← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XIV TÌNH THẦY TRÒ CỦA ĐỨC NGÔ-VĂN-CHIÊU GIÁO TỔ ĐẠO CAO-ĐÀI VÀ CÁC ĐỆ TỬ -- (Lòng tu đức chân thành của Thầy tự nhiên lôi cuốn Trò.)

Cũng như Hòa-Hảo giáo, Đạo Cao-Đài là một tôn giáo lớn, chính người Việt-Nam sáng lập và chiếm trên số triệu người Miền Nam. Ở đây ta chỉ xét một khía cạnh độc đáo trong tôn giáo khả kính ấy: Khía cạnh tình thầy trò giữa Đức Giáo-tổ Ngô-Văn-Chiêu và các đệ tử đầu tiên của Ngài. Từ nhận xét ấy, ta ý thức được rằng trong cuộc phát triển đại qui mô của Cao-Đài Giáo từ 1924 đến nay, tình thầy trò đóng vai trò hệ trọng. Nét độc đáo nơi tình sư đệ trong Cao-Đài Giáo là chẳng những Đức Giáo-Tổ coi một số đạo hữu ban đầu là đệ tử, mà chính Đức Cao-Đài tức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế cũng coi Đức Ngô-Văn-Chiêu là đệ tử và Ngài gọi Đức Cao-Đài bằng Thầy. Vì nét độc đáo đó mà tình thầy trò giữa Đức Ngô Giáo-tổ với môn đệ rất nặng ý nghĩa thiêng liêng. Trước khi phân tích khối tình sư đệ ấy, ta cần biết qua tiểu sử của Ngài.

I.- ĐỨC NGÔ-VĂN-CHIÊU LÀ AI?

1.- Thời thơ ấu và thanh xuân:

Đức Ngô-Văn-Chiêu, đạo hiệu Ngô-Văn-Chiêu, thủy tổ của Đạo Cao-Đài, là con một của ông Ngô-Văn-Xuân, người Trung-Việt và bà Lâm-Thị-Quí, người Nam-Việt, sinh ngày 28-2-1878 tại Bình-Tây thuộc Chợ-Lớn. Tương truyền rằng lúc mới sinh ra, Ngài không bú sữa mẹ được vì hễ bú thì có thể sưng húp lên, nên thân mẫu nuôi Ngài bằng nước cơm pha đường, rồi dần dần tập Ngài dùng cháo, dùng cơm.

Lên 6 tuổi, cha mẹ đi Hà-Nội làm ăn, Ngài ở với người cô tên Ngô-Thọ-Đây có chồng Trung-Hoa.

Lên 12 tuổi, nhờ ông Đốc-Phủ Sủng giới thiệu với Tỉnh-trưởng Mỹ-Tho, Ngài được vào học trường Trung-học Mỹ-Tho nay gọi là trường Nguyễn-Đình-Chiểu.

Sau đó, Ngài lên Sài-Gòn học trường Chasseloup Laubat đến 21 tuổi đậu bằng Thành-Chung. Ngày 23-3-1899, Ngài được bổ làm công chức ở sở Tân-Đáo Sài-Gòn.

2.- Lập gia đình và làm quan:

Ngài lập gia đình với bà Bùi-Thị-Thân, người làm nghề buôn bán tại Mỹ-Tho. Ông bà sinh được 9 con.

Năm 1917, Ngài thi đổ Tri-huyện. Cuộc đời công chức và hoạn lộ của Ngài nổi bật nhất là thanh đạm và liêm chính. Lúc làm việc ở Tân-An, thấy nạn tham nhũng, Ngài xin đổi về Hà-Tiên. Phục vụ tại Hà-Tiên 8 tháng, Ngài được cử trấn nhậm quận Phú-Quốc từ 26-10-1920 đến 29-7-1924. Sau 4 năm ở Phú-Quốc, Ngài được đổi về Sài-Gòn ngày 30-7-1924.

