CHƯƠNG XII TÌNH THẦY TRÒ GIỮA ĐỨC BAB, TIỀN-PHONG VÀ ĐỨC BAHA U LLAH, GIÁO TỔ ĐẠO BAHA I-(Trò tình nguyện tử hình chung với thầy.)-
Nếu phải trưng một bằng chứng hùng biện chứng minh rằng tình thầy trò cao cả là cả động cơ thúc đẩy những vĩ nhân hoàn thành sự nghiệp vĩ đại, thì người ta có thể trưng ngay trường hợp của Đức Bab và Đức Baha'u'llah: một Đấng Tiền Phong và một Đấng Giáo tổ của Đạo Baha'i, tôn giáo hoàn cầu.
Còn nếu phải nêu một trường hợp điển hình mà tình cha con biến thành tình sư đệ để lập nên nghiệp cả thì người ta cũng có thể đưa ngay trường hợp của Đức Baha'u'llah và Đức Abdul Baha'i. Vị sau nầy được gọi là Đấng Gương mẫu của Baha'i giáo. Trước khi phân tích các mối tình thầy trò ấy, ta thử tìm hiểu các nhân vật trên là ai và Đạo Baha'i là gì?
I. ĐỨC BAB LÀ AI?
1.- Thời thơ ấu và thanh niên:
Đức Bab sinh ngày 20-10-1819 tại Chiraz và qua đời ngày 9-7-1850 tại Tabriz. Tên thật của Ngài là Mirza Ali Muhammad. Còn Bab là biệt danh. Ngài thuộc dòng Tiên-tri Muhammad, con của một thương gia lừng danh, song thân phụ mất sớm nên sống với người cậu. Từ nhỏ được giáo dục như bao nhiêu tuổi trẻ khác. Đến 15 tuổi, Ngài tiếp nối nghề thương mãi của song thân.
Vốn sinh ra tướng diện khôi ngô, tuấn tú, Ngài lại có bẩm phú hiền hòa, tự nhiên hướng về đạo hạnh. Tuy làm nghề buôn bán nhưng lòng Ngài nặng tu hành. Ngài ăn chay lạt, tự kiềm hãm thể xác, thường xuyên cầu nguyện và tuân thủ nhiều giới răn của đạo Mahomet. Năm 22 tuổi, Ngài lập gia đình, có một con trai mà yểu tử.
2.- Tuyên bố lập đạo:
Ngày 22-5-1844, Ngài tự tuyên xưng là Bab, có nghĩa là Cửa dẫn vào sự hiểu biết chân lý thần thánh. Ngài hành hương ở Karbala nhận lãnh giáo huấn của giáo phái Chaykhis mà nhà sáng lập là Sayyid Kazim de Recht khi trở về Chiraz, Ngài tuyên bố lập đạo và thuyết giáo trong nhà giảng gọi là nhà giảng của Thợ Rèn. Nơi đây Ngài gặp đại đệ tử Chaykhis Mulla Husayn tức Đức Baha'u'llah như ta sẽ bàn riêng ở mục hai.
Ngài lại hành hương ở La Mecque. Đến khi trở về, Ngài tuyên bố chính mình là dòng ân điển bắt nguồn từ Đấng vĩ đại nắm giữ toàn thiện vô biên.
3.- Thuyết giáo của Đức Bab:
Đức Bab tự xưng mình là Mihdi người mà tín đồ Shiih coi là Imam thứ 12 sẽ tái thế sau khi biệt tích trên đường trần cách đó 1000 năm. Các tín đồ Shiih mong đợi Đấng Messie tức Đấng Cứu-thế vậy. Nếu người Do-Thái xưa mong một Messie giáng thế trong uy quyền, vinh quang, phú quí thì tín đồ Shiih cũng mong Mihdi như thế. Mà Đức Bab lại đến với nghèo nàn, khắc khổ, chay lạt, cầu kinh nên họ thất vọng và phản đối. Đã vậy, Ngài còn xưng danh hiệu Nuqtiyiula có nghĩa là Điểm Căn-bản, danh hiệu chỉ dành riêng cho Tiên-tri Muhammad thôi.
