầm tù tại Vincennes. Fénelon cũng không đầu hàng. Trước khi Bossuet viết cuốn "Giáo huấn về những tình trạng của cầu nguyện" thì Fénelon tung cuốn "Cách ngôn các thánh" để phân trần hơn thiệt và trình bày những cương yếu của Ái-tĩnh thuyết. Bossuet phúc trình tác phẩm của Fénelon qua Tòa-thánh. Thế là bút chiến bùng nổ. Trận giặc chú thuyết diễn ra giữa một Giám-mục thầy và một Tổng Giám-mục trò.

Bàng quan nhìn vào trận địa, người ta thấy Bossuet tuy cao nhã mà rất quyết liệt, dứt khoát cho chân lý, còn Fénelon thì lúc nào cũng ôn hòa, mềm dẻo. Cuốn "Tương quan trên Ái-tĩnh thuyết" (1698) của Bossuet là bom nổ trên Fénelon. Nội vụ được Tòa-thánh xét xử. Trong khi chờ đợi, hai đối thủ thư từ qua lại, đăng đàn diễn thuyết trong phong độ tuy ráo riết mà biểu lộ lòng đạo đức lẫn cao nhã. Thỉnh thoảng Bossuet hơi qua mãnh liệt. Nhiều người trách ông điểm nầy. Trong bụng thì Bossuet tốt song tại quá tự cho mình là một thứ "giáo phụ" nên lắm lúc tỏ ra gắt gao. Thấy Fénelon người ta dễ mến hơn.

Ông tự vệ và có vẻ vừa chiến đấu vừa rút lui êm thắm. Sau cùng Bossuet chiến thắng. Ngày 12-3-1699, Tòa-thánh lên án cuốn "Cách ngôn các thánh" của Fénelon. Một cử chỉ vô cùng đáng phục: vừa được án lệnh của Tòa-thánh, Fénelon dứt khoát hoàn toàn với thuyết Ái-tĩnh thuyết và sau đó lên tòa giảng về đức tuân phục.

d) Văn nghiệp của Fénelon:

Fénelon ngoài chức vụ Giám-mục chu đáo, còn là một cây viết lỗi lạc. Số lượng tác phẩm của ông không kém của Bossuet. Nhiều cuốn xuất bản sau khi ông ly trần. Có cuốn chào đời ngoài ý muốn của ông. Sau đây là mấy văn phẩm chính yếu:

I. Về tôn giáo:

Bài giảng (1685) Tấn phong vương hầu Cologne (1707)

Cách ngôn chư thánh (1695)

Khái luận Thượng-Đế hiện hữu (1712)

II. Về giáo dục:

Khái luận giáo dục thiếu nữ (1687)

Luận về kẻ chết (1700-1712-1718)

Tê-lê-mạc (1669)

Truyện biến ngôn (1670)

III. Linh tính:

Tự kiểm tâm về trách vụ đế vương

Hồi ký chiến tranh

Tây-Ban-Nha

Thư từ

IV. Phê bình:

Luận về Hùng biện (1718)

Thư gửi Hàn-lâm-viện (1716)

4.- Bút pháp của Fénelon:

Cũng như Bossuet, Fénelon không định làm văn chương. Ông viết vì nhu cầu rồi khi viết tự nhiên ông tỏ ra con người lương thiện và bàn tay nghệ sĩ. Người ta thấy ngòi bút của Fénelon tỏ ra quí phái như tướng diện của ông. Giọng văn viết như giọng văn nói chuyện, đầy thú vị. Nó hàm súc cái gì cao nhã vừa mềm mỏng vừa chừng mực. Nó gợi ảnh nên thơ mà không khách sáo. Nó cương quyết mà không lố bịch. Đọc Fénelon nhứt là trong Tê-lê-mạc, người ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những Homère và Platon.

5.- Ba tấc lưỡi của Fénelon:

