CHƯƠNG XVI TÌNH TRÒ MAUROIS ĐỐI VỚI THẦY ALAIN-(Danh lên đến mây xanh mà cứ nhắc tên Thầy như mắc ngải.)
Gần như từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, chưa có một người nào tên tuổi rực rỡ, sống gần cả thế kỷ, nhiều điểm lừng danh vượt thầy mình mà cho tới chết chịu ảnh hưởng Thầy, bị thầy ám ảnh, nhờ theo lời thầy khuyên mà nên thân rồi cũng nhờ cãi thầy mà bất hủ, vừa cãi thầy vừa trưng dẫn thầy, đề cao thầy: Người đó là đại văn hào André Maurois còn thầy ông là triết gia Alain.
1.- Alain là ai?
Alain là người thế nào mà thôi miên trò, được trò đốt hương tụng niệm cả đời một cách sáng suốt như vậy.
1.- Là triết gia, văn hào Pháp, Alain tên thật là Émile Auguste Chartier sinh ngày 3-3-1868, qua đời tại Le Vésinet ngày 2-6-1951. Vốn là học trò cũ của J. Lagneau, Alain vào trường Cao-Đẳng sư phạm Pháp năm 1889, sau đó đỗ thạc sĩ triết học, làm giáo sư tại Rouen, nhứt là tại Paris trong trường Henri IV nơi mà ông đã gây ảnh hưởng lớn lao trên nhiều sinh viên sư phạm Pháp.
Ông tiếp tục nghề giáo sư sư phạm cho đến tuổi về hưu. Nhân vụ Dreyfus là vụ một sĩ quan gốc Do-Thái bị tòa án Pháp xử oan ức về tội làm mật vụ cho Đức, Alain nhảy vào làng báo chính trị.
Lúc dạy ở Rouen năm 1900, ông viết cho báo Dépêche Rouen loạt bài nhan đề Propos. Alain bắt đầu nổi danh từ loạt bài nầy.
Năm 1914, ông tình nguyện nhập ngũ. Đệ nhị thế chiến, ông giải ngũ, tiếp tục nghề cũ. Môn đồ của ông có sự nghiệp hiển hách là Maurois, Maussis, Prévost, Bost.
2.- Tác phẩm trứ danh tiêu biểu của Alain là:
Propos sur l'esthétique (câu chuyện thẩm mỹ)
Propos sur le bonheur (câu chuyện hạnh phúc)
Propos sur l'éducation (câu chuyện giáo dục)
Propos sur la littérature (câu chuyện văn chương)
Propos de politique (câu chuyện chính trị)
Propos d'économique (câu chuyện kinh tế)
Propos sur le Christianisme (câu chuyện Ky-Tô giáo)
Propos sur la religion (câu chuyện tôn giáo)
Idées (cảm nghĩ)
Histoire de mes pensées (lịch sử tư tưởng của tôi)
Minerve ou de la Sagesse (Thần Minerve hay thảo luận về khôn ngoan)
Alain còn viết gần 20 quyển khác nữa. Nhưng có thể nói tư tưởng chính yếu về triết học của ông bàn bạc trong các quyển liệt kê trên.
3.- Thoạt đầu khi viết cho tờ La Dépêche, Alain viết cũng tầm thường. Bài vở đọc nghe chí lý mà nực mùi giáo sư và lý thuyết suông. Chính ông cũng tự nhận như vậy. Nhưng khi viết mục "Câu chuyện" cũng trên tờ La Dépêche thì thiên tài của ông hiện lộ. Độc giả của báo nầy gia tăng kinh khủng.
