← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XIII TÌNH THẦY TRÒ CỦA ĐỨC PHẬT THẦY TÂY-AN VÀ MẤY ĐỆ TỬ BỬU-SƠN KỲ-HƯƠNG-(Thầy chết rồi, Trò thay phiên tiếp tục việc Thầy cả 100 năm sau.)

Phật-giáo Hòa-Hảo là một tôn giáo lớn và Đức Huỳnh-Phú-Sổ, giáo tổ của tôn giáo ấy là một vĩ nhân ở Việt-Nam. Nhưng hễ nói đến Hòa-Hảo giáo là người ta nghĩ ngay Bửu-Sơn Kỳ-Hương cũng như hễ đề cập Đức Huỳnh Giáo-Chủ là không ai quên được Đức Phật Thầy Tây-An. Mối liên quan vô cùng quan trọng ấy ta sẽ xét sau. Ở đây, trước khi tìm hiểu thầy trò giữa Đức Huỳnh Giáo-Chủ và các đệ tử Hòa-Hảo giáo ta tìm hiểu trước tình thầy trò giữa Đức Phật Thầy và các đệ tử Bưu-Sơn Kỳ-Hương.

I.-ĐỨC PHẬT THẦY TÂY-AN LÀ AI?

Về Đức Phật Thầy ở chùa Tây-An, ngày nay còn lại rất ít tài liệu chính lục. Người ta chỉ biết một vài nét chính yếu về tiểu sử cùng sự nghiệp của Ngài thôi. Để viết mục nầy, tôi theo tài liệu trong cuốn "Thành ngữ điển tích" quyển 2 của Trịnh Văn Thanh và cuốn "Thất-sơn mầu nhiệm" của Dật-Sĩ và Nguyễn-Văn Hầu.

1.- Thời thơ ấu và thanh xuân:

Đức Phật Thầy, sinh tại làng Tòng-Sơn, tổng Cái-Tàu-Thượng, tỉnh Sa-Đéc, giờ ngọ, ngày rằm tháng 10 năm Đinh-Mão (1807), Gia-Long thứ 8. Tên thật của Ngài là Đoàn-Minh-Huyên. Dòng họ Ngài cách đây hằng 100 năm, không ai biết rõ được lai lịch. Chỉ biết lúc Ngài ra đời, Ngài có hai anh chú bác là Đoàn-Văn-Điểu và Đoàn-Văn-Viên. Hiện nay ngôi mộ thân mẫu Ngài còn tại Cái-Nai cách Cái-Tàu-Thượng 3000 thước. Trước năm 43 tuổi thì cuộc đời Ngài bình thường như bao nhiêu người dân khác trong làng Tòng-Sơn. Từ 43 tuổi trở đi thì Ngài tỏ ra nếp sống có nhiều điểm khác thường.

2.- Bắt đầu độ thế:

Ngài thường chèo một chiếc thuyền con lênh đênh, bấp bênh trên dòng sông từ rạch Cái-Tàu-Thượng qua rạch Xẻo-Môn thuộc tỉnh Long-Xuyên ngày nay. Tương truyền buổi sáng nọ giữa lúc dân làng Kiến-Thạnh bị bịnh dịch khủng khiếp, Ngài leo lên bàn thờ trong Đình-Thần làng Kiến-Thạnh, ngồi uy nghiêm ở đó. Ông từ vào đốt nhang đèn thấy hoảng hồn hoảng vía la lên. Ngài bảo im vì Ngài là Phật giáng thế. Ông từ nói: "Nếu ông là Phật giáng thế thì sao ông không chữa cho dân làng khỏi bịnh thời khí. Đức Phật Thầy bảo ông từ bịnh nhân đâu đem lại Ngài chữa cho. Thế là từ đó, thiên hạ ùn ùn đến xin Ngài chữa bệnh. Ngài ở Đình-Thần 3 bữa rồi qua trú ở Cốc ông Kiến tại nền chùa Tây-An cổ tự tại núi Sam ngày nay. Về đây cũng tiếp tục chữa bịnh.

Nhà chức trách địa phương thấy thiên hạ ùn ùn kéo đến Đức Phật Thầy, sợ trách nhiệm về an ninh nên tâu về tỉnh. Tỉnh trưởng An-Giang bấy giờ là quan Tổng-Đốc Huỳnh-Mẫn-Đạt sai người bắt Đức Phật Thầy về An-Giang. Tại đây ban đầu, Ngài bị nghi là đạo sĩ gian. Người ta hành hạ, thử thách Ngài đủ điều. Nhưng sau cùng thấy Ngài dám đốt liều trên đầu, dám nướng chuông nóng úp lên đầu trong khi nhiều nhà sư khác không dám và nhứt là khi thấy Ngài có phong cách chân tu, tính tình đôn hậu, ai nấy đều kính phục Ngài. Một thời gian sau, Ngài được trả tự do.