Lại giống Bossuet nữa là Fénelon không quan tâm sưu tập các bài giảng thuyết của ông. Chỉ còn lại cho chúng ta hai bài chính thức của Fénelon hùng biện gia là: "Bài giảng ngày lễ Ba vua (fête de l'Épiphanie)" nói ngày 6-1-1685 trước mặt các sứ thần của Siam. Trong đó đại khái ông ca tụng sự tiến bộ về truyền giáo ở Đông phương đồng thời sợ ở Tây phương sa sút lòng đạo hạnh. Bài kế là: "Lễ tấn phong Tổng Giám-mục Cologne", đọc ngày 1-5-1707 tại Lille. Đại khái bài nầy giống những bài Bossuet nói trong Phận vụ của quân vương hay trong Chính trị rút ra từ Thánh-kinh. Nó nhấn mạnh rằng giáo hội không cần sự hổ trợ của các vua chúa trần gian và chỉ có ích cho giáo hội khi các vua chúa khuất phục nó. Tuy Fénelon không để lại nhiều thuyết văn, song ai cũng nhận là nhà hùng biện sáng giá. Trung thành với chủ trương về khoa nói trình bày trong cuốn Luận về hùng biện, Fénelon chú trọng sự tự nhiên và cái mà nhà hùng biện gọi là thần cảm (Onction). Nội dung thì Fénelon rút ra từ Thánh-kinh và các Thánh-phụ. Không phải ông không đề cao hùng biện bằng các kiểu cách thông thường song ông chú trọng chân lý xâm nhập tâm hồn bằng con đường thần cảm nghĩa là có sự hổ trợ của cái gì thiêng liêng hơn.

C.- TÌNH THẦY TRÒ GIỮA FÉNELON VÀ CÔNG-TƯỚC BOURGOGNE:

1.- Thầy dạy trò bằng phương pháp đặc biệt:

a) Trong một mục trên, ta đã biết Công-tước Bourgogne lúc còn trẻ là một đại lý tật xấu. Fénelon phải vận dụng tất cả khả năng vừa chế ngự các thói hư nết xấu nơi Hoàng-tử vừa làm cho Hoàng-tử hài lòng để dễ tiến bộ.

b) Cũng trong một mục trên, ta biết lúc điều khiển cơ quan giáo dục các thiếu nữ Tin-lành trở lại Công-giáo, Fénelon viết cuốn Giáo dục thiếu nữ. Ông lấy nhiều nguyên tắc sư phạm trong tác phẩm ấy để dạy Công-tước. Mấy nguyên tắc chính yếu là:

1) Làm sao cho việc thụ huấn được dễ chịu, được hấp dẫn.

2) Pha trộn giáo huấn với giá trị.

3) Xen các kiến thức vào trò chơi và bằng gương mặt vui tươi.

4) Vẫn cần áp dụng uy quyền, vẫn cần trừng phạt nhưng phải liệu sao cho kẻ thụ giáo chấp nhận kỷ luật bằng ý thức hài lòng hơn là bằng sợ hãi.

5) Cần uốn nắn theo khuôn khổ mà đừng bóp méo phần tự nhiên trong kẻ thụ giáo.

Về điểm nầy, Fénelon là kẻ tiền hô cho Jean-Jacques Rousseau nhưng tác giả cuốn Émile đi hơi quá lố đến chỗ để con trẻ phát triển theo tự nhiên hơn là theo kỷ luật của nhà mô phạm. Đấy! Đại khái phương pháp giáo dục của Fénelon cũng giống cách xử thế của ông là bàn tay sắt bọc nhung hay nói theo một ngạn ngữ La-tinh là ngọt dịu mà mãnh liệt (Suaviter sed Fortiter).

2.- Thầy công phu soạn sách dạy trò:

Vì chủ trương như vậy nên các sách Fénelon để dạy Công-tước Bourgogne không lý luận gắt gao như sách Bossuet soạn dạy Hoàng-tử cả. Sách sư phạm của Fénelon là truyện biến ngôn, là chuyện đối thoại, là tiểu thuyết phiêu lưu v.v... Toàn là những loại văn dễ tiêu hóa, hình thức gợi cảm gói những ý xây dựng sâu sắc. Ta thử phân tích mấy tác phẩm Fénelon viết để dạy Công-tước Bourgogne.

a) Truyện biến ngôn:

Tại vì tâm tính của Công-tước có nhiều khuynh hướng kỳ lạ, biểu lộ bằng những tật xấu quái đản nên Fénelon soạn cuốn truyện biến ngôn nầy cố ý để Công-tước ý thức các khuyết điểm của mình. Toàn là những chuyện tưởng tượng nhằm mục đích xây dựng luân lý.

b) Đối thoại giữa kẻ chết:

Cũng để chuẩn bị nghề làm vua sau nầy cho Hoàng-tử, Fénelon theo vết chân của Lucien ở Hi-Lạp ngày xưa, viết những lời khuyên lẫn lộn khen chê, lồng khung trong các chuyện tích danh nhân quá cố. Ông trình bày theo kiểu hai nhân vật gặp nhau dưới hai âm ty đối đáp, trao đổi ý kiến qua lại.

