← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XV TÌNH THẦY TRÒ CỦA ĐỨC HUỲNH-PHÚ-SỔ -VÀ CÁC ĐỆ TỬ HÒA-HẢO GIÁO-(Nhờ vắng Thầy mà càng sống chết với Thầy.)

Phật-Giáo Hòa-Hảo là một tôn giáo lớn ở Việt-Nam, chiếm cả triệu rưỡi đồng bào miền Nam. Đức Huỳnh Giáo-Chủ là một trong các vĩ nhân lỗi lạc nhất của Việt-Nam trong thế kỷ 20 nầy. Ngài cũng là nhân vật trứ danh vừa biến hóa Phật-giáo và tiếp nối tinh thần tông phái Bửu-Sơn Kỳ-Hương thành một tôn giáo đặc biệt gọi là Phật-giáo Hòa-Hảo. Công trình lập giáo của Ngài dệt bằng vô số sự kiện mà trong đó chúng tôi chỉ muốn đề cập một khía cạnh nhỏ thôi. Khía cạnh Tình Thầy Trò. Tuy là khía cạnh nhỏ, song chính động cơ ấy đã xây dựng nên đạo Hòa-Hảo, đã thúc đẩy tôn giáo ấy ngày càng bành trướng, luôn hướng về tương lai huy hoàng và cũng chính mối tình ấy đang làm cho số triệu tâm hồn tín đồ Hòa-Hảo ngày đêm canh cánh trông đợi phút giây trở về của Đức Thầy.

Vì Đức Huỳnh Giáo-Chủ là một nhân vật lịch sử vĩ đại nên tiểu sử của Ngài rất phức tạp. Dưới đây chúng tôi chỉ trình bày mấy nét đại cương ngụ ý từ đó rút ra những gì liên quan đến Tình Thầy Trò giữa Ngài và các môn đồ Hòa-Hảo-Giáo thôi.

I.- ĐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ LÀ AI?

1.- Thân thế:

Đức Huỳnh Giáo-Chủ tên thật là Huỳnh-Phú-Sổ, thời nhân gọi là ông Tư Hòa-Hảo. Môn đồ, tín hữu gọi là Đức Thầy. Ngài sinh năm 1919, con của Đức ông Huỳnh-Công-Bộ và Đức bà Lê-Thị-Nhậm, tại làng Hòa-Hảo, tỉnh Châu-Đốc. Ngài chẳng những là người làng Hòa-Hảo, lại thường lấy biệt danh Hòa-Hảo mà còn chủ trương muôn họ sống hòa hảo và tôn giáo của Ngài phát xuất từ Phật-giáo, nên mang tên là Phật-giáo Hòa-Hảo.

a) Từ nhỏ Ngài học hành xuất sắc, tánh tình đôn hậu, hiền lương. Sau khi đổ bằng Tiểu-học xong, Ngài về nhà giúp cha mẹ về công việc ruộng rẫy.

b) Bẩm sinh Ngài thích sống thanh tịnh, trầm tư vì đó ghét đùa giỡn và các loại đờn ca xướng hát. Không bao giờ nghe Ngài bàn đến việc lập gia đình.

c) Nhiều năm, Ngài bị chứng sốt rét nên thân hình gầy ốm, nước da xanh xao. Song thân tìm mọi phương cứu chữa, từ thầy thuốc đông, tây đến các thầy pháp thuật. Ngài vẫn xanh úa và luôn đau bệnh. Theo Ngài thì do ơn trên Trời làm cho Ngài trong sạch.

2.- Khai đạo:

Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ-Mão (1939) là ngày Đức Huỳnh Giáo-Chủ khai sáng Phật-giáo Hòa-Hảo. Năm ấy Ngài được 21 tuổi. Nghi lễ diễn ra trang nghiêm trong gia đình Ngài. Đức ông được mời chứng kiến. Ngài thắp nhang mời các đấng thiêng liêng về chứng cho việc cao cả của Ngài. Ngài lấy 4 hương rồi lạy 4 lạy về hướng tây.

Sau ngày ngộ đạo ấy, Đức Thầy bắt đầu chữa bịnh, giảng đạo và sáng tác kệ giảng.

3.- Phật-giáo Hòa-Hảo:

Theo ông Nguyễn-Văn-Hầu, trong cuốn "Nhận Thức Phật-giáo Hòa-Hảo", thì Hòa-Hảo-Giáo và Bửu-Sơn Kỳ-Hương chỉ là một. Ở trang 22, ông viết: "Với pháp môn hành đạo giống nhau, với nghi thức thờ phượng đồng nhứt, với sự biến chuyển sắc thân của các vị giáo chủ có nhiều quan hệ mật thiết đã cho phép chúng ta hùng biện kết luận rằng Bửu-Sơn Ky-Hương và Phật-giáo Hòa-Hảo chỉ là một."