3.- Lập cơ đồ ở núi Sam:

Thoát khỏi cảnh giam cầm rồi, Đức Phật Thầy về tá túc tại một ngôi chùa của giáo phái Lâm-Tế. Vì đó, đến nay còn nhiều người tưởng Ngài thuộc giáo phái nầy. Kỳ thực là Ngài nương náu ở đó để khỏi bị chính quyền nghi kỵ. Tuy cư trú chính thức tại chùa ở núi Sam song Đức Phật Thầy đi khắp vùng Thất-Sơn. Ngài lập những cơ sở đặc biệt mà Ngài gọi là Trại Ruộng. Công việc chính trong các trại ruộng là tu hành và phát triển kinh tế nông thôn. Thực là một sáng kiến, một chương trình cao minh về cứu dân độ thế.

4.- Giờ phút viên-tịch:

Sau 7 năm hoằng pháp, truyền bá đạo lý, chữa bịnh cho dân chúng, luyện tập môn đồ, thành lập nhiều trại ruộng, Đức Phật Thầy viên tịch tại chùa Tây-An ở núi Sam vào giờ ngọ ngày 12 tháng 8 năm Bính-Thìn (1856), hưởng thọ 50 tuổi.

5.- Di-tích về Đức Phật Thầy Tây-An:

1.- Tại Tòng-Sơn còn ngôi đình làng mà trước kia Ngài tá túc. Trong đình ngày nay có thờ bài vị của Ngài giữa đôi liễn đề hai câu:

Tòng-Sơn đắc ngộ Phật

Tây-An quả giác sư

2.- Tại Cái-Nai thuộc quận Chợ-Mới, tỉnh Long-Xuyên còn ngôi mộ của Phật mẫu tức thân mẫu Đức Phật Thầy. Kế bên có nhà thờ sớm hôm hương lửa.

3.- Tại Long-Kiến, ngay nền cái Cốc ông Kiến mà Đức Phật Thầy ở trước khi bị bắt về An-Giang là chùa Tây-An Cổ-Tự được sửa sang mấy đợt nay rất nguy nga.

4.- Tại Châu-Đốc, ở núi Sam, trên triền núi có chùa Tây-An. Đây là nơi Đức Phật Thầy cư trú cho đến ngày viên tịch. Sau chùa là mộ Đức Phật Thầy.

5.- Tại Thới-Sơn có hai ngôi chùa: Phước-Điền-Tự và Thới-Sơn-Tự vốn xưa là hai trại ruộng của Đức Phật nay được biến thành hai ngôi chùa.

6.- Tại Láng-Linh thuộc làng Thạnh-Mỹ-Tây còn Bửu-Hương-Các vốn là trại ruộng xưa Đức Phật Thầy giao cho Cổ quản Trần-Văn-Thành đảm nhiệm.

Nay trại được sửa sang thành nơi phượng tự có người trông coi nhang đèn hôm sớm.

6.- Giáo thuyết của Đức Phật Thầy:

1) Phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương:

Đức Phật Thầy sáng lập một tông phái tu hành riêng cho mình gọi là Bửu-Sơn Kỳ-Hương. Ý nghĩa danh xưng ấy là Bửu-Sơn là Núi Quí. Núi là núi Sam. Kỳ-Hương là mùi thơm lạ. Ngụ ý là từ núi Sam quí tủa mùi hương lạ khắp Việt-Nam để mở Long-Hoa Đại-Hội.

Đức Phật Thầy có đặt một bài thơ nói về tông phái ấy lưu truyền đến ngày nay. Bài thơ đọc ngang dọc gì cũng có ý nghĩa ẩn náu thâm trầm cả. Bài thơ như sau:

a) Đọc ngang:

Bửu Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên

Sơn Trung Sư Mạng Địa Nam Tiền

Kỳ niên Trạng tái tân phục quốc

Hương xuất Trình sanh tạo nghiệp yên

b) Đọc dọc:

Bửu-Sơn Kỳ-Hương

Ngọc trung niên xuất

Quân sư Trạng Trình

Minh Mạng tái sanh

Thiên địa tân tạo

Viet-Nam phục-nghiệp

Nguyên Tiền Quốc Yên.

2) Nền học Phật tu nhân:

Nền học Phật tu nhân của Đức Phật Thầy dựa trên các đặc điểm sau đây:

1.- Căn bản Phật thuyết cổ truyền:

Giáo lý của Đức Phật Thầy dựa trên giáo lý cổ truyền, chính thống của Đức Thích-Ca. Theo Ngài, ba tiếng toát yếu Phật pháp là Giới tức giữ những giới cấm để thoát vô minh, là Định tức suy nghĩ lý cao siêu của Đạo, là Tuệ tức hiểu được lẽ vô thường và khổ não để đoạt tinh thần vô vi và vô thường.