Xét bản chất loại văn thì lối viết nầy ngớ ngẩn vì tác giả cho những người khác biệt nhau quá từ tuổi tác đến trình độ đối thoại nhau. Thấy có cái gì rất gượng gạo. Nhưng xét về mặt giáo dục của một gia sư thì tác phẩm nầy để làm tuổi trẻ ưa thích. Khi thì tác giả dùng thần thoại, bắt Hercule nói chuyện với Thésée, cho Ulysse đấu khẩu với Achille. Khi thì các nhân vật lịch sử được mời về từ quá khứ đề thảo luận tay đôi. Hết Hannibal tranh luận với Scipio thì đến Richelieu vấn đáp với Mazarin. Hết những thi văn hào như Virgile đàm đạo với Horace thì tới các hùng biện gia như Démosthène hùng biện với Cicéron, Trò Alcibiades nói chuyện Triết với thầy Socrate. Cũng trò ấy thảo luận chính trị với Périclès. Muốn phê bình nghệ thuật thì Fénelon cho Hoàng-tử dự cuộc đối thoại giữa Léonard de Vinci với Poussin. Muốn đề cao lòng trung tín thì Fénelon bắt trò mình nghe Bayard trách tên Bourbon phản bội. Sợ sau nầy trò mình thành quốc vương độc tài, Fénelon mời Solon đấu khẩu với Pisistrate, Caligula cãi vã với Néron. Những bài học rút ra từ các chuyện trên là bài học luân lý và bài học kiến thức phổ thông về nhiều phương diện. Học một môn mà thu thập được năm bảy môn.

c) Tê-lê-mạc:

1.- Đây cũng là một thứ đối thoại giữa kẻ chết nói trên mà ở trình độ cao hơn, nội dung sâu sắc, hình thức nghệ thuật hơn. Nó là tác phẩm trứ danh nhất của Fénelon. Nổi danh khắp hoàn cầu và gần như không nước nào không có bản dịch của nó. Ngụ ý của Fénelon là dùng hình thức văn chương, nghệ thuật để giáo dục chính trị cho Công-tước. Viết Tê-lê-mạc, ông làm một thứ Homère thứ hai ở chỗ tạo cho nhân vật Tê-lê-mạc trong Odyssée một cuộc phiêu lưu lý thú. Nói cách khác là Fénelon tiếp tục quyển IV của Odyssée. Thay vì như Homère cho chàng thanh niên Tê-lê-mạc đến Pylos và Sparte rồi bắt trở về Ithaque thì Fénelon xua chàng rong ruổi tìm cha là Ulysse. Bước chân lãng tử của chàng trôi nổi hết Ai-Cập, Phénicie đến Chypre và đảo Crète. Trong chuyến phiêu lưu hải hồ nầy, Fénelon dồn đủ thứ chuyện rút từ các sử gia, thi hào Lahi. Đọc kỹ Tê-lê-mạc, người ta tích lũy một vốn hiểu biết sâu rộng về thời cổ Lahi đến đỗi có thể tạm khỏi đọc tận nguồn nếu chỉ cần biết phổ thông thôi.

2.- Trong truyện sôi nổi những mối tình, những gian truân, những trận chiến, Calypso yêu Tê-lê-mạc. Cậu nầy đeo đuổi Eucharis rồi mê Antiope. Mỗi lần gặp nguy hiểm là chàng được Mentor cứu độ. Chính nữ thần Minerva ẩn hình trong Mentor, sư phụ của Tê-lê-mạc để hộ mệnh chàng. Mentor cũng giúp chàng kiến thiết thành phố, hộ mệnh chàng xuống tận âm ty tìm cha là Ulysse, càng đi càng phải lăn vào không biết bao trận chiến ác liệt. Suốt cuộc đời phiêu lưu, chàng hấp thụ các lời khuyên. Ai cũng công nhận Tê-lê-mạc là một cuốn tiểu thuyết nhưng rõ rệt là Fénelon chú trọng mục đích giáo dục hơn giải trí. Nhiều đoạn kéo dài lê thê đọc có ích mà dễ ngáp.