4.- Giáo nạn đến với Đức Bab:
Vì Đức Bab tự tuyên xưng các thánh hiệu trên nên từ các tín đồ đến giáo sĩ đạo Hồi Hồi nổi lên chống như ong vỡ ổ. Họ cho Ngài là Tiên-tri già, là ngụy đạo sĩ, là tên bịp bợm. Trong khi ấy 18 đệ tử của Ngài chia nhau đi các thành phố rao giảng sự giáng thế của Ngài. Các phong trào chống đối nổi lên ầm ĩ, khốc liệt. Người ta tố cáo Ngài với chính quyền hiện hữu là Thống-đốc Ispahan, một người cuồng tín, hung ác. Đức Bab bị câu lưu. Bao nhiêu đệ tử, tín đồ, từ lâu tấp nập theo đường lối đạo lý của Ngài, bị nhà đương cuộc tập nã, đánh đập, cầm tù, giết hại khủng khiếp. Một cuộc đàn áp tôn giáo mà sức dã man lên đến trình độ không tưởng tượng được. Không biết bao nhiêu tín hữu của Đức Bab, kẻ bị chặt cổ, phân thây từng khúc, kẻ bị dọng vào họng súng thần công làm đạn bắn, kẻ khác bị hỏa thiêu. Khi Đức Bab bị bắt và bị kết án tử hình thì có một đệ tử tên là Muhammad Ali tình nguyện cùng chết với Thầy ngày 9-7-1850, lối 2 giờ, người ta treo xốc nách hai thầy trò Đức Bab lên. Cảnh vô cùng thảm khốc và thương tâm diễn ra, đó là đầu của Ali ngã vào lòng ngực của tôn sư. Một toán lính nổ súng vang trời. Nhưng không biết tại sao, súng chỉ làm đứt dây treo hai thầy trò Đức Bab thôi chớ không trúng họ. Thầy trò rơi xuống đất. Cả hai vào một phòng gần đó ngồi trò chuyện. Bọn lính kinh ngạc vô cùng. Họ bắn tồi bại quá chăng? Hay là phép lạ? Một toán lính khác được thay thế thi hành lệnh xử tử. Lần nầy thân thể của Đức Bab và trung đệ Ali bị thủng đạn tàn khốc. Khi thụ nạn như vậy Đức Bab đúng 31 tuổi. Cũng gần tuổi Đức Giê-Su. Pháp trường Tabriz nơi loang máu đào anh dũng của hai thầy trò Đức Bab, biến thành đỉnh Golgotha thứ hai trên hoàn vũ, nơi tố cáo các tội ác của kẻ giết người vô tôi và thánh thiện.
Khi bị xử tử xong hai thi hài bị quăng tất tưởi gần đó. Cách hai ngày sau, các đệ tử của Đức Bab mới lén lút lấy hai xác được và đem chôn ở một nơi bí mật tại Ba-Tư. Về sau người ta mới tổ chức cải táng trên núi Carmel, nơi mà Đức Baha'u'llah đã từng ẩn trú và đã an nghỉ nghìn thu sau đó ít lâu.
5.- Vai trò của Đức Bab trong đạo Baha'i:
Mặc dầu đối với Đức Baha'u'llah, Đức Bab được coi là vị Tiền Phong giống như Thánh Gioan Tẩy-Giả đối với Đức Giê-Su, nhưng kỳ thực Đức Bab đã chính thức lập một tôn giáo gọi là đạo Babi ra đời năm 1844 tại Ba-Tư. Mục đích của đạo Babi là chống sự suy đồi luân lý của các giáo sĩ và tín đồ đạo Hồi Hồi bấy giờ, chống lòng dị đoan cuồng tín, chống sự bạo tàn của chính quyền đội lớp tôn giáo mà sa đọa hung ác.
Thánh kinh của đạo Babi là hai cuốn: Bayan (Biểu-hiện) và Kitabi-Aqdas (Sách chí-thánh). Nội dung là cải tân đạo Hồi Hồi. Chẳng hạn như giải phóng địa vị người đàn bà. Bãi bỏ chế độ đa thê. Cổ võ tình huynh đệ giữa mọi người. Thương yêu con trẻ. Giao tế lịch sự. Bớt kỳ thị người Ki-Tô giáo.