3.- Tâm tính và ơn thiên-triệu:

a) Tính nết Ngài tự nhiên hiền hòa. Đối với mẹ, chí hiếu. Kể cả đối với thân phụ có vợ lẻ, ở riêng, Ngài cũng dùng tiền lương cấp dưỡng. Trong gia đình, Ngài là một nghiêm phụ. Có lần một người con của Ngài, dịp Tết, theo chúng bạn ăn cắp dưa ngoài chợ, bị cảnh sát nhốt bót. Ngài bảo nhốt luôn đến chiều mới cho về.

b) Đối với người trong xã hội xung quanh, Ngài biểu lộ lòng từ bi sâu thẳm. Tận tụy giúp người nghèo khổ, cô thế, thường bố thí và luôn kín đáo.

c) Trong hoạn trường, Ngài nổi danh là một công chức mẫn cán, liêm chính và đắc dân tâm.

d) Từ bé, Ngài đã có khuynh hướng nặng về đạo giáo, tu hành. Lớn lên mỗi tháng Ngài ăn chay hai lần. Những bực thiêng liêng mà Ngài thờ kính là Thánh Thần Tiên Phật.

Từ năm 1902, Ngài đã bắt đầu cầu cơ. Theo Ngài thì lần cầu cơ đầu tiên nầy tại Thủ-Dầu-Một, Ngài được Tiên ông khuyên lo tu hành. Trong nhà, Ngài luôn thờ Phật Quan-Âm và Đức Quan Thánh.

Năm 1920, khi cầu cơ chung cùng các ông Nguyễn-Văn-Vân, ông Bộ Thọ, ông Trần-Phong-Sắc, Ngài được Đức Cao-Đài Tiên Ông giáng cơ cho biết Cao-Đài là Thượng-Đế.

Ngày 8-2-1921, cầu cơ Ngài cho biết là Đức Cao-Đài Tiên Ông xưng hô với Ngài bằng Thầy và đệ tử và buộc Ngài ăn chay trường ba năm, tiếp tục lo tu hành chuẩn bị khai đạo. Theo Ngài, cũng năm 1921, Đức Cao-Đài hiện ra hai lần cùng Ngài dưới hình thức Độc-Nhãn, ngụ ý khuyên Ngài thờ Thiên-Nhãn.

Lại cũng năm 1921, Đức Cao-Đài giáng cơ cho Ngài xưng danh là Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát và từ đó, Ngài chính thức làm đệ tử của Đức Cao-Đài.

4.- Trên đường sáng lập đạo:

Năm 1924, Đức Ngô Giáo-Tổ gọi là năm thứ nhất Cao-Đài đại đạo. Cuối năm 1925, Đức Cao-Đài mới khuyên Ngài chính thức truyền đạo. Lúc bấy giờ, Đức Cao-Đài còn chọn 12 đệ tử nữa mà Đức Ngô-Văn-Chiêu được coi là anh Cả.

Mười hai đệ tử ấy là quý ông:

1. Vương Quan Kỳ

2. Nguyễn Văn Hoài

3. Võ Văn Sang

4. Đoàn Văn Bản

5. Lê Văn Trung

6. Lê Văn Giảng

7. Lý Trọng Quí

8. Cao Quỳnh Cư

9. Phạm Công Tắc

10. Cao Hoài Sang

11. Nguyễn Trung Hậu

12. Trương Hữu Đức

Khuya ngày 13-2-1926, Đức Ngô-Văn-Chiêu được Thượng-Đế giáng cơ bảo Ngài làm Giáo-chủ, dìu dắt các đệ tử của người.

Ngày ấy được coi là Ngài khai đạo Cao-Đài về Cơ Phổ-Hóa.