Có thể nói Phật-Giáo Hòa-Hảo phát xuất từ hai nguồn tôn giáo: Phật-giáo và Bửu-Sơn Kỳ-Hương.

Phật-giáo ở đây Đức Huỳnh Giáo-Chủ quan niệm là Phật-giáo còn thuần chất, còn tinh truyền. Còn Bửu-Sơn Kỳ-Hương như ta đã biết cũng thoát thai từ Phật-giáo mà nặng nề vô vi, chú trọng vô thượng. Vậy chí lý là nơi Phật-Giáo Hòa-Hảo phát xuất cách chung từ Phật-giáo, cách riêng từ Bửu-Sơn Kỳ-Hương.

Tuy nhiên đây không phải là mô phỏng máy móc, thụ động mà biến hóa và sáng tạo phong phú. Người ta thấy trong Hòa-Hảo-Giáo phần sáng tạo độc đáo của Đức Huỳnh Giáo-Chủ và phần tổng hợp của Ngài về các tinh hoa của những ý hệ Khổng, Lão, Trang v.v...

Nếu xét quan điểm truyền thống sư đệ hiểu theo nghĩa Thầy đầu tư tư tưởng qua nhiều thế hệ khác cho trò thì việc Đức Thầy khai sáng đạo Hòa-Hảo là chứng minh tình thầy trò sâu sắc của Ngài đối với Đức Phật Thầy Tây-An. Ông Sư Vãi vốn là đệ tử trực tiếp của Đức Phật Thầy, tiếp nối giáo nghiệp của Ngài, khuất bóng 39 năm thì Đức Huỳnh Giáo-chủ truyền kế một cách đại qui mô và siêu việt. Hãy nghe chính Đức Thầy cho biết Ngài liên hệ với Đức Phật Thầy thế nào:

"Lời của người di tích núi Sam,

Chớ chẳng phải bầy điều huyễn hoặc."

....

Ngài nhấn mạnh:

"Bởi chữ Khùng của Phật của Thầy,

Chứ chẳng phải của người lãng trí."

Ôi! Trên đời mấy ai xây nghiệp cả mà hàng trăm năm sau được trò xứng đáng tiếp nối đại chí của mình một cách vĩ đại như vậy.

4.- Chữa bịnh cứu độ:

Đức Huỳnh Giáo-Chủ không từng học y học, bùa phép gì cả mà Ngài chữa không biết cơ mang nào kể các loại bịnh tê liệt, thổ tả đến bịnh dư ruột, á khẩu. Từ bệnh ngoài da đến nội thương. Từ bệnh khùng điên đến bị quỷ ma ám hại. Đức Thầy đã thực hiện đường lối của Đức Phật Thầy ngày xưa là ban bố lòng từ bi bằng cách làm cho đồng loại bớt đau khổ.

Đáng lưu ý là mỗi lần độ bệnh, Ngài căn dặn bệnh nhân chú tâm cầu nguyện, Quyền lực của siêu nhiên cùng lòng tin tưởng. Ngài nói:

"Thành tâm nước lã nên hồ,

Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban."

5.- Thuyết pháp:

Trước ngày khai đạo, Đức Thầy rất ít nói, song từ 18-5-1939 về sau Ngài nói rất nhiều những khi tiếp xúc với ai. Lời nói của Ngài nhắm mục đích khuyên làm lành, lánh dữ và tin tưởng Phật pháp. Đặc tính của lời Đức Thầy nói là: êm dịu, trầm bổng theo tâm lý, lưu loát mà thâm trầm, khi bình dân khi trí thức, đắc nhân tâm hết mọi từng lớp giao tế với Ngài. Từ khi Ngài bắt đầu thuyết pháp, ngôi nhà của Đức ông biến thành một Hội- trường, một ngôi Chùa. Thiên hạ tấp nập đến nghe kinh, người xin trị bệnh.

Ngài thuyết pháp ban ngày mà luôn cả ban đêm nữa. Quần chúng thập phương kéo đến tạo ngôi nhà của Ngày bấy giờ là Kim-Sơn-Tự, thành một nơi lúc nào cũng náo động. Vì đó ngày 12 tháng 4 năm 1940, nhà chức trách Pháp bắt Ngài đi Sa-Đéc. Các chặng đời của Ngài ta sẽ xét ở một mục sau.