6. Người Babi là ai?
Tín đồ đạo Babi của Đức Bab gọi là Babi. Người Babi chia làm hai phái:
1) Người Babi gọi là Azalis theo tên người cầm đầu là Subh-Iazal. Những người nầy chiếm thiểu số, giữ đúng giáo lý thuần túy của Đức Bab.
2) Người Babi gọi là Baha'i theo tên của Baha Allah hay Baha'u'llah là những người lập thành đạo Baha'i tràn lan khắp hoàn cầu như ta sẽ xét ở một mục sau.
II.- ĐỨC BAHA'U'ULLAH LÀ AI?
1.- Thời thơ ấu và thanh niên:
Đức Baha'u'llah có nghĩa là vinh quang của Thượng-Đế, tên thật là Mirza Husayn, sinh tại Téhéran ngày 12-11-1817, qua đời tại Saint-Jean d'Acre ngày 29-5-1892.
Thuộc gia đình vọng tộc, quyền thế và quí phái, Ngài là con của Thượng thư Mirza Abbas. Ngài không thụ giáo ở trường mà chỉ được học chút ít trong gia đình thôi. Mồ côi cha sớm, Ngài phải đảm trách các tài sản của gia đình và dìu dắt các em trai gái ăn học.
Tuy ít học, song từ nhỏ Ngài tỏ ra thông minh. Đặc biệt là Ngài tự nhiên hấp dẫn hơn kẻ khác. Từ mười mấy tuổi là đã nổi tiếng về kiến thức sâu xa. Nhiều nhân vật trong triều đình và nhiều bực tu hành thường đến Ngài để bàn về các vấn đề chính trị, tôn giáo. Lúc thân phụ Ngài ly trần, chánh phủ muốn Ngài tiếp kế chức Thượng thư của thân phụ Ngài, song Ngài từ chối.
2.- Họa vô đơn chí:
Tâm hồn Ngài luôn hướng về đạo giáo nên khi Đức Bab truyền đạo, Ngài hưởng ứng. Lúc ấy Ngài được 27 tuổi.
Có một đệ tử của Đức Bab tên là Sádiq vì thấy tôn sư bị vua Ba-Tư xử tàn ác quá, đâm ra cuồng trí. Đệ tử nầy định ám sát nhà vua báo thù cho Thầy. Ngày nọ chàng chận đường vua đang đi ngựa nổ súng song lép đạn. Chàng nhào tới lôi quốc vương xuống ngựa, nhưng liền bị cận vệ đâm chết tại chỗ. Vì cuộc xúc phạm nầy, mà triều đình oán ghét đạo Babi của Bab triệt để. Trong số 80 người bị bắt sau đó có Baha'u'llah. Theo Ngài tường thuật thì cảnh Ngài bị bắt xảy ra như sau:
Ngài bị xiềng xích. Đi chân không, đầu trần. Bị giải đến nhà tù ở Tibran, nhốt vào một nơi dơ bẩn không thể tả. Đây là ngục hầm, tối như âm ty. Ngài bị nhốt chung với 150 tội nhân thuộc loại trộm cướp, sát nhân. Tù nhân trần truồng như nhộng, ngồi nằm la liệt dưới nền gạch lầy lụa.
Sau 4 tháng giam cầm, Ngài bị lưu đày qua Bagdad. Tình trạng dễ thở dần dần. Ngài bắt đầu truyền bá giáo lý cho những ai đến gặp Ngài.
Nhưng tiếc thay, lúc ấy có người em cùng cha khác mẹ với Ngài tên Yahyá đến Bagdad âm mưu chia rẽ các tín đồ, gây cho Ngài đủ thứ khó khăn. Cuộc xung đột nổ lớn tại Adrianople.
Ở tại Bagdad một năm, Ngài một mình đến Sa mạc Sullay Mániyyih. Nơi đây Ngài sống trong cô độc đay nghiến và khắc khổ đến cực độ. Ngài tu luyện tâm hồn trong nơi huyền bí đó hai năm.