Ngày 14-4-1926, Thượng-Đế giáng cơ bảo quí ông Cao-Quỳnh-Cư, Phạm-Công-Tắc, Lê-Văn-Trung cho Đức Ngô-Văn-Chiêu biết là Thầy đã phong làm Giáo-Tông và phải may cho Ngài một bộ thiên phục màu trắng. Quí ông nầy làm y như vậy. Song Đức Ngô-Văn-Chiêu không nhận mặc bộ đồ ấy và người ta còn giữ bộ ấy đến nay tại Tòa-Thánh Tây-Ninh.

Năm 1928, theo lệnh Thượng-Đế, Đức Ngô-Văn-Chiêu làm một chuyến du lịch có tính cách truyền đạo qua nhiều nơi. Có gần 30 đệ tử theo Ngài trong cuộc đạo du đó. Các nơi trải qua là nhiều tỉnh ở miền Tây và Đế-Thiên Đế-Thích. Đạo du lần nhất Ngài đến Tà-Lơn rồi Ngài trở lại đó lần thứ hai năm 1932 với ý định qui tiên, gởi xác nơi đó song theo lời khuyên của các đệ tử, Ngài trở về Cần-Thơ, ở đó cho đến ly trần.

5.- Lề lối tu hành:

Ngài theo lề lối khổ tu, diệt dục, ép xác. Ngài ít nằm. Thường ngủ ngồi. Ăn uống thanh đạm. Lấy trường trai để diệt dục, siêu thoát. Cách tu hành của Ngài người non chí khó theo được. Chớ Ngài ở rất đơn giản, chỉ cần sạch sẽ là được. Trong nhà Ngài mặc đồ vải đơn sơ.

Có lần Ngài dùng roi mây quất vào mình để diệt dục, giống một số nhà khổ tu xưa trong Công-giáo đêm đêm đánh tội hãm mình vậy. Ông Đốc-sự và ông Nguyễn-Thành-Diên bữa nọ đến thăm Ngài, Ngài chỉ cười mà không trả lời xác nhận. Nhưng khi ông Cai-tổng Trương-Vinh-Qui được ông Đốc-sự cho biết trước, hỏi Ngài thì, vì tin tưởng Ngài dở áo cho coi, ông Qui thấy da thịt Ngài bầm nát. Ngài nói với ông Qui: "Tôi không muốn cho no đi con đường đó, nhưng nó lại giục tôi đi nên tôi mới đánh nó 100 roi. Anh hỏi tôi mới đưa anh xem chớ đừng nói cho ai biết."

6.- Giờ phút qui liễu:

Sau mười mấy năm tu hành khắc khổ, bận tâm truyền đạo, đến 1931, Đức Ngô-Văn-Chiêu đã kiệt quệ sức khỏe. Sau chuyến đi Tà-Lơn, lần 2, Ngài ghé ở luôn Cần-Thơ ngày 10-4-1932. Các đệ tử cất cho Ngài một cái am xa châu thành Cần-Thơ 3000 thước gần Chiếu-Minh Nghĩa-địa. Trong khi chờ đợi Ngài ở tạm cái am của bà Tư Huỳnh cạnh đó.

Cảm thấy mình không còn sống bao lâu nữa hay sao không biết, Ngài bảo bà Tư Huỳnh lo hộ xe cho Ngài về Tân-An. Bà nầy vì muốn lưu Ngài lại nên nấn ná chưa lo xe. Ngài bảo kêu ông Hội-đồng Thơm vào. Ông Thơm khăn áo chỉnh tề đến quì gối trước mặt Ngài. Ngài dùng tiếng Pháp nói chuyện với ông Thơm. Sau đó ông Thơm về nhà lo đem xe lại. Một đệ tử tên là Ngưng bồng Ngài lên xe. Theo xe với Ngài có các bà Thơm, bà Huỳnh, cô Năm Nguyệt và anh Ngưng. Trên xe, da mặt và toàn thân Ngài tự nhiên vàng lên như nghệ. Đến các bến đò Cần-Thơ và Mỹ-Thuận, xe ngừng để mua vé đò, lũ con nít bu ngoài xe chỉ chọt hỏi: ông đau chi mà vàng lượm vậy. Thực là một hiện tượng lạ. Ngài cứ ngồi thản nhiên. Xe xuống đò Mỹ-Thuận chừng ít phút thì hồn Ngài lìa khỏi xác không ai trong xe hay biết gì cả.