6.- Soạn kệ giảng:

Nếu xưa nay trên thế giới nhiều hiền triết, nhiều giáo tổ không hề trước tác thì ngược lại, Đức Thầy là một giáo tổ chuyên biên soạn giáo lý của mình thành nhiều pho sách. Ngài dùng văn vần theo thể thượng lục hạ bát, rất bình dân để diễn những ý đạo cao siêu.

Sau đây là những tác phẩm chính yếu của Đức Huỳnh-Giáo-Chủ:

a) Sấm giảng khuyên người đời tu niệm:

Gồm 910 câu lục bát, viết trước đệ nhị thế chiến, xuất bản năm 1939. Nội dung ngụ ý cảnh tỉnh lòng người, thuật cảnh Ngài Hóa hiện kêu gọi cải tà qui chánh.

b) Kệ dân của người khùng:

Gồm 846 câu thất ngôn trường thiên viết xong tại làng Hòa-Hảo ngày 12-9 năm Kỷ Mão, xuất bản năm 1939. Nội dung cũng khuyến tu, khuyến đức.

c) Sấm giảng:

Gồm 612 câu lục bát viết tại làng Hòa-Hảo, ra đời năm 1939. Nội dung đề cao lòng nhân đạo.

d) Giác mê tâm kệ:

Gồm 846 câu thất ngôn trường thiên, viết xong tại làng Hòa-Hảo ngày 20 tháng 10 năm Kỷ Mão, xuất bản năm 1939. Nội dung diệt dục luyện tính.

e) Khuyến thiện:

Gồm 756 câu vừa lục bát vừa thất ngôn trường thiên. Viết xong tại Bạc-Liêu năm Nhâm-Ngọ, xuất bản năm 1942. Nội dung nói về Đức Thích-Ca. Bàn về trừ ác hành thiện.

f) Cách tu hiền và sự ăn ở của một người bổn đạo:

Viết bằng tản văn, xong tháng 5-1945, xuất bản cùng năm ấy tại Sài-Gòn. Nội dung bàn về người bổn đạo tu tâm, hành giáo, về các đức hạnh, giáo nghi, giáo lễ.

Ngoài các tác phẩm chính thức đó, trên đường truyền đạo, Đức Thầy còn làm nhiều bài thơ, bài văn lẻ tẻ, rải rác trong các giới trong nhiều hoàn cảnh. Ta có thể đọc một phần lớn các lời châu ngọc ấy trong hai bộ sưu tập nhan đề:

1.- Sưu tập thi văn giáo lý của Đức Huỳnh-Giáo-Chủ. (Sách dầy 300 trang do một số tín hữu tại thánh địa Hòa-Hảo xuất bản.)

2.- Sấm giảng thi văn toàn bộ. (Sách dầy trên 400 trang, biên soạn công phu do Ban Phổ-thông Giáo-lý Trung-ương ấn hành năm 1966.) Nhìn toàn bộ công trình biên soạn kệ giảng của Đức Thầy, người nào có công bình tối thiểu, đều nhận là một kho tư tưởng dùng để luyện tâm, tu đức, xử thế, tiếp vận và dĩ nhiên là khuôn vàng thước ngọc cho những ai theo đường lối hành đạo của Ngài. Chỉ mong sao cho kho báu ấy được chính truyền, khỏi nạn giả ngụy hay tam sao thất bản.

7.- Bốn cuộc du sơn:

Lúc còn ở trong gia đình, Đức Thầy đã bốn lần đi núi:

Lần thứ nhất đi núi Tà-Lơn với Đức Ông.

Lần thứ hai đi núi Tô với ông Ngô-Ngọc-Chơn.

Lần thứ ba đi núi Cấm với các ông: Phan-Văn-Báo, Võ-Văn-Gia, Võ-Văn-Ban, Ngô-Ngọc-Chơn...

Lần thứ bốn đi núi Tà-Lơn với ông Ngô-Thành-Bá.

Những điều đáng lưu ý trong các chuyến đăng sơn nầy của Đức Thầy là: suy nghĩa về đạo lý, quan sát bằng cặp mắt thần bí, giảng đạo, trị bịnh, khuyên đời.

Có phần giống như những du lịch tông đồ của Thánh Paulus ngày xưa.