3.- Ý tưởng chính trị trong Tê-lê-mạc quá rõ rệt rồi mà ngoài ngụ ý giáo dục, còn có ngụ ý hài hước, châm biếm không?

a) Mentor dồn vào Tê-lê-mạc (hiệu là Fénelon dạy Công-tước) những bài học luân lý và chính trị. Các bài học nầy được bổ túc bởi những tài liệu khác của Fénelon như cuốn Đối thoại với kẻ chết và Thư gửi vua Louis XIV. Đại khái là người cầm quyền phải đứng đắn, phải tốt. Hãy nghe mấy lời nầy Fénelon đặt vào miệng Mentor nói với Tê-lê-mạc: "Con phải luôn canh chừng tính khí của con: đó là tên thù nghịch mà con mang theo bên mình cho đến chết." Chỗ khác Mentor căn dặn Tê-lê-mạc: "Đừng khi nào quên rằng vua chúa không phải cai trị cho vinh danh của mình mà cho quyền lợi các dân tộc."

Fénelon sợ sau nầy Công-tước Bourgogne lấy ngai vàng làm phương tiện truy hoan, nên để Mentor cảnh cáo Tê-lê-mạc rằng giàu sang thái quá là bóc lột dân nghèo, rằng càng sống xa hoa lộng lẫy càng ô nhục cho kẻ cầm quyền. Fénelon mô tả một Idoménée hách dịch, kiêu căng, say đắm trong nhan sắc, tiền bạc: một hình ảnh mà Công-tước phải ghê tởm khi nắm vận mệnh quốc gia.

b) Một vấn đề tế nhị được đặt ra cho Fénelon là hỏi viết Tê-lê-mạc, ông có ý châm biếm tâm tính và cách cai trị của vua Louis XIV là ông nội của Công-tước Bourgogne không? Nhiều người cho là có. Chẳng hạn như khi Fénelon nói về Tyr là cố ý hiểu Hòa-Lan. Mô tả Idoménée là mô tả Louis XIV. Fénelon thì quả quyết rằng ông không châm biết ai hết. Ông nói trong thư gửi cho P. Le Teillier: "Tôi viết lúc nhà vua đối đãi với tôi đầy tín nhiệm và nhân hậu, đâu lý nào tôi tỏ ra con người chẳng những vong ân bội nghĩa nhất mà còn ngu xuẩn nhất nữa. Nội ý nghĩ về một trù tính như vậy tôi cũng cho là ghê tởm rồi". Bạn nghĩ sao? Theo tôi, ta có thể tin nơi thành tâm thiện chí của Fénelon. Với tâm hồn đạo đức của một người như Fénelon, với tính cách cao nhã của ông, ông không cố ý châm biếm vua Louis XIV đâu. Thông minh như ông chắc quá biết rằng sửa dạy vua chúa mà ngạo nghễ cách ấy thì không đem lại kết quả mong muốn. Hạ nhục người ta, chọc thủng tự ái người ta mà bảo người ta nghe theo mình à. Hơn nữa căn cứ vào cách xử thế cố hữu của Fénelon thì có thể nói ông không hành động như vậy. Vả lại Fénelon đã quả quyết với P. Le Tellier như trên thì ta cứ tạm tin nơi danh dự của ông. Nếu dám viết một bức thư cảnh cáo trực tiếp vua Louis XIV thì tưởng Fénelon đủ can đảm nhận cuốn Tê-lê-mạc ngụ ý châm biếm, nếu quả có ngụ ý ấy. Có lẽ là, tâm tính xấu, cuộc đời hư đốn, nếp sống trác táng truy hoan của Louis XIV gợi ý cho Fénelon khi viết Tê-lê-mạc, nghĩ rằng phải tìm cách giúp Công-tước Bourgogne sau nầy đừng đi vết xe cũ. Tác giả không cố ý công kích ông nội của Công-tước. Nhưng chắc chắn con người của Louis XIV có làm nguồn cảm hứng cho tác giả. Có điều là không biết nên nói rằng tác giả vụng về, không tiên liệu trước sự mích lòng chăng? Hay tác giả hoàn toàn vô tình đến thành quá ngây thơ. Hay tác giả vì là bực tu hành, vì là nhà luân lý chỉ nhắm cái thiện, còn ai hiểu lầm mình không cần biết tới. Hiểu lầm hay hiểu đúng gì thì kết quả không hay cũng xảy đến cho Fénelon. Cuốn Tê-lê-mạc lại xuất bản ngoài ý muốn ông, trúng lúc ông bị Tòa-thánh kết án về vụ Ái-tính thuyết. Người sao chép Tê-lê-mạc xuất bản sách không có tên tác giả, dĩ nhiên là không được phép tác giả. Sách bị cấm ở Pháp mà thành công vĩ đại ở Hòa-Lan. Đến 1717, Bá-tước Fénelon, cháu của tác giả mới chính thức xuất bản đầu tiên. Họa vô đơn chí thật: nhà vua bất mãn cuốn Tê-lê-mạc đến cao độ và vì đó ông bị thất sủng luôn đối với triều đình.