Lúc ấy là 3 giờ chiều ngày 18-4-1932, một anh phu dưới đò thấy Ngài ngồi chết tri hô lên. Các bà Thơm, bà Huỳnh, cô Nguyệt mới biết òa lên khóc và xin đò quay lại. Xe vừa lên đò thì các ông Hội-đồng Huy và ông Tư Huỳnh cũng vừa đến. Thế là mọi người lo đem xác Ngài về Cần-Thơ. Khi xác được đặt ngồi ở thảo lư Cần-Thơ thì màu da hết vàng và trắng trở lại. Đặt biệt là mắt bên trái bắt đầu mở ra to. Còn mắt mặt thì nhắm híp lại. Xác Ngài hoàn ngồi ba bữa mà không hôi thúi chi hết. Sau bác sĩ khuyên nên tẩn liệm. Người ta liệm ngồi xác Ngài vào cái Lục-giác, đường kính 8 tấc, cao 1m20.

Đám tang của Ngài cử hành ngày 21-4-1932 tại nghĩa-địa Chiếu-Minh. Đệ tử, tín đồ đồng bào thân thuộc và người trong chính quyền dự lễ an táng lên đến số ngàn. Ai nấy bùi ngùi cảm động tiếc thương một bực chân tu trọn đời sống cho lý tưởng khổ tu và truyền đạo đến ngày qui liễu.

II.- TÌNH THẦY TRÒ:

Đọc qua tiểu sử của Đức Ngô-Văn-Chiêu, ai cũng phải nhận Ngài là một bực chân tu. Ở đây tôi không đề cập đến vấn đề tôn giáo, mà chỉ chú trọng coi do đâu mà Ngài thu hút được nhiều đệ tử buổi đầu để cùng Ngài đặt nền móng phát triển cho Đạo Cao-Đài. Tôi thấy một số nguyên nhân sâu xa sau đây:

1.- Đối với Đấng thiêng liêng, Ngài có thành tâm, thiện ý tìm chân lý và từ đó lèo lái đời sống mình trong nếp khổ tu bằng trường trai, diệt dục. Một cuộc đời như vậy, theo tôi là một cuộc đời đẹp. Chính vẻ đẹp cao siêu ấy của hào quang quanh Ngài làm cho Ngài có đông đệ tử buổi đầu. Một số lớn các đệ tử vốn là bằng hữu, là quen lớn của Ngài. Song trong lãnh vực đạo giáo, là môn đồ của Ngài.

Theo Ngài thì Đức Cao-Đài là Thầy của Ngài, Ngài là đệ tử và Thầy ra lệnh Ngài truyền đạo, chọn môn đồ tiếp tay với Ngài. Vì ý thức căn bản thầy trò một cách siêu việt như vậy, nên ta thấy đối với nhiều đệ tử lớn tuổi có quyền chức cao trong xã hội Ngài vẫn có phong độ một tôn sư.

2.- Từ năm 1925, Ngài theo lệnh Đức Cao-Đài bắt đầu truyền đạo. Những người bằng hữu quen lớn Ngài độ đầu tiên và được coi như môn đồ trong tinh thần đạo giáo là các ông:

Vương Quan Kỳ (Ông Phủ)

Nguyễn Văn Hoài (Ông Phán)

Võ Văn Sang (Ông Phán)

Đoàn Văn Bản (Ông Đốc Học)