8.- Các chặng đường Pháp nạn:

Thấy ảnh hưởng của Đức Thầy tủa ra rộng quá, thấy đà tiến của Phật giáo Hòa-Hảo bừng lên mãnh liệt, chánh quyền Pháp bằng cặp mắt chánh trị nghi kỵ đủ thứ. Kết quả là họ dời Đức Thầy khỏi thánh-địa Hòa-Hảo.

a) Từ ngày 1-4-1940 trở đi, Đức Thầy bị đưa đến Châu-Đốc, rồi lên Sa-Đéc, qua Cần-Thơ.

b) Ngày 7-4-1940, Ngài bị nghi mắc bệnh thần kinh, bị đưa vào nhà thương Chợ-Quán.

c) Ngày 11-5-1941, Ngài bị mời ra bót Catinat ở đó 8 ngày.

d) Ngày 19-5-1941, Ngài được về Bạc-Liêu.

e) Lúc bấy giờ cả hai nhà đương cuộc Pháp và Nhựt đều dòm ngó Đức Thầy vì ngại khối quần chúng đông đảo sau lưng Ngài.

Pháp tính đưa Ngài qua Lào.

Nhựt phỏng tay trên Pháp nên đêm mùng 2 tháng 9 năm Nhâm-Ngọ (1942) bắt Ngài về Sài-Gòn. Đi dọc đường đến Trung-Lương, Công-An Pháp chận bắt, đến Sài-Gòn. Bộ tham mưu Nhựt giành giữ Ngài.

f) Bị giam tại sở Hiến-binh Nhựt 2 tháng, Đức Thầy được về ở nhà số 168 đường Lefebvre.

Nhìn qua các chặng đường pháp nạn trên của Đức Thầy, ta thấy đi đến đâu Ngài vẫn giữ phong độ tu hành, ăn nói mềm mỏng khôn ngoan, nhứt là hễ gặp cơ hội là Ngài truyền đạo, khuyến thiện và trị bịnh.

9.- Dấn thân vào việc nước:

Vốn là một tâm hồn ưu thời mẫn thế, luôn băn khoăn vì quốc mệnh nên từ 1939 đến 1945, Đức Thầy đã dấn thân vào quốc sự bằng một số tổ chức sau đây:

a) Sau ngày 9-3-1945, Đức Thầy muốn cổ vỏ độc lập thực sự cho Việt-Nam nên thành lập Việt-Nam Độc-lập Vận-động-hội.

b) Để áp dụng tinh thần Phật-giáo vào việc cứu nhân độ thế lúc quốc nguy, Đức Thầy kêu gọi thành lập Việt-Nam Phật-giáo Liên-hiệp-hội.

c) Trong khi ngoài Bắc cả 2 triệu đồng bào chết đói, ở miền Nam ruộng đồng kém canh tác, Đức Thầy tổ chức đi khuyến nông. Chuyến du hành khuyến nông nầy cũng là chuyến giao du vĩ đại vì đi đến đâu Đức Thầy truyền bá giáo lý của Ngài đến đó.

d) Để bảo trì an ninh thôn xóm, yểm trợ canh tác, động viên toàn lực quốc gia cứu quốc và kiến quốc, Đức Thầy hô hào thành lập: Mặt trận quốc gia thống nhất.

e) Thầy cần vận dụng vũ khí để bảo vệ an ninh, trường kỳ kháng chiến cho chính nghĩa quốc gia, Đức Thầy với biệt hiệu Hoàng-Anh làm chủ tịch Mặt trận quốc gia liên hiệp.

f) Để kết nạp các lực lượng quốc giả lẻ tẻ, Đức Thầy cổ võ ra đời Việt-Nam Dân- chủ Xã-hội đảng.

g) Người ta không quên lực lượng Hòa-Hảo trong tổ chức Nghĩa-quân cách mạng vệ quốc Liên-đội Nguyễn-Trung-Trực và sau đó Đảng Dân-Xã mà Đức Thầy là linh hồn.

10.- Thụ nạn ở miền Tây:

Bấy giờ tại miền Tây nhiều lực lượng Hòa-Hảo và Việt-Minh xung đột nhau kịch liệt. Tối 16-4-1947, tại Dốc-Vàng nơi văn phòng Đại đội của Bửu-Vinh, ủy viên quân sự Việt-Minh tỉnh Long-Xuyên, Đức Thầy ngồi tiếp chuyện với Bửu-Vinh. Bốn tự vệ quân của Ngài cầm súng đứng cách Ngài một thước, cạnh hai bên cửa, lối 7 giờ rưỡi. Nhanh như chớp có 8 người Việt-Minh võ trang vào vừa bắn vừa đâm 4 tự vệ quân. Một trong bốn người nầy là ông Phan-Văn-Tỷ thoát được. Ác cảnh xảy ra như vậy trong tiếng súng vang dội một góc trời. Rồi từ đó đến nay không biết tính mệnh Đức Thầy ra sao. Người nầy người nọ nói Đức Thầy đã bị Việt-Minh sát hại. Riêng tín đồ Hòa-Hảo thì nhứt quyết rằng Đức Thầy còn và sẽ trở về vào Hội Long-Hoa. Trong cuốn Thất-Sơn Mầu-Nhiệm, tái bản 1972, hai ông Dật-Sĩ và Nguyễn-Văn-Hầu đăng lại từ trang 284 đến 288 bài của ông X.M. đăng báo Phục-Hưng ngày 16-4-1949 đại khái nói rằng ba người dao phủ mà Bửu-Vinh sai đi giết Đức Thầy được Đức Thầy giác ngộ và họ thả Đức Thầy thoát tự do trong đêm tối.