Trở về Bagdad Ngài được nhiều tín đồ các đạo khác đến xin làm đệ tử. Đạo Baha'i phát triển mạnh. Nhưng những nhà trí thức Hồi giáo gọi là Mullas ganh tị Ngài, vu cáo Ngài đủ điều. Họ thách Ngài làm phép lạ. Song khi Ngài đặt điều kiện hễ Ngài làm phép lạ thì họ phải theo đạo Ngài, họ từ chối. Họ toa rập nhau tố cáo Ngài với chính quyền Ba-Tư lẫn chính quyền Thổ-Nhĩ-Kỳ. Dù bị bách hại đủ điều, Ngài cứ thản nhiên. Trong cơn bắt bớ nầy, Ngài viết một cuốn sách mỏng mà trứ danh. Đó là cuốn Ẩn-Ngữ.
3.- Công khai tuyên bố lập đạo:
Sau 19 năm Đức Bab tuyên bố lập đạo thì từ 21-4 đến 3-5 năm 1864, Ngài tuyên bố rằng Ngài là Đấng mà Đức Bab tiên báo, được các Tiên-tri hứa hẹn là Đấng Thượng-Đế lựa chọn. Nơi Ngài tuyên bố tâm giáo đó là vườn của Ridvan.
Sau đó Ngài cùng 12 thân thuộc và 72 đệ tử đến cư trú tại Constantinople rồi sang Adrinople. Nơi nào cũng sống vô cùng khổ cực mà tín đồ thì đến như biển người. Nhưng như đã nói trên tại Adrinople, Ngài bị người em một cha khác mẹ là Yahyá tổ chức phá rối nên chính quyền địa phương trục xuất cả hai. Môn đồ tín hữu của Ngài cùng Ngài bị đưa qua Palestine còn của Yahyá thì qua Cyprus.
Đến Palestine ở tại Akká, Ngài bắt đầu gửi những bức thư công khai cho các Hoàng-đế Âu-Châu, cho Giáo-hoàng La-Mã, cho chính phủ Ba-Tư và Hoa-Kỳ. Trong các thư ấy Ngài trình bày giáo lý của Ngài, thiên chức của Ngài nhứt là Ngài biện hộ cho các môn đệ, tín hữu của Ngài bị giam cầm, tra tấn, hãm hại oan ức.
Có một đệ tử của Ngài, còn trẻ tuổi, lòng đạo nhiệt thành tên là Badi vì mang một bức thư của Ngài mà bị bắt hành khổ bằng cách áp gạch nướng đỏ vào da thịt cho sôi lên.
Cuộc đời Baha'u'llah trôi nổi từ Akká đến Bahji. Ở đâu Ngài cũng tiếp tục cổ võ sự tôn vinh Thượng-Đế. Các tín đồ gọi Ngài là Đấng-Phúc-Toàn. Ngài cùng gia đình sống giản dị, bình thản. Ngài càng tỏ ra yên phận vui tươi trong những ngày cuối cùng của kiếp sống. Khi thọ 75 tuổi, Ngài qua đời ngày 29-5-1892 sau cơn bệnh sốt rét. Trước khi ly trần, Ngài để lại một Chúc-thư và một Ước-kinh. Chín ngày sau khi an táng thân phụ, Đức Abdul-Baha, con trai của Baha'u'llah, công khai khui bản chúc thư trước mặt nhiều người trong gia đình và tín hữu Baha'i. Chúc thư ủy quyền cho Abdul-Baha kế vị thân phụ nắm giềng mối đạo và giải thích giáo thuyết của thân phụ.
III.- ĐỨC ABDUL-BAHA LÀ AI?
1.- Thiếu thời:
Ngài tên thật là Abbas Effendi, biệt danh là Abdul-Baha có nghĩa là người phụng sự Thượng-Đế, sinh tại Téhéran ngày 23-5-1844, qua đời tại Palestine ngày 28-11-1921. Ngài là con đầu lòng của Đức Baha'u'llah. Ngài được thân phụ trước khi qui thiên để lại chúc thư làm lãnh tụ tinh thần tối cao của đạo Baha'i. Từ nhỏ Ngài không từng học trường tiểu học, trung học nào cả. Ngài chỉ học với thân phụ của Ngài thôi. Lúc thiếu thời Ngài thích giải trí bằng cỡi ngựa.
Lúc mới lên 8 tuổi, có lần đến thăm thân phụ bị giam cầm, thấy cảnh thân phụ khốn khổ, tóc râu rối bù, cổ sưng lên vì còng sắt nghiến vào: tâm trí Ngài bị ám ảnh hãi hùng quá và yêu mến thân phụ quá.