Theo sát Ngài, lo nhiều việc tư riêng cho Ngài, người ta phải kể các ông Hội-đồng Huy, ông Tư Huỳnh, Ông Hội-đồng Thơm. Đối với tôn sư, các môn đồ của Ngài tỏ lòng thương mến và kính phục cao sâu. Ta nhớ khi bà Tư Huỳnh chậm trễ việc lo xe cho Ngài đi từ Cần-Thơ về Tân-An, Ngài bảo kêu Hội-đồng Thơm vào. Ông nầy trước khi vào lo khăn áo tề chỉnh. Trước mặt Ngài, ông Hội-đồng Thơm quì gối hầu chuyện. Cử chỉ bái phục ấy cho ta thấy môn đồ của Ngài kính trọng Ngài thể nào.

3.- Lối năm 1928, trong các cuộc du lịch để truyền đạo qua nhiều tỉnh ở miền Tây, có cả 30 môn đồ đi theo Ngài. Thầy trò thân mật, đùm bọc nhau, ngày đi cực khổ, đêm tìm chùa chiền trú thân. Cảnh ấy không khác gì cảnh Thánh Paulus gần 2000 năm trước du lịch truyền bá Ky-Tô giáo.

4.- Ta thấy Đức Ngô-Văn-Chiêu giống nhiều bực vĩ nhân ở chỗ càng tiến sâu vào sự nghiệp cao cả, càng sống gần đệ tử hơn là với người ruột thịt. Năm cuối cùng đời Ngài, ở Cần-Thờ, Ngài không ở nhà ai hết nên các đệ tử lo cất am cho Ngài trú.

Lúc Ngài hồn lìa khỏi xác cũng qui liễu giữa đa số là đệ tử. Trong đám tang của Ngài, vai trò của đệ tử, tín đồ là vai trò cột trụ, đầu não.

Một cử chỉ biểu lộ tình thầy trò hết sức cảm động mà cũng gần như việc làm của giác quan thứ sáu hay sao, đó là vừa lúc Ngài tắt hơi trên đò Mỹ-Thuận, đò quay trở lại, xe lên đò thì cũng chính lúc ấy hai ông Hội-đồng Huy, ông Tư Sự từ dưới Cần-Thơ vọt lên lo di chuyển xác Ngài về thảo lư Cần-Thơ. Tôi chắc tình thầy trò của Đức Ngô-Văn-Chiêu và mấy chục đệ tử còn nhiều giai thoại độc đáo lắm. Ước mong quí vị hữu trách trong Cao-Đài giáo sưu tầm, phổ biến để ai nấy biết và thêm lòng mến mộ Ngài. Ở đây, vì quá thiếu tài liệu, tôi chỉ đề cập được vài khía cạnh thôi.

Chung qui tôi thấy nơi Đức thủy tổ của Đạo Cao-Đài một đời sống thánh thiện, một thành tâm gởi nơi Thượng-Đế và một thiện chí muốn cứu độ chúng sinh. Từ căn bản đó, Ngài làm cho đệ tử tự nhiên kính phục, mến yêu Ngài, tận tình hy sinh giúp đỡ Ngài trọng đại sự. Tôi thấy Ngài có một mục đích giống mục đích của Đức Giê-Su là mục đích duy thiên (But eschatologique).

Xét sâu xa thì có nhiều phương diện khác biệt, song nếu chỉ xét đại khái thì thấy Ngài nhắm việc đem chúng sinh về Thượng-Đế. Cả đời Ngài là tu hành và làm mọi cách đưa chúng sinh về Đức Cao-Dài được quan niệm là Đấng Tối-Cao. Môn đồ của Ngài lúc ban đầu thấy toàn là những tâm hồn thành thực, giàu thiện tâm, thiện chí nhứt là tốt bụng hy sinh. Khách quan nhìn vào có thể nói tình thầy trò của Đức Ngô-Văn-Chiêu và các đệ tử Cao-Đài giáo thoạt đầu là thứ tình thiêng liêng cao đẹp thuộc loại gương mẫu.