11.- Nhận diện Đức Huỳnh Giáo-Chủ:

1.- Đức Thầy một Giáo-tổ thâm đức:

Khách quan mà xét thì Đức Thầy là một bực giáo tổ đức độ cao xa. Từ bé đã là một tâm hồn hướng thiện. Ngài sống độc thân, chết sống cho lý tưởng tu thân lập giáo. Từ 21 tuổi đến ngày thọ nạn sống cuộc đời dệt toàn bằng chay lạt, kinh nguyện, truyền đạo, trị bịnh, khuyến khích làm lành lánh dữ.

2. Đức Thầy, một bực chân tu ái quốc:

Là một bực chân tu nhưng khi quốc thế nguy biến, dân chúng điêu linh, Đức Thầy dấn thân không phải để cầu danh trục lợi mà để cứu quốc độ dân. Chỉ tiếc mộng đẹp không thành mà rồi Ngài thụ nạn.

3.- Đức Thầy, một nhà thần học cải lương Phật-giáo và Bưu-Sơn Kỳ-Hương:

Đức Thầy trở về nguồn Phật-giáo chính truyền gạt bỏ các méo mó vì nhiều lý do của tôn giáo ấy để rút tỉa tinh hoa rồi cộng với các tinh túy của Bửu-Sơn Kỳ-Hương, của các triết thuyết Khổng, Lão, Trang để thành lập Phật-giáo Hòa-Hảo. Nếu phải dùng một tiếng của Giáo-nghị Vatican II thì người ta nói Đức Thầy đối với Phật-giáo và Bửu-Sơn Kỳ-Hương vừa về nguồn vừa thực hiện Aggiornamento nghĩa là cập nhật hóa, hiện đại hóa cho thích dụng toàn diện.

4.- Đức Thầy, một nhà luân lý thi sĩ:

Điều nầy quá ư rõ rệt. Hầu hết những gì Đức Thầy viết đều là luân lý. Tức là những nguyên tắc để diệt ác hành thiện. Còn nói Đức Thầy là thi sĩ là nói một chuyện thừa. Đọc các tác phẩm của Ngài, ta thấy một hồn thơ hướng thượng lai láng bàn bạc. Có lẽ chính nhờ cái hồn thơ đó mà các giáo lý của Ngài dễ đi sâu vào tâm địa nhiều giới đồng bào khác nhau.

Ta thử thưởng thức mấy vần sau đây:

Từ nay cách biệt xa ngàn,

Ai người tâm đạo đừng toan xa thầy.

Giữa chừng đờn nỡ đứt dây,

Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa.

Có thể nói gặp cơ hội nào là Đức Thầy cũng thả thơ một cách dễ dàng. Đang đi trên xe với nhà thơ Việt-Châu, Ngài bảo ông làm thơ chơi, ông đang tìm vần hơi chậm, Ngài đọc một hơi:

Xe về chở theo chàng thi sĩ

Bảo làm thi mãi nghĩ không ra

Vậy mà giữa chốn phồn hoa

Vang danh thi sĩ hiện là Việt-Châu.

Quen thói viết thơ sầu thơ cảm

Không dìu dân hắc ám qua truông

Ngâm nga giọng quá u buồn

Làm cho độc giả quay cuồng mê ly.

Theo dõi gót từ bi mấy bữa,

Phàm tâm kia đã rửa hay chăng?

Đương cơn sóng dậy đất bằng,

Thi nhân đứng ngó để tăng sĩ làm.

Tăng sĩ quyết Chùa, am bể cửa...

Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha,

Đền xong nợ nước thù nhà

Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô.

.... v. v...

5.- Đức Thầy nhà hùng biện cao thủ:

Chẳng những Ngài có ngòi bút tự nhiên trôi chảy mà còn có ba tấc lưỡi tự nhiên hoạt bát. Hễ nói là Ngài nói thao thao bất tuyệt và hấp dẫn một cách huyền diệu. Điều nầy được chứng minh quá rõ ràng trong những khi Ngài thuyết pháp, thuyết trình hay đàm đạo.