2.- Đề cao Tứ Ân:

Học Phật chưa đủ còn phải tu nhân. Mà tu nhân là giữ trọn tứ ân. Bốn ân ấy là:

Ân tổ tiên cha mẹ (Đức Hiếu)

Ân đất nước (Lòng ái quốc)

Ân tam bảo (Kính Phật, Pháp, Tăng)

Ân đồng bào và nhân loại (Tình đồng bào)

3.- Đạo Phật dấn thân:

Điểm tuyệt vời độc đáo trong giáo thuyết của Đức Phật Thầy là đưa đạo Phật vào đời. Vì đó Ngài nặng về tổ chức kinh tế đi đôi với học Phật tu nhân. Gần như chưa có mấy vĩ nhân nào sốt sắng thực hiện chủ trương đường lối ấy như Đức Phật Thầy. Ngài lập vô số trại ruộng để dân chúng khai thác nông thôn. Dân chúng tập trung làm ăn phát đạt mà sống theo tinh thần tứ ân từ vật chất đến tâm linh đều lên cao. Trong Đức Phật Thầy ta thấy một Huyền-Trang cộng với một Nguyễn-Công-Trứ. Các trại ruộng của Ngài có thể coi là những Kíp-Bút Do-Thái ở Việt-Nam cả trăm năm về trước không? Thời đó mà Đức Phật Thầy có sáng kiến tổ chức xã hội như vậy, ta không cho Ngài là bộ óc tân kỳ vĩ đại sao?

II.- TÌNH THẦY TRÒ GIỮA ĐỨC PHẬT THẦY VÀ CÁC ĐỆ TỬ BỬU-SƠN KỲ-HƯƠNG:

1.- Động lực nào thúc đẩy nhiều người theo làm đệ tử và tín đồ Đức Phật Thầy? Ta có thể trả lời ngay mà không cần dè dặt gì hết: Đó là đời sống chân tu, xả kỷ, vị tha cao độ của Ngài.

Không biết trong thời gian trước 43 tuổi, hạnh kiểm của Ngài ra sao? Nhưng từ tuổi ấy về sau, tức là từ khi Ngài đến Đình Thần Long-Kiến bắt đầu chữa bịnh cho đến khi Ngài viên tịch tại Chùa Tây-An, cuộc đời của Ngài là một bài thơ tuyệt đẹp. Đẹp vì thánh thiện. Đẹp vì phục vụ nhân sinh. Tôi nghĩ chính cuộc đời đức hạnh đó đã lôi cuốn nhiều người tự nguyện làm đệ tử trung thành của Ngài.

Ta nhớ lúc bị giam ở An-Giang trong cơn pháp nạn, nhà chức trách buộc Ngài xuống tóc. Ngài gởi về Cù-Lao Giêng cho hai đệ tử là hai ông Nguyễn-Văn-Duyên và Nguyễn-Văn-Kinh hai lọn tóc của ông. Khi nhận món quà nầy, chắc hai vị đó vô cùng cảm động vì thương thầy. Nhứt là khi họ biết rằng Thầy trong lúc bị giam cầm đã từng đốt liều trên đầu, đã từng nướng chuông nóng úp lên đầu trong khi nhiều nhà sư khác không dám làm như vậy. Bạn thấy có phải Đức Phật Thầy xâm nhập tận tim não môn đồ của Ngài không?

2.- Sau khi Đức Phật Thầy qua khỏi pháp nạn, Ngài về trọ ở chùa của giáo phái Lâm-Tế tại núi Sam. Mới đầu, các nhà sư trong chùa khinh thường Ngài, để cho Ngài giữ chức vụ nhỏ. Dần dần Ngài biểu lộ tư cách cao nhã, tâm chí tu hành siêu luyện. Sau cùng, các sư tôn Ngài lên sư trưởng và ai nấy tỏ ra là đệ tử ngoan ngoãn của Ngài. Đấy! Một bằng chứng hùng biện nữa chứng minh rằng tình thầy trò của Đức Phật Thầy xây dựng trên nền tảng đạo đức của bực thầy.

3.- Đức hạnh của Ngài không phải là thứ Đức Hạnh lý thuyết suông. Ngài thể hiện nó bằng hành động xã hội xuất sắc. Trong vùng Thất-Sơn, Ngài lội nát hết, vừa đi tế độ, trị bịnh cho dân chúng, vừa đi rao giảng đạo lý và đặc biệt là Ngài tổ chức những cơ sở vừa tu vừa phát triển kinh tế mà Ngài gọi là trại ruộng. Tiếp tay đắc lực với Ngài là các đệ tử.