4.- Theo tài liệu của André Maurois thì Alain viết với phương pháp độc đáo. Khi viết một "Câu chuyện" thầy ông hạn chế số chữ trong hai trang thôi. Không cao vọng nói nhiều nên viết ngắn, cổ động. Cố gắng tránh nhiều diễn tả. Viết theo ngẫu hứng và viết kỹ đến đỗi không chịu sửa chữa. Không buộc độc giả thuận ý mình hết, song độc giả bị kích thích suy nghĩ, phê phán. Đọc văn Alain đầu óc độc giả không ở yên được. Có thể thuận mà có thế chống ông. Nhưng ông bất kể điều đó. Ông chỉ chú trọng làm cho độc giả băn khoăn tìm sự thật. Ca tụng thầy mình, André Maurois viết: "Alain là một giáo sư đại tài của hiện đại và vạn đại".
5.- Bằng ghế giáo sư đại học và bằng ngòi bút, trọn đời Alain cổ võ cho thuyết nhân bản pha màu Descartes nhắm vào những thực tế cụ thể. Ông không coi ra rơm gì nhưng áp lực của cường quyền. Ông tự binh vực tự do cá nhân, chống lại mọi lôi cuốn, áp bức của thế lực thời đại. Chiến tranh đối với ông là tên đồ tể phá hoại các trách nhiệm luân lý. Ông chủ trương trong bất cứ quốc gia nào, ở bất cứ thời đại nào, cũng phải có một số chân trí thức đứng ngoài chế độ cầm quyền để cảnh sát nhà lãnh đạo, giúp họ phục vụ đất nước hợp tình hợp lý. Diễn những tư tưởng quyết liệt đó, Alain dùng lời văn gọn, chắc nịch gợi hình, đôi khi búa bổ và hoàn toàn độc sáng.
6.- Trong đời làm nhà giáo, Alain tỏ ra là một ông thầy xứng đáng với nội dung danh từ ấy. Lối giảng triết của ông gần giống như lối của Socrate. Ông không ngồi im nhồi sọ môn sinh cho đầy thiên kinh vạn quyển. Ông không dẫn dụ môn sinh mù quáng tin ông hay nhắm mắt tôn thờ các triết gia cổ kim. Nghe ông giảng một lát là cả lớp như bị chích thuốc kích thích thần kinh óc não. Ai cũng không ngồi yên được vì đầu óc nổi loạn lên vì những thắc mắc, những nghi vấn, những lý luận thứ đỡ thứ chống.
7.- Tư tưởng triết lý chi phối đầu óc Alain là tư tưởng dựa vào sức mãnh liệt của ý chí. Nếu Descartes có tiên ngữ: "Tôi suy tưởng vậy có tôi", thì Alain cũng có tiên ngữ: "Tôi muốn vậy có tôi". Mà cái muốn Alain đề cao không phải là ao ước suông, không phải ảo vọng mà là hành động. Có thể nói Alain là triết gia của Muốn và Hành-động. Hồi 17 tuổi, mới gặp thầy Alain lần đầu, trò Maurois như bị thầy hốt hồn, ám thị và suốt đời cảm nhiễm triết lý của thầy, bị lây hành động của thầy nên cho tới xuống mồ lúc nào cũng bị thầy ám ảnh.
2.- Maurois là ai?