6.- Đức Thầy, nhà tiên tri và thị kiến:

Ngài thuộc giòng giống của những Isaïe, Nostradamus hay Trạng-Trình. Giáo ngôn của Ngài gồm nhiều tiên ngon. Chẳng hạn về các biến cố của những năm 1939, 1945, Ngài đã tiên báo từ trước đệ nhị thế chiến trong các vần thơ sau đây:

Mèo kêu bá tánh lao xao (1939)

Đến chừng rồng rắn máu đào chĩn ghê

Con ngựa lại đá con dê

Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao

Khỉ kia cũng bị xáo xào

Canh khuya gà gáy máu đào mới nguy (1945).

7.- Đức Thầy, một nhà nhiệm bí sâu sắc:

Ở đây tôi không bàn vấn đề giá trị tôn giáo vì việc đó để các nhà thần học thảo luận với nhau. Tôi chỉ muốn nói Đức Thầy khi khai đạo, khi truyền đạo, Ngài nói năng, hành động với tư cách một nhà nhiệm bí đầy xác tín, đầy quyết tín nơi sứ mệnh thiêng của Ngài. Có thể nói Ngài là một François d'Assise, một Thérèse d'Avilla. Ngài say sưa, thành tín với lý tưởng siêu việt của Ngài. Nhờ tự tin, nhờ quyết liệt nhấn mạnh vai trò lịch sử cứu độ của mình mà Ngài dễ lôi cuốn để tự tin đó.

8.- Đức Thầy, một nhà giáo dục đại chúng:

Ta thử tưởng tượng chỉ từ 1939 đến 1947 mà Đức Thầy đã qui tụ cả triệu đồng bào miền Tây theo lề lối tu tâm dưỡng tánh của Ngài.

Tôi không xét phương diện tôn giáo mà chỉ nhấn mạnh hiệu quả giáo dục đại chúng thôi. Trong khi lòng dân ly tán, loạn lạc đe dọa, khói lửa bao vây, khối nông dân chất phác khổng lồ ở miền Tây nhứt là vùng Thất-Sơn được một nhà giáo dục hy sinh cuộc đời cổ võ tu nhân, tu tuệ, tu tính, tu tâm như vậy, công lao đối với dân tộc không tẩy đình, bất hủ sao?

Nền giáo dục đại chúng của Đức Thầy là nền giáo dục nhân bản, đề cao tự giác, tự giáo, tự kiểm và tự kiến. Ngài nói:

Coi rồi phải thân mình tự trị

Chẳng độ xong Phật khó dắt diu.

Đúng như vậy! Trước khi là con Phật hay con Chúa, người ta phải là con người với trọn vẹn ý nghĩa ấy đi đã.

II.- TÌNH THẦY TRÒ GIỮA ĐỨC THẦY VÀ MỘT SỐ ĐỆ TỬ HÒA-HẢO GIÁO TIÊN KHỞI.

Viết về vấn đề nầy, tôi rất tiếc là không đủ tài liệu, không biết nhiều giai thoại về cuộc sinh hoạt có tính cách sư đệ của Đức Thầy với các môn sinh của Ngài. Tôi tin chắc là có nhiều điểm độc đáo lắm. Cầu mong những vị hữu trách trong "Ủy Ban Truyền-bá giáo lý trung ương" của Hòa-Hảo sớm phổ biến các câu chuyện nói lên tình thầy trò của Đức Thầy và nhiều môn đệ của Ngài trong mấy năm Ngài truyền đạo sôi động cả một vùng trời miền Tây.

Hơn nữa ở đây vì một lý do tế nhị, tôi tránh nêu danh tánh một số nhân vật còn sống mà chỉ chú trọng sức mạnh của tình Thầy trò coi như động cơ thúc đẩy sự nghiệp của Đức Huỳnh Giáo-Chủ thành công vẻ vang thôi.

Nếu phân tích khối tình Thầy trò ấy, khối tình biểu lộ từ ngày Đức Thầy khai đạo đến khi thọ nạn, ta thấy có mấy yếu tố nền tảng sau đây:

1.- Lòng chân thành đạo hạnh:

Đây là yếu tố căn bản đầu tiên làm cho Đức Thầy hấp dẫn đối với những đệ tử, tín đồ tiên khởi. Nó cũng là ma lực lôi cuốn không biết bao nhiêu người trên đường truyền đạo của Ngài. Ở thời đại nào cũng vậy chớ không riêng thời đại ta, nhiều nhà tu hành không lôi cuốn được ai, có khi gây ác cảm nữa, chỉ tại không biểu lộ được một cách tự nhiên lòng đạo đức chân thực. Tâm lý tự nhiên của người đời là gặp ai chân tu thì quí mộ. Đức Thầy nắm được bí quyết đó.