Hầu hết các đệ tử của Ngài là những người tu tại gia. Như đã nói trên, Ngài chú trọng tinh thần vô thượng và đề cao đường lối vô vi của Phật nên không câu nệ hình thức. Quan trọng là tu tâm và giúp đời. Vì lẽ đó môn sinh của Ngài tự do để tóc để râu không nhất thiết phải xuất gia, không thờ xá lợi, Phật cốt. Trong nhà chỉ treo tấm Trần-Điều và đặt một cái trang thờ tam bảo thôi. Ngài quan tâm nhứt là thúc đẩy đệ tử thực hiện tứ ân. Chẳng những phải thực hiện trong tâm, thực hiện bằng kinh kệ mà còn thực hiện bằng cộng tác xã hội, bằng các trại ruộng quanh vùng núi Sam, Thới-Sơn, Láng-Linh.

Những môn đồ cao thủ nhất của Đức Phật Thầy, người ta có thể kể các ông: Nguyễn-Văn-Thành, Nguyễn-Văn-Xuyến, Đặng-Văn-Ngoạn, Phạm-Thái-Chung, Nguyễn-Văn-Duyên, Nguyễn-Văn-Kỉnh. Dân chúng thường kêu phần đông các vị nầy là những ông Đạo vì tuy không xuất gia nhưng nếp sống của họ biểu lộ sự tu hành khả kính. Theo đúng tinh thần vừa tu hành vừa phục vụ, họ là những người gây ảnh hưởng mãnh liệt trên dân chúng cả một vùng rộng lớn quanh Thất-Sơn. Bửu-Sơn Kỳ-Hương trở thành một động lực tinh thần, siêu nhiên cho dân chúng trải qua bao cuộc tao loạn và đàn áp của chính quyền thực dân. Sở dĩ các đệ tử của Đức Phật Thầy trở thành những nhà tu chiến sĩ cho công ích quyết liệt như vậy là nhờ gương tu hành dấn thân quyết liệt của tôn sư. Trò thấy thầy hoàn toàn xá kỷ vị tha, thấy thầy dám hiến trọn cuộc đời cho tu hành và quần sanh nên không trò nào tiếc gì với Thầy.

4.- Để chứng minh tình sư đệ cao sâu giữa thầy trò Đức Phật Thầy, ta tìm hiểu sơ lược tiểu sử vài vị trung đệ minh đồ của Ngài.

a) Đức chánh quản cơ Trần-Văn-Thành:

Đây là một môn sinh đầu sổ, thể hiện được tinh thần tu đạo cứu đời nhứt của Đức Phật Thầy. Không rõ ông sinh năm nào, ở đâu. Nơi Ngài lưu trữ lúc ấu thơ là Cồn nhỏ thuộc tỉnh Châu-Đốc. Vốn thuộc gia đình khá giả, ông còn là người tự nhiên thông minh. Tướng diện khôi ngô có năng khiếu văn lẫn võ. Thời Thiệu-Trị, Tự-Đức, ông làm quan đến chức chánh quản cơ. Vì đó người ta hay gọi ông là ông Cố Quản. Ông lập gia đình với bà Nguyễn-Thị-Thạnh, người Sa-Đéc. Ông bà sinh 6 con, 3 trai 3 gái.

Đã có lần ông chiêu mộ binh sĩ dẹp loạn ở biên thùy Việt Miên. Tướng trứ danh dưới tay ông là hai người Miên tên Bườm và Vôi và một người Việt tên ông Hai Lãnh.

Tuy có máu võ biền như vậy, song tâm địa ông là tâm địa cầu tu. Nghe đồn Đức Phật Thầy giáng thế ở Xẻo Môn, ông tìm Ngài, chờ đợi ba ngày mới gặp được. Sau cuộc tiếp xúc với Đức Phật Thầy ông xin qui y làm đệ tử. Từ đó ông thu dẹp các việc gia đình, về núi Sam theo sát tôn sư. Thấy người đầy đủ đức tài và lòng trung hậu, Đức Phật Thầy giao cho ông cai quản trại ruộng lớn nhất là Bửu-Hương-Các, tại làng Láng-Linh. Cơ sở có thể coi là thí điểm đầu não của chương trình Phật pháp dấn thân và là nơi đào tạo môn đồ của Đức Phật Thầy. Ông chí thân lo tròn sứ mệnh sư phụ ủy thác! Song khi giặc Pháp gia tăng ác liệt, áp đảo tỉnh An-Giang nhân vụ Thủ-Khoa-Huân không buông súng đầu hàng, bị bắt. Ông tức khí anh hùng tạm gác áo nhà tu, chiêu mộ quân sĩ kháng chiến chống Pháp. Năm 1867, Đô-Đốc De La Grandière đánh ráo riết, buộc Phan-Thanh-Giản giao ba tỉnh An-Giang, Hà-Tiên, Vĩnh-Long. Cụ Phan tử tiết. Đức Cố Quản thấy tình thế nguy kịch, để giữ tiết tháo của kẻ sĩ tu hành kéo quân về Bãi Thưa. Bị quân Pháp đánh một trận tơi bời tại Bãi Thưa, ông chạy về ẩn trú tại Láng-Linh, giải nghệ quân binh, lo tu hành. Nghe nói sau đó một thời gian ông dấy binh ở Bãi Thưa nữa nhưng không thấy sử sách ghi lại khoảng đời sau cùng của ông.