1.- André Maurois là đại văn hào, là tiểu thuyết gia, bình luận gia và nhà viết tiểu sử trứ danh của Pháp, người gốc Do-Thái sinh ngày 26-7-1885 tại Elleuf và mất ngày 9-10-1967 tại Neuilly. Tên thật của ông là Émile Herzog. Còn André Maurois là bút hiệu. André là tên một người anh bà con. Maurois là tên một làng mà ông có nhiều kỷ niệm lưu luyến. Émile Herzog sở dĩ ký bút hiệu André Maurois lần đầu tiên trên cuốn "Những im lặng của Đại-tá Bramble" là vì lúc gia nhập quân đội Anh, ông lấy tài liệu viết sách ấy, có mấy sĩ quan cao cấp của ông muốn ông giấu tên thiệt, sợ bất lợi cho ông vì những nhận xét làm phật lòng nhiều tướng tá người Anh lúc bấy giờ đang chiến đấu trên đất Pháp. Maurois sinh trong gia đình đại kỹ nghệ, từ bé sống cuộc đời phong phú. Ông học hành xuất sắc ở trường Rouen. Thầy học nổi danh nhứt của ông mà ông chịu ảnh hưởng và tri ân cả đời là Alain. Sau khi đỗ cử nhân văn chương, ông tiếp tục sự nghiệp của thân phụ là điều khiển hãng dệt. Trong suốt đệ nhất thế chiến ông là sĩ quan thông dịch viên trong quân đội Anh tại Pháp. Mấy năm gần gũi người Anh, ông tìm hiểu tâm lý giống người Nhật-Nhĩ-Man, nên năm 1918, ông viết cuốn "Những im lặng của Đại-tá Bramble" nói trên. Năm 1921, ông cho chào đời một quyển nữa cũng thuộc loại tiểu thuyết tâm lý về nhân vật, đó là cuốn "Biện luận của bác sĩ O'Grady". Cuốn trước thành công kinh khủng. Chỉ trong vài năm mà sách bán sạch cả nửa triệu bản. Còn cuốn sau thì được tiêu thụ mực thường thôi.
2.- Sống gần một thế kỷ, dùng cả nửa thế kỷ để viết nên Maurois xây cho mình một "Kim-tự-tháp" (tiếng của Goethe) đồ sộ và độc đáo. Dưới đây ta liệt kê một ít cuốn tiêu biểu của người mà bà Fleming, cha đẻ của thuốc Pénicilline gọi là "Tiểu sử gia tài ba nhất Âu-Châu".
Tiểu sử: La vie de Disraéli (1927)
Byron (1930)
Tourgueniev (1931)
Lyautey (1931)
Édouard VII et son temps (1937)
Châteaubriand (1938)
Lịch sử: Histoire d'Angleterre (1937)
Histoire des États-Unis (1943)
Histoire de France (1947)
Tiểu luận: Aspects de la biographie (1929)
Dialogues sur le commandement (1924)
Alain (1949).
Tiểu thuyết: Terre promise (1964)
Les roses de Septembre (1965)
Le peseur d'âme (1931)
Còn phải ba bốn trang giấy nữa mới kể hết nhan đề tác phẩm của Maurois.
3.- Thừa hưởng di truyền của cha mẹ thuộc hạng trưởng giả Do-Thái, Alain trong gia đình là con trai độc nhất nên được người mẹ nuông chiều, giáo dục chu đáo từ thuở ấu thơ. Mẹ ông thường kể cho ông nghe chuyện Illiade của Homère, Don Quichotte của Cerventès. Bà cũng tập ông đọc thơ của Alfred de Vigny, của Victor Hugo. Năm 1954, ông cho ra đời cuốn tiểu thuyết tiểu sử Olympio ou la vie de Victor Hugo là chắc chắn do ảnh hưởng xa xưa của bà mẹ. Mới mười một hay mười hai tuổi đang học trung học tại Elleuf, ông đã viết kịch thơ tả mối tình của Charles VI và người yêu của vị đế vương nầy. Có thể nói chính thân mẫu của Alain là người khơi dậy nơi ông nguồn tình cảm bao la, nó chi phối suốt cuộc đời văn nghệ của ông. Nhìn toàn bộ tác phẩm của Alain, người ta thấy không cuốn nào mà tình cảm không là động cơ. Đa số tác phẩm của ông là tiểu thuyết hay tiểu sử được viết ướt át như tiểu thuyết. Rồi ngay các cuộc lịch sử hay tiểu luận, phê bình của ông, khía cạnh tình cảm cũng chan chứa. Nói vậy không có nghĩa là ông coi nhẹ lý trí, bỏ rơi lý luận. Không. Nói vậy chỉ có nghĩa là ông chú trọng nhân bản trong con người. Ngòi bút của ông đậm đà tình người. Tuy ông không nghe trọn lời thầy ông là Alain để làm một Balzac thứ hai trong bộ "Trò Đời" nhưng hết các tác phẩm của ông quả thực là một bộ trò đời thứ hai không kém phong phú và sâu sắc.