2.- Lòng xả kỷ vị tha:

Ngài lại nắm thêm mật pháp nầy nữa: Đó là không kể gì đến bản thân mình, chỉ nghĩ đến quyền lợi, hạnh phúc kẻ khác. Đọc tiểu sử Ngài, ta thấy Ngài độc thân như Chúa Giê-Su, sống nghèo nàn, lìa bỏ tổ đình, một thân một gói nay phiêu bạt nhà đệ tử nầy, mai tạm trú nhà tín đồ nọ. Nhìn vào Ngài ai cũng thấy Ngài không lo chi cho đời tư của Ngài. Trái lại Ngài làm bao nhiêu việc phi thường mục đích cứu thiên hạ khỏi bịnh đau khốn nạn. Ngài đã đi đúng vết chân của Đức Thích-Ca, Đức Giê-Su mấy ngàn năm về trước. Vết chân của từ bi, của bác ái vô bờ vô bến. Luật tâm lý thông thường là ai chân thành hy sinh tánh mạng mình cho kẻ khác thì thường được kẻ khác hy sinh lại. Tôi nói thường để trừ một số trường hợp bạc ơn nào đó mà các giáo tổ chân chính bất kể bạc ơn nên họ càng được tri ân hơn ai hết.

3.- Sống đùm bọc có sư có đệ:

Đọc bài tường thuật bốn chuyến đi núi của Đức Thầy trong cuốn Thất-Sơn Mầu-Nhiệm của hai ông Dật-Sĩ và Nguyễn-Văn-Hầu, tôi tự nói: "Phải rồi! Thầy trò đùm bọc có sư có đệ với nhau trong đủ thứ gian truân như vậy nên đệ tử của Đức Thầy chết sống với Ngài thực không lạ". Quả là đáng khiếp cái cảnh đi bộ của Ngài. Các trò lội theo trối chết. Ông Đài có lần mệt ngất ngư. Ngài phải trị bệnh cho ông mới đi được nữa. Cảnh y như Đức Giê-Su cùng các sư đồ lội nát vùng đất Ga-li-lê. Cũng y như Thầy Huyền-Trang sang Tây-Trúc thỉnh kinh nữa. Lắm lúc Thầy trò nói chơi với nhau nghe có vẻ thoát tục làm sao. Đến hang cọp nọ, Đức Thầy bảo ông Đài lủi vào hang cọp. Bảo thật hay bảo chơi? Ông Đài tính lủi thật chứ mà tại thấy dấu chân cọp nhiều quá nên bất ổn. Đức Thầy nói: "Nếu không chui vô thì thôi đi nữa". Có lần thì chỉ đi một thầy một tớ: Ngài cùng ông Ngô-Ngọc-Chơn. Có lần một thầy theo sau bốn năm đệ tử: ông hai Báo, ông ba Gia, ông sáu Ban, ông Đạo Năm tức ông Ngô-Ngọc-Chơn. Đi không biết bao nhiêu là cây số. Vượt suối băng rừng, leo núi. Thầy trò đói lả bành cơm khô ra ăn với tương chao. Có đệ tử lại khoái, bảo rằng từ mẹ đẻ đến giờ chưa lần nào ăn cơm ngon bằng bữa rau luộc chấm tương chao lúc đi núi với Thầy. Tức cười, có lần qua con suối nọ, Đức Thầy lội ướt tới nửa thân mình. Ông Đài leo lên thân cây qua suối khỏi lội. Đức Thầy bảo: "Thầy đi đằng nào phải theo đằng nấy, cấm mầy không được đi như vậy nữa." Ôi! Xưa nay những vĩ nhân trên đời, tình thầy của họ thú vị quá. Có những thân mật lặt vặt như vậy họ mới làm nên đại nghiệp. Không biết phải đó là một trong những luật mầu của đạo sư đệ không?

4.- Lòng hy sinh cho đại nghĩa:

Lại một yếu tố tâm lý nữa làm cho tình Thầy trò giữa Đức Thầy và các môn sinh keo sơn. Trò thấy thầy ngày đêm tận tụy cho lý tưởng cao cả, tự nhiên quyến luyến thầy, quấn quít bên thầy. Thầy càng lăn xả vào đại nghĩa, trò càng tâm huyết với thầy.