Lúc lên 9 tuổi, Ngài có linh cảm rằng thân phụ chính là Đấng mà muôn dân mong đợi, Đấng mà các đồ đệ, tín hữu của Đức Bab từ lâu mong xuất thế. Trong nhật ký tháng 1 năm 1914 Ngài viết: "Lúc ở Bagdad, lúc tôi còn trẻ thân phụ tôi cho tôi biết Thiên-mệnh. Tôi tin. Liền sau đó tôi quì lạy dưới chân người."
Ta thấy đây là cử chỉ khác thường cử chỉ một người con, mà là của một người tuy là con, nhưng như một đệ tử khám phá được Thiên-mệnh nơi tôn sư và cảm thấy sứ mệnh thiêng liêng kế vị tôn sư. Lúc Ngài mới mười mấy tuổi, thân phụ Ngài đã đặt tên Ngài là "Mầu nhiệm của Thượng-Đế". Hồi ở Adrianople, các tín đồ Baha'i đã quan tâm kêu Ngài là "Thầy".
2.- Kết hôn:
Đức Abdul-Baha kết hôn với nàng Munirih Khanun. Đây là người con khẩn nguyền của Mirza Muhammad Ali được Đức Bab chúc phúc mà ra đời. Hai ông bà Baha'u'llah và Navvab muốn con trai của mình là Abdul-Baha kết tóc xe tơ với nàng vì cho là lương duyên thiên định. Gia đình của Abdul-Baha tràn đầy hạnh phúc vì cả hai tâm hồn đều là nguồn suối của đạo hạnh.
3.- Tai nạn và tai nạn:
Như ta đã biết, Đức Abdul-Baha được thân-phụ coi như là người có thẩm quyền nhất để truyền kế sự nghiệp mình. Người gọi Ngài là "Trung Tâm Giáo ước của Ta", là "Cành vĩ đại nhất" v.v...
Vì quá được tôn nghiêm tiến cử như vậy nên Ngài bị trong thân quyến ganh tị. Thân phụ Ngài bảo Ngài cất trên núi Carmel một ngôi nhà vừa để hài cốt Đức Bab vừa làm hội trường cho các tín đồ. Nhưng quân thù Ngài tố cáo với chính quyền rằng Ngài cất pháo đài chống chính phủ. Kết quả là từ năm 1901, cả gia đình Ngài bị giam lỏng 7 năm. Nhưng không vì bị mất tự do như vậy mà Ngài không tiếp tục truyền bá giáo lý Baha'i khắp Á-Châu và Mỹ-Châu. Các giới người từ trí thức đến bình dân bốn phương kéo đến thụ giáo Ngài. Gia đình Ngài sống thanh bần đạo hạnh, tủa ra xung quanh ảnh hưởng triết lý cao sâu của Đức Bab và thân phụ Ngài.
Năm 1904 và 1907, chính phủ Thổ-Nhĩ-Kỳ lập ủy ban điều tra các điều người ta tố cáo Ngài. Lãnh sự Ý-Đại-Lợi sẵn sàng giúp Ngài trốn thoát cảnh lao tù. Nhưng Ngài bình thản sống, tuyên bố chấp nhận bất cứ hình phạt nào Chính phủ đưa đến cho Ngài. Vì thương mến các tín đồ, Ngài khuyên họ nên tản cư khỏi Akká. Nhưng 1908, Ngài được trả tự do. Ngài xuất ngoại diễn thuyết rao giảng tinh hoa của đạo Baha'i. Tháng 5 năm 1913, Ngài trở về Ai-Cập. Lúc bấy giờ, đời sống Ngài đã xế chiều: Ngài đã 70 tuổi. Trong thời gian nầy, Ngài viết cho các tín đồ nhiều bức thư vô cùng sâu sắc.
Rồi chiến tranh nổi lên tại Haifa, Ngài coi như bị giam cầm nữa. Nếu thân phụ Ngài để 40 năm ở tù thì Ngài ở ngục 55 năm. Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, Ngài cũng là người gương mẫu của mầu nhiệm Thượng-Đế.