Tóm lại Đức Chính Quản Cơ Trần-Văn-Thành là người pha lẫn hai dòng máu võ tướng ái quốc và tu hành độ nhân. Ông là đồ đệ cự phách nói lên được đường lối độc đáo tu hành dấn thân của sư phụ là Đức Phật Thầy.

b) Tăng chủ Bùi Thiền Sư:

Một môn đồ xuất sắc nữa của Đức Phật Thầy. Ông tên thật là Bùi-Văn-Thân người tướng diện tốt. Sống độc thân. Tâm địa tu hành và chí rất tháo vát. Đức Phật Thầy giao cho ông cai quản trại ruộng Hưng-Thới gần núi Két, nay là một phần của Thới-Sơn. Chính ông cũng đi lại trông coi Phước-Điền-Tự cho Đức Phật Thầy nữa. Ông là người vừa tu hành vừa chiêu dụ dân chúng khai sơn phá thạch, trồng tỉa chăn nuôi làm cho trại Hưng-Thới một thời rất phồn thịnh.

Sau vì bất đồng ý kiến với ông Cả Lăng ở Hưng-Thới, ông Tăng Chủ qua miền Xuân-Sơn lập tại đó một ngôi đình. Công việc rất phát đạt. Ông cứ tiếp tục trị bịnh và lao tác cho đình Xuân-Sơn ngày một phát đạt. Ông qua đời tại đình nầy thọ 80 tuổi không biết ngày tháng năm nào.

c) Ông Đặng-Văn-Ngoạn:

Ông sinh 1820 tại làng Nhị-Mỹ thuộc tỉnh Kiến-Phong ngày nay. Có ba đời vợ và đến đời chót mới có được một con Đặng-Văn-Hứa. Theo sách Đạo ông giảng tập, ông được coi là một trong "Thập nhị hiền thú" của Đức Phật Thầy. Năm 20 tuổi, ông có chí hướng tu hành. Song khi vào nơi nọ, gọi là Rạch ông Bườm ẩn dật tu, thì bị người trong thân tộc cáo với nhà chức trách rằng ông mưu đồ làm giặc. Ông bị bắt. Sau được thả mà lòng chán nản vì tình đời đen bạc.

Năm 1850, khi biết được Đức Phật Thầy truyền đạo núi Sam, ông liền xuất gia đến qui y. Thoạt đầu ông được Đức Phật Thầy ủy thác công việc hiệp tác với Tăng chủ Bùi-Thiền-Sư tái núi Voi. Sau được kêu về cùng ông Đạo Thạch lo cho chùa Tây-An tại núi Sam. Trong các môn sinh của Đức Phật Thầy, ông là người đau khổ, lận đận về tình duyên nhất.

Đang tu với tôn sư, ngày nọ tôn sư bảo ông về nhà lập gia đình, lo cho mẹ già. Ông bùi ngùi do dự. Tôn sư bảo kiếp ông 60 tuổi mới thoát hết truân chuyên. Nhân lúc ông định nghe lời thầy hoàn tục như vậy có người tên Thị-Nhị, cũng là tín độ của Đức Phật Thầy, tình nguyện xin kết tóc xe tơ. Thế là hai người trước mặt tôn sư thành đôi bạn. Vợ chồng về quê, sống với nhau một thời gian, bà vợ sanh chứng hung dữ, gian tham. Cả hai đang làm chủ một cảnh chùa, bà vợ bảo là do công mình nên dọn hết của, dở chùa đem về cha mẹ. Ông nhịn thua và vợ chồng ly thân. Qua đi một thời gian. Mẹ ông khuyên ông lập gia đình với một người đàn bà tên là Thị-Thu. Hai ông bà ăn ở nhau không con cái gì mà rất đầm ấm. Họ tạo nên một cảnh chùa bổn đạo rất đông. Mụ Nhị chưa buông tha chồng cũ, tìm ông cho được, bắt ghen, giựt của dọn đồ ở chùa ông. May nhờ có ông chủ sắc can gián, binh vực ông, công việc mới êm. Bà Thu qua đời. Ông Ngoạn lại long đong nữa. Người mẹ già thấy ông độc thân trôi nổi như vậy lại khuyên ông cưới một người đàn bà ở rạch Cái Vừng tên Nguyễn-Thị-Huệ. Ăn ở cùng bà vợ thứ ba nầy, ông Ngoạn có được một con trai như đã nói trên và ông tìm lại được yên ổn tâm hồn vì bà Huệ là người đạo hạnh, mẫn cán. Lúc nầy ông 60 tuổi. Quả đúng như lời tôn sư Phật Thầy Tây-An đã báo trước.

Suốt quãng đời lận đận, ba chìm bảy nói như vậy, ông đạo Ngoạn tỏ ra là người đức hạnh. Bà Nhi là một thứ Xanthippe của Socrate, làm cho chí tu của ông được cao hơn. Bà Thu hiền hòa lại qua đời sớm làm cho tâm hồn ông thuần thục nếp tu hơn. Đến bà Huệ đảm đang giúp ông lo xây dựng chùa chiền chu đáo. Ngày 19 tháng 2 năm Canh Dần, ông tịch diệt thọ 70 tuổi giữa cảnh tiếc thương vô bờ bến của người vợ hiền và các đệ tử, tín đồ.

d) Ông Nguyễn-Văn-Xuyến:

Ông sinh năm 1834 và tịch diệt năm 1914. Thuộc hàng đại đệ tử của Đức Phật Thầy. Quê ở Ba-Giác nay là quận Đôn-Nhơn, tỉnh Kiến-Hòa. Ông ít học mà giỏi nghề thuốc Bắc. Ông có hai đời vợ, người trước là bà Phạm-Thị, sinh 6 con, người sau là bà Thị-Khoảnh sinh một con. Lúc nhỏ ông theo mẹ, bỏ Ba-Giác về ở Đốc-Vàng-Hạ. Ông được Hòa-thượng chùa Đốc-Vàng thương cho làm đệ tử. Sau vì Hòa-thượng nầy viên tịch, ông theo đà tu-luyện, đi khắp vùng Thất-Sơn tìm đạo, luyện pháp thuật.

Năm 1850, ông 17 tuổi gặp được Đức Phật Thầy tại núi Sam. Tôn sư giao cho ông sứ mệnh đặc biệt là điều khiển một chiếc thuyền đi truyền đạo, tương truyền khi đi từ Bà-Rịa về miền Tây ông sử dụng thường các loại pháp thuật để trừ quỷ cứu dân.

Theo lời khuyên của Đức Phật Thầy, ông lập gia đình. Sau đó tôn sư chỉ chỗ cho ông bà lập một ngôi chùa ở Bình-Long, tức chùa Châu-Long-Thới. Suốt đời ông chuyên trị bịnh. Ông thọ đến 81 tuổi, viên tịch ngày 4 tháng 8 năm Giáp-Dần (1914). Đường lối tu hành của ông ăn rập của Đức Phật Thầy. Ông ra đi giữa muôn ngàn thương tiếc của môn sinh, tín hữu.

e) Ông Phạm-Thái-Chung:

Ông sinh tử ngày tháng năm nào không được biết. Pháp danh của ông là Sùng-Đức-Võ. Người ta quen gọi ông là ông Đạo Lập. Ông qui y trong trường hợp đặc biệt là lúc ông đến thăm Đức Phật Thầy khi Ngài bị nạn ở An-Giang. Ông cũng là đại môn sinh của Đức Phật Thầy vì nổi danh tu đức và tài ba. Sở trường của ông là ngồi thiền, luyện phép. Tương truyền rằng ông trứ danh về các phép tàng hình, ném dao, giải bùa, phá ếm. Trong khoảng từ 1856 đến 1877, người ta luôn thấy ông xuất hiện các miền Hà-Tiên, Đồng-Tháp, Tà-Lơn, Châu-Đốc. Nếu ai tin giác quan thứ sáu thì tất nhận ông Đạo Lập là người chuyên làm được những việc phi thường bằng điện giác. Đặc điểm của ông là đạo hạnh và giúp đời. Nhìn qua ông người ta thấy một Đức Phật Thầy vừa tu vừa dấn thân.