4.- Thời xuân xanh của Maurois có những nét độc đáo ảnh hưởng không nhỏ trên sự nghiệp vĩ đại của ông.
a) Lúc thơ ấu ông là đứa trẻ bịnh hoạn. Như vậy là ông giống Pascal và Voltaire. Ông được bàn tay dịu hiền của mẹ chăm sóc như trứng mỏng. Trường hợp của ông giống của Louis Pasteur. Nhưng rủi ro hơn cha đẻ của thuốc trừ nọc chó điên là ông bị đau khớp xương sống, lưng gần muốn vẹo, phải đeo cặp sắt như một thương phế binh. Tuổi đâm chồi nẩy mộng của ông lại là tuổi èo lên uột xuống. Vậy mà ông sống đến 82 tuổi mới lạ. Nhưng phép mầu giúp ông trường thụ để làm việc kinh hồn là thể dục, là sống điều độ, hoạt động có phương pháp và hạnh phúc gia đình.
b) Phải nhận là ít có vĩ nhân nào nhờ hạnh phúc gia đình mà thành công như Maurois. Trở lên bạn thấy hầu hết là những tâm hồn cô độc, trầm luân trong biển cô đơn rồi nhờ đơn lẻ như vậy mà thương mến môn đồ, cùng môn đồ xây nghiệp cả.
Chừng già viết về hôn nhân nhứt là trong cuốn Thư ngỏ gởi cho một thanh niên, Maurois tỏ ra đạo mạo đấy. Nhưng trong thời hoa niên, lắm lúc ông cũng bay bướm và bốc đồng lắm. Đám trẻ ngày nay ghiền xi-nê, mê phòng trà như điên. Maurois hồi nhỏ cũng vậy. Ông cũng la cà ở các quán văn nghệ, ngồi mơ màng ở những trà đình, tửu điếm, say sưa ngắm những cặp nhân tình của văn sĩ nầy, nghệ sĩ nọ qua lại. Còn cảnh nào bốc đồng hơn cảnh nầy không? Là ở Thụy-Sĩ, Maurois gặp một thiếu nữ gốc Ba-Lan, thuộc làng giai nhân tên Janine de Szymkiwiez. Tiếng sét ái tình hốt hồn ông liền, Janine mất cha ở với mẹ trong cảnh nghèo túng. Maurois túm cổ mẹ con Janine sang Anh cấp dưỡng và suốt ba năm liền mỗi tuần ông từ Pháp qua Anh thăm người yêu một lần. Mối tình vượt trùng dương đó ông giấu cha mẹ đến ba năm mới cho hay. Ban đầu bị mẹ phản đối kịch liệt. Nhưng rồi kết cuộc là một đám cưới. Gia đình ông kể như là hạnh phúc. Có lẽ nhờ ông xây dựng nền tảng không phải trên đá hay đất liền mà trên không biết bao lần vượt biển Manche. Thực thường vĩ nhân yêu đương dữ dội quá. Trường hợp của ông hơi giống trường hợp ông bà Curie hồi chưa làm đám cưới.
Đau đớn thay. Năm 1924, vợ chết, Maurois cùng ba con kéo trở về Paris. Ở đó ông viết văn sống bằng ngòi bút, giao thiệp rộng với nhiều văn hào. Một văn hữu chí thân của ông là Charles du Bos giới thiệu cho ông một thiếu nữ tuyệt sắc, con nhà giàu lại có máu văn nghệ vì nàng vốn là bạn của văn hào Proust và một thời được Anatole France nuôi như con nuôi. Nàng tên là Simone de Cavaillet. Lại tiếng sét ái tình thứ hai như thiên lôi vố trên cõi lòng đang cô quạnh mất quân bình của Maurois. Năm 1926, nghĩa là sau khi người vợ trước qua đời 2 năm, ông cùng Simone xây tổ uyên ương. Một gia đình thứ hai trào tràn hạnh phúc của Maurois bắt đầu. Ông viết văn. Bà kiếm tài liệu, đánh máy bản thảo, lo tươm tất các việc nội trợ. Nhà văn như vậy là tiên ông giáng thế rồi chứ còn gì nữa hả bạn.