4.- Lìa bỏ cõi đời:
Những năm sau cùng của Abdul-Baha là chuỗi ngày cầu nguyện, ban bố tình thương, trả lời vô số thư từ khắp thế giới gửi về. Lối một giờ rưỡi sáng thứ hai ngày 28-11-1921, Ngài qua đời một cách thánh thiện và êm ái đến đỗi hai con gái trông nom Ngài tưởng Ngài ngủ.
Lễ an táng Ngài cử hành trọng thể ngoài sức tưởng tượng. Đủ thứ các giới đại diện đến tiễn đưa Ngài ra nơi an nghỉ nghìn thu. Người ta nghe reo la inh ỏi trong đám đông lời bi thiết nầy: "Lạy Thượng-Đế! Cha chúng con đã bỏ chúng con."
IV.- ĐẠO BAHA'I LÀ GÌ?
1.- Bản chất đạo Baha'i:
Đó là tôn giáo của các đệ tử, tín đồ của Đức Baha'u'llah, phát sinh từ đạo Babi của Đức Bab.
Tự coi mình là "Kẻ Thượng-Đế biểu hiện", là kẻ mà Đức Bab đi tiền phong báo trước cho nhân loại đợi trông, Đức Baha'u'llah cổ võ thế giới từ các chính quyền năm châu đến các nhà lãnh đạo tôn giáo, các tầng lớp dân chúng trí thức lẫn bình dân hãy thống nhất thực hiện Hòa-bình trong tình thương đại đồng. Sau khi Ngài qua đời năm 1892, con trưởng nam quí tử của Ngài là Abdul Baha được Ngài ủy thác chính thức lãnh đạo tinh thần thế giới Baha'i. Ngày nay khắp hoàn cầu, ở đâu cũng có mặt người Baha'i.
2.- Lý tưởng người Baha'i:
Sau đây là những đặc điểm mà người ta có thể nhận được nơi người Baha'i lý tưởng:
a) Sống đời sống chân chính
b) Tôn sùng, yêu thương Thượng-Đế
c) Tìm kiếm chân lý
d) Siêu thoát
e) Phục tòng và phụng sự
f) Rao giảng chân lý
g) Lịch thiệp và kính cẩn
h) Mắt không nhìn tội lỗi
i) Lòng khiêm nhu, chân thực và chính trực
j) Tự biết mình
k) Suy niệm và cầu nguyện
Đó là mấy đặc điểm tôi toát yếu theo cuốn "Baha'u'llah và kỷ nguyên mới" của J. Esselmont do Hội-Đồng Tinh-Thần Địa-Phương chỉ đạo Baha'i Saigon xuất bản.
V.- TÌNH THẦY TRÒ GIỮA CÁC NHÀ SÁNG LẬP ĐẠO BAHA'I VÀ CÁC ĐỆ TỬ:
Ở đây tôi không bàn vấn đề giá trị tôn giáo là đề tài của các nhà thần học phán quyết với nhau. Tôi chỉ chú trọng vai trò của tình thầy trò, nó là yếu tố cột trụ làm cho sự nghiệp của các Đức Bab, Baha'u'llah và Abdul-Baha phát triển vĩ đại.
1.- Luật chung cho ba vĩ nhân:
Một trong những nguyên nhân làm cho cả ba vĩ nhân trở thành ba khối nam châm sống, thu hút đệ tử và vô số tín đồ là: Trọn đời gian khổ hy sinh cho lý tưởng và quyền lợi kẻ khác.
a) Gian khổ hy sinh? Còn gian khổ nào hơn? Hy sinh nào hơn? Đức Bab ở tù, bị treo xốc nách, ngã gục dưới hàng loạt phát đạn súng của nhà cầm quyền đần độn, cuồng tín. Đức Baha'u'llah ở tù 44 năm. Đức Abdul-Baha ngồi ngục 55 năm. Ba kiếp đời chỉ vì lý tưởng giải phóng con người mà phải gởi nơi khám đường cả 100 năm mất tự do.
b) Thiện chí gởi nơi lý tưởng và quyền lợi kẻ khác. Ba Ngài với tất cả thành tâm thiện chí quyết chịu đựng gian truân để cổ võ vinh danh của Thượng-Đế, tranh thủ tự do chân chính cho loài người. Ba hạt giống cá nhân tan rã trong máu và nước mắt để cho hằng triệu cá nhân lớn lên trong hạnh phúc. Ba ý chí chim bằng bị nhốt trong khám lạnh tồi túng, chật hẹp để xô sập các biên cương kỳ thị chủng tộc, kỳ thị quốc gia, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị đẳng cấp, kỳ thị sang hèn, khôn dại.