Tóm lại, Đức Phật Thầy còn nhiều đệ tử khác nữa, nhưng một số đại môn sinh kể trên nói lên tình thầy trò nơi Đức Phật Thầy và các môn đồ rất thâm thúy và đắc lực. Chung qui là do Thầy chân tu, cao thượng hy sinh, thương mến trò; còn trò thì cũng thành tâm, thiện chí, cố tu giúp đời, vì đó cả 100 năm mà Thầy Trò Đức Phật Thầy đã tạo nên tông phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương, ảnh hưởng mãnh liệt từ tâm linh đến xã hội cả một vùng Thất-Son bao la, huyền bí.

5.- Ngoài những đệ tử trực tiếp chết sống với Đức Phật Thầy lúc Ngài còn sinh tiền, còn một số người có thể gọi là đệ tử trong chí hướng đã truyền đạo, kế nghiệp Ngài một cách hữu hiệu sau khi Ngài viên tịch.

Các đệ tử nầy mỗi người một sắc thái, vẫn theo truyền thống Phật Thầy mà tạo ra những sự nghiệp tu hành, phục vụ riêng, trở thành những giáo chủ, có kẻ vĩ đại hơn chính tôn sư của mình chẳng hạn trường hợp của Đức Huỳnh-Phú-Sổ, Giáo-tổ của Phật-giáo Hòa-Hảo.

Mỗi đại đệ tử gần hay xa của Đức Phật Thầy lại có những đệ tử riêng, tất cả tạo thành một hệ thống thầy trò nối kết bằng lý tưởng siêu nhân, bằng tình thương cao cả, bằng ý chí can trường và bằng đời sống hy sinh cho chúng sinh. Ngoài Đức Huỳnh-Giáo-Chủ mà tôi sẽ đề cập riêng ở một chương sau, ta có thể kể các bực tên tuổi sau đây:

1.- Đức Phật Trùm hay Ông Đạo Đèn:

Ngài người gốc Miên có vợ và bốn con. Phát đạo từ núi Tà-Lơn. Vì Ngài tự xưng là Trùm của Phật giáng thế nên người ta gọi Ngài là Đức Phật Trùm và vì Ngài dùng đèn sáp đốt trị bịnh nên người ta cũng gọi Ngài là ông Đạo Đèn. Tương truyền rằng năm 1868, Ngài chết rồi phục sinh mạnh khỏe lại như thường. Thân nhân, xóm diềng quá ư kinh ngạc. Ngài nổi danh trị bịnh. Quần chúng bịnh nhân đến Ngài tấp nập. Chính quyền nghi Ngài hoạt động chính trị, bắt Ngài phóng ngục ở Châu-Đốc. Theo Dật-Sĩ và Nguyễn-Văn-Hầu thuật lại trong cuốn Thất-Sơn Mầu-Nhiệm qua lời ông Nguyễn-Phước-Côn thì mấy lần Đức Phật Trùm bị nhốt ngục, bị bỏ vào cũi quăng xuống sông, bị bỏ vào vạc dầu sôi, Ngài đều tàng hình thoát nạn, đi ung dung ngoài phố làm ai nấy hoảng vía kinh hồn. Người Pháp thấy vậy đày Ngài ra hải ngoại, bắt chăn heo và uống độc dược. Tương truyền rằng Ngài khiến heo đi kiếm ăn rồi tự động về chuồng nên Ngài khỏi chăn và Ngài uống độc dược như người ta uống nước lã, càng uống Ngài càng khỏe mạnh. Sau được trả tự do, Ngài trở về núi Tà-Lơn tiếp tục trị bịnh cứu đời. Ngài soạn một tác phẩm truyền giáo gọi là Sấm Giảng. Ngài truyền đạo bảy năm giống như Đức Phật Thầy Tây-An, qua đời ngày 21 tháng 10 năm Ất-Hợi (1875). Suốt đời Ngài là Đạo Hạnh, hiền lương và cứu độ mà luôn mắc nạn.

2.- Ông Cử Nguyễn-Đa:

Ông tên thật Nguyễn-Đa, đổ cử nhân nên người ta hay gọi là ông cử Đa. Ông người gốc Qui-Nhơn vào Thất-Sơn lối 1867. Tâm hồn của ông là tâm hồn chí sĩ, nặng lòng ái quốc mà không gặp thời. Tâm sự ông gởi trong hai vần thơ sau đây:

"Lòng ta luống những ưu phiền,

Một mình trực tiết không miền gió trăng."