5.- Có điều đáng lưu ý là không biết tại sao, cuộc đời của Maurois có duyên kỳ lạ với quân ngũ. Lần đầu là đi quân dịch. Đành vậy đi. Đi vì ái quốc vì lệnh động viên. Nhưng năm 1938, ông đã vào Hàn-lâm-viện rồi mà còn xin đi lính nữa. Xin vất vả lắm mới được kia chứ. Ông có máu Balzac chăng. Hay lấy quân đội làm môi trường để sáng tác. Lạ thực. Chưa hết, năm 1942, lúc Mỹ đặt chân lên Bắc-Phi, ông lại xin nhập ngũ nữa. Hiểu không nổi ông. Tòng quân vốn là việc tốt, điều làm người ta ngạc nhiên là điểm bất thường tâm lý vì ai cũng biết ông vốn là con nhà trưởng giả, sống lâu mà kém sức khỏe, là nhà văn giàu nghệ sĩ tính, là một hàn lâm học sĩ nữa, viết các loại đề tài cần gần thư viện hơn là gần trại lính vậy mà ông ham, ông năn nỉ đi lính.
III.- PHÂN TÍCH MẤY NÉT ĐỘC ĐÁO CỦA TÌNH THẦY TRÒ GIỮA ALAIN VÀ MAUROIS.
A.- TÌNH THẦY ALAIN ĐỐI VỚI TRÒ MAUROIS.
1.- Thầy đầu tư tương lai nơi trò:
Nếu trong lãnh vực kinh doanh gia đình, nhiều người cha mong con cái nối chí mình tiếp tục sự nghiệp làm ăn thì trong lãnh vực văn hóa, nhiều thầy cũng mong trò nối chí mình thực hiện lý tưởng nào đó. Giáo sư Alain là một trong những ông thầy như vậy. Ngay lúc đầu gặp nhau, thầy trò Alain và Maurois như bị thứ duyên định mệnh gì thôi miên nhau, trói buộc nhau và quyến luyến nhau. Biết Maurois thông minh, có tâm hồn, có khuynh hướng văn chương và triết học, Alain nhất quyết xây dựng tương lai cho Maurois. Hay nói đúng hơn là Alain muốn tự biến thành một Alain thứ hai trong... Maurois. Những gì Alain thấy là hay nhất, đẹp nhất mà không thể làm được ông đặt mọi kỳ vọng nơi Maurois. Alain đầu tư, gieo giống nơi Maurois những cái độc đáo nhất của ông. Điều nầy chứng tỏ Alain coi Maurois như một hậu thân của ông. Ai cũng biết Alain là con người cái gì cũng độc đáo. Trong lãnh vực triết thì Alain chủ trương "Tôi muốn là có tôi" và đề cao giá trị của hành động. Trong địa hạt cầm bút thì Alain viết mà canh trước một đề tài mấy trang giấy, viết theo ngẫu hứng nhưng kỹ lưỡng đến mức không chịu sửa chữa, viết triết mà phải làm sao vừa cổ động vừa làm cho người ta đọc mê như đọc tiểu thuyết. Viết triết mà không tỏ ra triết gia bằng hệ thông triết học, chỉ cho người đọc thấy thấp thoáng mờ mờ bóng dáng, sắc thái người viết bằng những nét chấm phá, dí dỏm, u mặc thôi. Alain bắt độc giả đọc ông đến đâu là giựt mình, là hồi hộp, là tự đặt vấn đề đến đấy. Ngòi bút ông có ma lực làm người đọc không thể đọc ông mà bộ óc ở yên được bằng những ý tưởng xuất hiện bất ngờ, chấm dứt bất tử mà cái nào cũng tân kỳ sáng giá mà bắt nghĩ ngợi. Rồi dạy học, ông cũng có phương pháp của riêng ông là ông giảng một hồi học trò như bị điện giựt lây trong tim óc. Càng nghe ông, họ càng tự tìm hiểu, càng muốn mổ xẻ vấn đề cho đa diện, cho đến nơi đến chốn. Về thái độ sống, ông độc đáo ở chỗ coi rẻ hết các danh vọng liên quan đến văn hóa nghệ thuật. Đối với chính quyền, ông nhất định không tham gia vì ông chủ trương chính quyền ở đâu và thời nào cũng cần có một số nhà trí thức lương thiện ở ngoài chế độ cảnh sát chính quyền, cảnh cáo khi chính quyền làm bậy, khen ngợi khi chính quyền làm hay. Đấy, hết những độc đáo đó, Alain muốn dùng như bùa phép để luyện con gà nòi Maurois của ông. Alain trọng tự do của con người dĩ nhiên là rất trọng tự do của trò mình. Song nhìn chung cách ông bao vây ảnh hưởng quanh Maurois người ta có cảm tưởng ông muốn Alain hóa Maurois. Ông không đáng trách đâu vì ông vừa sáng suốt vừa thương trò ông hết lòng hết dạ. Trên đời mấy ai được diễm phúc có thầy như Maurois.
2.- Alain hướng nghiệp Maurois:
Chỉ một câu chuyện mà kết quả là Maurois làm ông chủ hãng dệt 10 năm. Đầu đuôi xảy ra như thế nầy. Ngày nọ, sau khi phát một giải thưởng văn chương triết học toàn quốc tại trường Elboeuf cho Maurois, ai nấy ra về hết. Alain kêu riêng Maurois ở lại. Alain hỏi Maurois: "Em! Sau nầy em làm gì?". Maurois đáp: "Thưa Thầy, thì em quyết theo chí hướng của Thầy là cầm bút. Em cũng định trở thành một giáo sư như thầy vì em thấy nhờ dạy học mình viết sâu sắc. Vì đó em tính thi vào trường Cao-đẳng sư phạm. Chắc thầy cũng nghĩ như vậy." Alain vốn muốn Maurois thành một tiểu thuyết gia lỗi lạc như những Balzac, Dickens, Tolstoi, nhưng không muốn trò mình đi ngả nhà giáo. Alain nói: "Không được em ạ! Vào cao đẳng sư phạm thầy biết chắc em sẽ thành công nhưng đó không phải là con đường đưa em đến nhà văn lớn. Hầu hết những ngòi bút có sức nặng trong làng tiểu thuyết không bắt đầu như vậy. Em bỏ ý định làm giáo sư đi. Theo thầy hay nhất là em tiếp tục công việc ở hãng xưởng của ba em. Em sẽ đụng chạm ngay mặt đời sống. Em quan sát nhân công, tìm hiểu các loại tâm tánh của họ. Em tập lãnh đạo, điều khiển, tổ chức. Ban ngày em lo việc hãng xưởng dệt. Ban đêm em đọc sách. Em viết lách. Hãy làm vậy đi em." Kết quả lời khuyên đó ra sao? Kết quả là Maurois làm ông chủ hãng dệt 10 năm, cho đến khi bà vợ thứ nhất qua đời, ông mới cùng hai con đến Paris chuyên nghề cầm bút. Còn Maurois có thành Balzac, Dickens hay Standhal như Alain muốn không? Trong phần bàn về tình Maurois đối với thầy ta sẽ thấy có những cái Maurois cãi thầy mà nên việc lớn.