2.- Đức Bab ra trước pháp trường?
Ngài không cô độc đâu. Hằng trăm hằng ngàn đệ tử đang ngồi tù sau lưng Ngài, đã bị bỏ thây oan nghiệt vì Ngài. Môn đồ của Ngài có kẻ bị chặt ra hàng mấy khúc, kẻ khác bị dồn vào họng súng đồng bắn chung với đạn nổ, kẻ khác nữa bị thiêu sống, vô số chết rụt trong các trại tập trung. Tiêu biểu nhứt là đồ đệ Ali tình nguyện lãnh án tử hình chung với thầy. Cảnh thầy trò chết sao mà cảm động quá. Người ta treo thúc ké hai thầy trò lên. Đầu đệ tử ngã vào lồng ngực tôn sư. Hai trái tim vĩ đại vì tình thương cao cả làm mồi cho súng đạn. Xưa nay trong lịch sử nhân loại chưa cảnh nào đoạn trường hơn cảnh sư đệ cùng chết chung cho lý tưởng như vậy!
Đức Bab có gia đình nhưng khi chết cho đại nghĩa, Ngài không chết với bạn trăm năm mà chết với đệ tử. Ali, tuổi đời còn thơ mộng quá mà chí như trời biển, thương thầy hơn cha mẹ, hơn cả bản thân. Người ta vô tình biến trại lính Tabriz thành núi Sọ thứ hai tượng trưng cho thú tính cuồng bạo của con người đàn áp công lý và đổ máu những lương tâm vô tội, trọn đời hy sinh cho nhân loại thoát trầm luân.
3.- Dưới suối vàng Đức Bab nghĩ sao về các hình khổ đổ lên đầu đồ đệ Sadiq khi chàng vì thấy tôn sư chết thê thảm, nổi điên lên, chận đường quốc vương, ám sát hụt bạo chúa nầy rồi bị bắn gục tại chỗ. Chàng bị kết án là cuồng tín, là nông nổi ư? Có thể. Nhưng đó là tình sư đệ đấy chứ. Con người của Bab phải làm sao đó môn đồ mới yêu thương hơn yêu thương tình nhân, hơn tính mạng mình. Ngày nay có biết bao nhiêu đoàn thể, lãnh tụ bị hạ sát rồi, đồ đệ gục mặt luôn. Có lắm thì thí cho một mớ biểu ngữ, vài cuộc biểu tình hoan hô, đả đảo. Có mấy trung đệ dám bỏ mạng vì minh sư?
4.- Khi Đức Bab bị câu lưu, 18 môn đệ của Ngài đang làm gì? Một số bị tóm cổ, bị sát hại, bị phóng ngục. Còn số đang tự do, không ngán gì cả, cứ tiếp tục làm ống loa rao giảng Thượng-Đế, rao giảng tự do con người, rao giảng sứ mệnh của tôn sư.
Đức Bab cứ yên lòng nơi chín suối vì trên dương trần Ngài có một Baha'u'llah. Đại đệ tử nầy gặp tôn sư trong trường hợp nào? Hãy nghe Ngài thuật lại giây phút định mệnh quyết định cho sự ra đời của đạo Baha'i.
Ngài nói: "Tự nhiên tôi bị thu hút mãnh liệt phải tiến về Shiraz. Một buổi chiều nọ tôi gặp một thanh niên tuấn tú. Người đón tiếp tôi niềm nở ngoài cổng thành Shiraz. Người vồn vã mời tôi về nhà riêng của người. Tôi từ chối không được vì người nhất quyết mời tôi cho kỳ được. Tôi bảo mắc lo cho hai người bạn có chỗ nghỉ ngơi. Người nói: "Hãy để Thượng-Đế lo cho họ". Lúc bấy giờ tôi như người bị ám thị và riu ríu đi theo người. Vào nhà riêng người, tự nhiên tôi thấy bị xâm nhập bởi niềm hân hoan kỳ lạ.