4.- Cho riêng cá nhân Fénelon thì còn đặt vấn đề châm biếm hay không châm biếm, chứ cho độc giả hay cho Công-tước Bourgogne thì cuốn Tê-lê-mạc là một tác phẩm giá trị từ văn chương đến tư tưởng. Nó là một thứ "tản văn thơ" trừ vài khuyết điểm có thể tha thứ được như đôi chỗ kéo dài lướt thướt, lặp đi lặp lại. Trừ khuyết điểm ấy, nó là một tác phẩm gần như duy nhứt của nhân loại dùng vốn cổ học, cập nhật hóa nó, rút ra vô số bài học sâu sắc và trình bày bằng giọng văn vừa du dương vừa cao nhã.

Tóm lại, sau khi phân tích các tác phẩm mà Fénelon soạn để dạy môn sinh của ông, ta thấy Công-tước Bourgogne mà được một tôn sư như Fénelon quả thực có phước.

Gần hai thế kỷ trôi qua, bực thầy như vậy ngày nay vẫn thấy còn khó kiếm. Fénelon vì thương trò mà bị dòng họ của trò thù oán. Bị thù oán chỉ vì muốn cho dòng Vua họ Chúa ấy có kẻ nối ngôi. Vua cho ra Vua, Chúa cho ra Chúa. Chỉ vậy thôi. Khả năng như Fénelon, dạy 3 Công-tước bộ óc còn bằng vỏ sò vỏ hến như vậy mà ông bỏ công phu soạn sách vở để dạy. Sách có cuốn trở thành bất hủ nữa. Ta nghĩ sao?

Ở thời đại ta, trong nước ta, nhà giáo dạy học soạn bài thế nào? Dạy nhiều trường quá, vật giá cắt cổ quá, kẹt công vụ nhiều quá, bận tư vụ điên đầu, nhà giáo còn đủ yên tâm, thời giờ ngồi soạn bài kỹ lưỡng không? Giáo khoa được mấy tập trở thành sách bất hủ. Coi chừng thời hỏa tiễn hơn người xưa cái gì chứ về đường lương tâm chức nghiệp phải xét lại.

3.- Còn thầy nào xử sự với trò hơn Fénelon:

Giữa Fénelon và Công-tước lắm lúc cũng rất gay cấn. Tính tình Công-tước vốn đã xấu đâu trong xương tủy lại thêm ỷ thế hoàng tộc nên trong bức thư nọ ông viết nhiều điều làm phật ý tôn sư. Fénelon không ngại mình là người lớn, là thầy mà đi trả lời cho một đứa con nít học trò mình. Ông cương quyết chinh phục tâm hồn Công-tước cho kỳ được.

Ta hãy nghe đại khái bức thư phúc đáp cửa Fénelon cho trò ông: "Hỡi Hoàng-tử! Thầy không biết con có nhớ điều gì con nói với thầy hôm qua không, rằng con biết con là ai còn thầy là ai? Thầy thấy có bổn phận phải chỉ cho con biết con không hiểu ai là ai hết. Con tưởng tượng rằng con hơn thầy. Vài người tôi tớ chắc nói với con như vậy. Còn thầy, vì con buộc thầy phải nói nên thầy không sợ hãi gì mà phải nói rằng thầy hơn con. Con nhớ đi rằng đây không phải vấn đề tông tộc (...). Con sẽ không khôn ngoan nữa nếu còn tìm hư danh trong tông tộc của con, nó không thêm gì cho chính bản thân của con. Con đừng nghi ngờ rằng thầy hơn con về thông minh lẫn kiến thức. Con nên biết rằng nhiều điều con đã học với thầy chưa là gì hết sánh với những gì thầy sẽ dạy cho con. Còn về quyền thì con không có quyền gì trên thầy cả. Trái lại thầy có quyền trên con, đầy đủ, trọn vẹn. Ông nội và ba con đã thường nói với các con điều đó chứ. Có lẽ con tưởng rằng thầy thích hân hạnh được dạy con. Con đừng nghĩ vậy nữa: Thầy dạy con chỉ vì nghe lời ông nội con và làm vui lòng ba con chớ không phải vì cái gì khác mà lãnh gánh nặng làm thầy con. Và để con đừng nghi ngờ gì nữa thì thầy sẽ dẫn con đến trước mặt nhà vua để xin Ngài chọn một vị khác mà thầy mong vị ấy sẽ lo lắng cho con chu đáo hơn thầy".