Ông chuyển tình yêu đất nước thành lòng đạo cứu đời và định sống mai danh ẩn tánh nơi sơn thôn cùng cốc. Nhưng rồi quân Pháp cũng tìm bắt được ông đày ra Phú-Quốc. Ông trốn thoát đảo nầy, trở về Tà-Lơn, lấy Đạo hiệu là Ngọc-Thanh, quyết tâm đi con đường cứu độ chúng sinh. Môn đồ theo ông dần dần đông đúc. Xuất sắc nhất trong các đệ tử là các ông Nguyễn-Ngọc-Minh và Trần-Bá-Lương. Tương truyền rằng sau khi ông tịch diệt rồi có hứa với các đệ tử Trần-Bá-Lương sẽ về hóa độ nếu Lương quyết chí chân tu. Ngày nọ có người Tàu mình bị lác gọi là ông khách Lác đến xin ông Lương chữa bịnh. Ông Lương bảo ngồi đợi, ăn cơm xong sẽ trị cho. Lúc ông Lương vào nhà trong ăn cơm, ông khách Lác khuân mâm cơm cúng xuống ăn sạch. Ông Lương ra thấy vậy bất mãn. Ông khách Lác chẳng những không hối lỗi còn to tiếng cãi vã. Ông Lương xách roi, rượt đánh. Ông khách Lác chạy có cờ, đến dòng suối nọ, phi thân qua bên kia bờ rồi hiện hình ông Cử Đa mà nói rằng: "Lương! Sao con còn hung tính quá! Nay Thầy về thăm con mà con vẫn nóng nẩy như vậy. Hãy tiếp tục tu nữa". Ông Lương ngơ ngác như bị trời trồng, lòng buồn rười rượi vì nhớ Thầy và sám lỗi.

3.- Ông sư vãi bán khoai:

Không rõ sinh ngày tháng năm nào. Nghe nói tên thật là Mỹ. Có vợ và hai con. Tướng diện ông giống đàn bà. Đi đâu cũng mang yếm vải trước ngực mà chí tâm luôn tu hành nên người ta gọi là ông sư vãi. Người khác nói ông là sư mà giống bà vãi nên gọi là sư vãi nữa. Ông dùng ghe chèo lênh đênh bán khoai để giảng đạo. Tác phẩm ông soạn gồm 11 quyển nhan đề là Sấm Giảng Người Đời. Nội dung lời giảng của ông chú trọng tu thân tích đức và yêu mến tổ quốc. Nơi ông thường lui tới để truyền đạo là xứ Miên, là kinh Vĩnh-Tế, là Cù lao Ông Chưởng. Ông nổi danh vùng Thất-Sơn về tu đức, võ nghệ và pháp thuật.

Không biết ông tịch diệt lúc nào và ở đâu. Ai ai cũng đều nuôi trong tâm hồn kỷ niệm cao đẹp về con người đức hạnh và cuộc đời cứu độ chúng sinh bất vị lợi của ông.

4.- Giáo Tổ Đạo Hiếu-Nghĩa:

Ngài tên thật là Ngô-Lợi, biệt danh là Hữu. Đệ tử và tín đồ Ngài là Đức Bổn-Sư. Ngài là người tâm tính ôn lương, ăn nói đắc nhân tâm. Tên tuổi Ngài nổi như cồn do tư cách tu hành và do tài trị bịnh cùng pháp thuật trừ tà ếm quỷ của Ngài. Vùng hoạt động của Ngài vẫn là vùng Thất-Sơn. Đặc biệt nhất là ở Cù Lao Ba và núi Tượng, tương truyền có lần Ngài phá ếm một cây đa nọ và lần kia bị quân Pháp bao vây, Ngài làm phép cho Ngài và các tín hữu thoát trước mặt quan quân Pháp mà họ không hay biết gì cả. Ngài soạn một cuốn sách để giảng đạo gọi là Đồ thư. Chính Ngài sáng lập đạo Hiếu-Nghĩa ngày nay còn thịnh hành. Ai gặp Ngài đều nhận thức nơi Ngài phong độ của một Tôn sư, có lẽ vì đó mà Ngài mang tên Đức Bổn Sư do quần chúng tự nhiên tôn tặng.

Ngài diệt tịch ngày 13 tháng 10 năm Kỷ-Dậu (1909) giữa sự luyến tiếc sâu xa của nhiều đệ tử và tín đồ. Tương truyền rằng xác Ngài được một ông Cọp vồ đem đi một nơi bí mật thoát khỏi tay quân Pháp tầm nã. Ngài qua đời để lại trong lòng dân chúng vùng Thất-Sơn bấy giờ ấn tượng vô cùng khâm phục và mến mộ.

Tóm lại, xét qua sơ lược tiểu sử của các bực tu hành nầy, ta thấy mỗi vị mỗi cách tiếp nối truyền thống của Đức Phật Thầy Tây-An. Ta cũng thấy cuộc đời cao đẹp của Đức Phật Thầy đều tự tại trong các đệ tử gần và xa của Ngài, tạo thành một mặt trận tu hành, một chiến dịch cứu thế kéo dài hàng trăm năm nơi một địa linh phong phú về mọi mặt là Thất-Sơn huyền bí.