Tôi định đi rửa mặt, tay, nhưng người cản tôi đi. Người tự bưng đến tôi thau nước người dội nước cho tôi rửa tay. Tôi bồi hồi ái ngại và cảm động quá. Người mời tôi uống một ly nước mát. Rồi người đi pha trà mời tôi dùng nữa. Tôi định cáo từ viện lẽ là tới giờ đọc kinh chiều. Người lại cản tôi và bảo rằng: "Hãy định thời giờ theo thánh ý Thượng-Đế". Rồi người đứng cạnh tôi cùng cầu nguyện với tôi. Tôi bị sự đứng đắn và đáng tin cậy của người chinh phục hoàn toàn. Tôi ở lại nhà người đêm đó, đêm lịch sử, đêm định mệnh, đêm 23-5-1844.
Trong bầu không khí huyền diệu của đêm, người hỏi tôi: "Em có tìm ra ai là người được gọi là Đấng muôn dân trông đợi chưa?" Tôi đáp rằng thầy tôi dạy phải bỏ tất cả để đi tìm cho được Đấng ấy mà cho đến nay tôi chưa thấy ở đâu. Người nghiêm trang nói với tôi như khắc từng tiếng vào óc tôi rằng: "Ta đây là Đấng thiên hạ đợi trông". "Tôi nghe như hồn bị sét đánh vì cảm động và tin tưởng. Suốt đêm đó tôi ngồi dưới chân người để nghe những lời châu ngọc của người".
Đấy! Đại khái cuộc tình duyên thần thánh giữa thầy trò Đức Bab và Đức Baha'u'llah diễn ra như vậy. Kết quả là như bạn thấy ở trên, Đức Bab coi như là đầu thai trong Đức Baha'u'llah. Một đàng là Tiên phong, một đàng là Giáo tổ của Đạo Baha'i. Chỉ một đêm đó thôi mà Đức Bab khiến Đức Baha'u'llah dâng trọn cuộc đời cho Thượng-Đế, bỏ 55 năm ngồi tù, chịu không biết bao nhiêu gian khổ, ô nhục. Ôi! Quyền lực của minh sư sao mà mãnh liệt quá! Ôi! Tấc lòng của minh đệ sao mà trung nghĩa quá!
5.- Khi Đức Bab qua đời, Đức Baha'u'llah đứng lên huy hoàng. Nhưng khi Đức Baha'u'llah qua đời rồi thì sao? Càng huy hoàng hơn nữa? Đó là sự có mặt của Abdul-Baha. Đây không còn đơn sơ là con trưởng nam của Giáo-tổ, đây hơn nữa là đại môn-đồ. Một người con, ngoài tư cách qui tụ, ngoài di truyền cây nào quả nấy, còn một tư cách có ý nghĩa định mệnh hơn, thiên chức hơn, đó là tư cách của người đệ tử ý thức thiên mệnh của tôn sư. Quả thực như vậy. Mấy lần Abdul-Baha thuật lại lúc Ngài thấy thân phụ gian khổ trong tù, lúc Ngài nghe thân phụ cho biết Người là Đấng vinh quang của Thượng-Đế, Ngài phủ phục dưới chân sư phụ, thờ lạy sư phụ và quyết tâm trọn đời làm sáng tỏ chí hướng của sư phụ. Kết quả là như bạn đã thấy, sống có bảy mươi mấy tuổi mà Đức Abdul-Baha ở tù hết 55 năm và toàn bộ đời sống của Ngài là nước mắt, là hy sinh, là bố thí, là chay lạt, là cầu nguyện, là rao giảng giáo lý Baha'i.
Ngày nay đâu đâu trên thế giới cũng có bóng người Baha'i, tôn giáo ấy còn phá sập nhiều biên giới quốc gia nữa để đem tình thương đại đồng, khắp năm châu là nhờ đâu thưa bạn, há chẳng phải nhờ Tình Thầy Trò thần thánh giữa các Đức Bab, Đức Baha'u'llah, Đức Abdul-Baha và vô số đệ tử môn đồ đã gian khổ chịu tù đày, thảm tử cho lý tưởng Baha'i sao?