Thực là những dòng tâm sự vừa mềm mỏng vừa quyết liệt của một bực thầy đầy lương tâm nghề nghiệp. Cũng may là khi đọc bức thư trò hối hận, xin lỗi thầy. Thời nay được mấy ông thầy dám mạnh ăn mạnh nói khi ông thần quyền lợi xuất hiện. Cũng được mấy học trò không ỷ thế cha to chú bự trong chánh quyền mà không lên mặt với thầy. Người ta chẳng đã nghe lâu lâu trong trường nầy trường nọ nhà giáo kêu trời không thấu vì một số học trò cao bồi du đãng chửi thầy đánh bạn hỏi ra lai rai là con ông lớn sao? Đáng khiếp mà cũng đáng tởm nhứt là nhiều bà vợ ông bự sao không cất trường riêng dạy con ở nhà, mà gởi con cho thầy, lại hễ thầy nào rầy la con một chút thì đong đỏng xài xể, hăm he thầy. Họ đứng nhứt sau ông Trời cho gia đình họ rồi cũng muốn cầm quyền luôn học đường nữa. Vua Louis XIV giáng sủng Fénelon là quan thầy của thứ ông bà cha mẹ thương cháu con mà cứ đầu tư cho chúng tương lai đen tối.

D.- TỔNG KẾT:

Nếu sánh Fénelon với Bossuet, cả hai cùng làm thái sư cho Hoàng-tử, ta thấy mấy điểm di động sau đây:

1.- Cả hai đều là tâm hồn thánh đức, là biển học bao la.

2.- Cả hai đều đầy thiện tâm thiện chí, chết sống với chức vụ làm thầy. Ai cũng soạn sách dạy trò mà mỗi người mỗi kiểu.

3.- Cả hai đều trúng thứ trò khó dạy. Trò của Bossuet khó dạy đến thành bất trị. Trò của Fénelon tuy là đại lý của tật xấu nhưng đỡ hơn.

4.- Bossuet bỏ công chín mười năm mà kể như thất bại. Fénelon tốn sáu năm mà tạm gọi thành công chút chút.

5.- Phương pháp của Bossuet nặng nề về bác học, giống như Rabelais, dồn kiến thức vào óc trò như dồn gối.

Bossuet cũng nặng về giáo dục bằng uy quyền hơn bằng tâm lý. Các sách ông soạn đọc bổ ích cho trò mà chắc trò ngán đọc vì quá nhiều lý luận nát óc. Phương pháp của Fénelon giống của Montaigne, chú trọng chiếc đầu được khéo luyện hơn là chiếc đầu đầy chữ. Ông cũng quyết liệt như Bossuet mà bên ngoài mềm mỏng, đắc nhân tâm. Các giáo khoa của ông tránh lý luận khô khan nên toàn là biến ngôn, tiểu thuyết, đối thoại.

6.- Từ Bossuet đến Fénelon đều là hai bực thầy dạy con vua, nhưng không vì quyền lợi hay danh vọng mà sợ vua, không dám rầy trò. Trái lại vừa kính vua vừa thẳng tay sửa trị trò khi cần thiết.

7.- Cả hai đều bao vây trò bằng gương tốt, bằng vô số kiến thức sâu rộng mà tiếc thay trò gì tâm hồn đất cày lên sỏi đá nên mưa rào đức hạnh kiến văn thấm vào chẳng bao nhiêu.

8.- Cả hai đều tội nghiệp ở chỗ đầu tư nơi trò nhiều mà không được trò trả ân gì hết. Riêng Fénelon lại bị dòng họ trò trả oán nhãn tiền nữa mới chua chát làm sao.

9.- Bossuet vốn là thầy của Fénelon, dạy cha của học trò của Fénelon thất bại và Fénelon dạy con của học trò cũ của thầy mình thành công. Sự kiện ấy làm cho người ta nghĩ ngợi đến nhiều vấn đề trong đó có vấn đề di truyền, phương pháp, hoàn cảnh kể cả số mệnh nữa.

10.- Sau hết Bossuet và Fénelon đều là gương sáng riêng cho ai là thầy. Tuy thành quả của cả hai không rực rỡ nhưng nhứt định ai cũng công nhận cả hai là minh sư và là những lương tâm thánh đức, chết sống cho cái nghề được thánh Grégoire gọi là nghệ thuật trên hết các nghệ thuật (Ars artium).