Ta nhớ lại lúc Đức Thầy đi khuyến nông từ ngày 10-6-1945 qua các vùng Cần-Thơ, Cái-Răng, Sóc-Trăng, Bãi-Xào, Bạc-Liêu v.v... Ngài đi với ông Lương-Trọng-Tường cùng một số đệ tử. Tuy là khuyến nông nhưng kỳ thực là khuyến giáo, khuyến tu. Cũng là lúc Ngài làm cho môn sinh thán phục đức tính xã giao đắc nhân tâm, tài hùng biện, lòng vị tha cứu độ bịnh nhân. Thì ra đại nghĩa khi được thực hiện bằng một lương tâm lớn tự nhiên trở thành đá nam châm thu hút những lương tâm đại đảm hy sinh khác.

Sự kiện Đức Thầy từ chiến khu 7 miền Đông về chiến khu 9 miền Tây rồi gặp Trần-Văn-Nguyên, thanh tra chính trị và Bửu-Vinh, ủy viên quân sự của Việt-Minh để hòa giải việc Hòa-Hảo và Việt-Minh lúc bấy giờ có nơi xô xát nhau ác liệt, sự kiện Ngài đi vào hiểm địa của đối phương như vậy nói lên thành tâm, thiện chí của Ngài chỉ muốn hai bên đừng đổ máu vô ích trong khi cần các lực lượng thống nhất để cứu quốc. Ở đây tôi không đặt vấn đề mưu lược chính trị mà chỉ muốn nói lòng thành của một bực tu hành trước đại cuộc. Lòng thành đó khi bị ác tâm hãm hại sẽ trở nên tiếng gọi thần thánh thúc đẩy triệu triệu lòng thành khác đứng lên. Quả thực như vậy. Tôi nghĩ cái rủi đêm 16-4-1947 tại Đốc-Vàng xảy đến cho Đức Thầy lại là cái may vạn đại cho Đạo Hòa-Hảo. Đại sự nào cũng cần những tức khí, những tiếc thương để chuyển mình vượt lên mạnh. Ngày nay và cho đến thiên thu, bất cứ tín đồ Hòa-Hảo nào nghe thuật lại đêm tối Đức Thầy bị lọt ám kế của Bửu-Vinh rồi thọ nạn mà không sôi máu hận. Lúa giống phải rã mình trong lòng đất thì cánh đồng mới có vô số lúa vàng thơm ngát. Không ai mong cái ác đến nhưng nhiều khi cái ác đẻ ra cái thiện theo kiểu người La-Tinh nói: "Bonum ex malo". Người mấy thế kỷ trước Tertulien nổi máu các thánh tử đạo là mầm giống làm nẩy sinh mạch đức tin công giáo. Người Hòa-Hảo cũng có thể nói sự thọ nạn của Đức Thầy là lò lửa nung nấu lòng trung kiên của các đệ tử của Ngài và là động cơ thúc đẩy Phật-giáo Hòa-Hảo ngày càng phát triển mãnh liệt.

Chính nhờ thấy tâm chí Đức Thầy hiến dâng trọn vẹn cho đại nghĩa mà khi hiện diện cũng như khi vắng mặt, có biết bao nhiêu đệ tử, tín đồ đổ máu, tù đày, gian khổ vì Ngài. Một cây thập giá chở xác Đức Giê-Su tử nạn đẻ ra gần 900 triệu tín đồ Ky-Tô giáo khắp hoàn cầu xây đền thờ trong tâm hồn tôn bái Ngài. Đức Thích-Ca bỏ có một cung điện của vua cha, giã từ một vợ một con, ngày nay trên thế giới người ta cất bao nhiêu bảo tự tôn thờ Ngài. Và thế lại vợ con Ngài có bao nhiêu tâm hồn Phật tử đêm đêm ngày ngày đốt nhang đến tận thâm tâm van vái Ngài. Tôi nghĩ hết những hy sinh khai đạo, truyền đạo của Đức Thầy, hết các công lao chay lạt, nguyện cầu của Ngài nhứt là sự thọ nạn và khuất diện của Ngài sẽ đóng góp lớn vào tiến bộ dân tộc nói chung và phát triển lý tưởng Hòa-Hảo nói riêng vậy.

Tóm lại, cũng như bao nhiêu trường hợp khác các vĩ nhân, các giáo tổ khác, trường hợp Đức Huỳnh Giáo-Chủ cho ta thấy tình Thầy trò, nghĩa sư đệ là thứ tình nghĩa siêu việt, thâm thúy: Nó là mẹ đẻ của vô số sự nghiệp vĩ đại dưới bóng mặt trời nầy và đầu tư bất diệt cho hậu kiếp nữa.