3.- Alain dạy Maurois đọc:
Thực không có ai, trên đường luyện tinh thần, mà có phước bằng Maurois. Hồi còn bé hạt tiêu là Maurois được ngâm cho nghe những câu thần của Hugo. Hồi đệ lục, Maurois đã được ông thầy già Kittel cuối năm tặng cho cuốn Tâm-Hồn-Nga với lời dặn dò là sau nầy có vào trường văn trận bút đừng quên ông. Nhưng người uốn nắn bộ óc Maurois quyết liệt nhất là Alain. Có lần Maurois cho Alain biết mình nuốt Gide, Proust, Anatole France, Tolstoi. Alain bảo: "Đừng đọc những cây bút ấy nữa. Phải ngấu nghiến Balzac để viết bộ Trò đời thứ hai. Phải ngấu nghiến Stendhal để viết nghệ thuật như tác giả La Chartreuse." Alain còn dặn kỹ Maurois: "Ban ngày em trông coi hãng xưởng. Ban đêm em đọc lại hai tác giả ấy, em chép tay lại của mỗi tác giả ấy một tác phẩm." Alain thương trò quá, lo cho trò kỹ quá. Mà cưỡng áp trò như vậy, Alain có thấy mình kỳ cục không? Trên đường đời, mỗi lần Maurois không làm đúng ý thầy là hối hận. Nhưng trong thực tế Maurois có cãi thầy chăng. Hình như nhờ mấy năm trông coi thợ dệt vải, nhuộm nỉ mà Maurois viết những cuốn không như Alain mong ước chút nào. Đó là các cuốn Discours sur le Commandement, một tiểu luận về nghệ thuật cầm quyền và Bernard Quesnay một tiểu thuyết đề cao đức công bằng và mô tả đời sống giới lao động thợ thuyền. Môi trường Alain chỉ cho Maurois lăn vào luyện kinh nghiệm và thu tài liệu là hãng dệt có thể sai, nhưng đường lối ông vạch cho Maurois đúng trong nguyên tắc. Bằng chứng là khi Maurois bị lệnh động viên xô vào quân ngũ, cũng là một môi trường phong phú để viết. Maurois thành công rực rỡ trong các cuốn tiểu thuyết: "Im lặng" của Đại-tá Bramble và "Biện-luận" của Bác-sĩ O'Grady. Chỉ tiếc một điều là sao Alain không ý thức được bẩm tính trò của ông khác hẳn bẩm tính của Balzac và không đo lường trước được Maurois có máu tiểu sử gia hơn tiểu thuyết gia. Maurois từ bé đến lớn đẻ bọc điều, sống như chuột trong hủ nếp, còn Balzac vừa chạy ăn, chạy nợ chồng đống, chạy nạn đuổi nhà. Nếu Maurois có tướng diện hào hoa, phong độ của nhà giáo, ăn nói mối giềng thì Balzac cục mịch, bốc đồng. Làm sao Maurois chạy theo kịp Balzac cái cảnh viết thì viết theo com-măn, ngồi kế bên thợ sắp chữ để viết, cầm quần cầm áo, chạy quần quật trốn thừa phát lại, đi hầu tòa như cơm bữa. Maurois chỉ có hai kiếp hôn nhân mà kiếp nào cũng êm như bàn thạch, còn Balzac ôi thôi! Phải nói là lặn hụp trong sông tình biển ải. Từ 1820-1850 nghĩa là 30 năm, Balzac dùng để thí nghiệm ái tình, để tìm hiểu nhân tình thế thái nhứt là tâm hồn phụ nữ. Trái tim của ông trôi nổi hết đến tay bà De Berny, bà Zulma Carraud thì đến tay bà D'Ambrantès, bà Decastries. Ông bỏ bà Guibodoni-Visconti thì dan díu rồi cưới liền bà Hanska. Balzac tài cao bấy nhiêu thì lăn lộn sống, say sưa hưởng thụ, đam mê trác táng bấy nhiêu. Alain chắc thấy trò Maurois của mình muốn viết một bộ Trò Đời thứ hai bằng con đường của Balzac là chuyện thiên nan chứ. Còn sao lại ông cứ ám thị trò phải thành công lớn trong tiểu thuyết? Maurois đã chứng minh cho ông thấy rằng còn những nẻo khác có thể đưa đến vinh quang. Người ta cũng để ý việc ông bảo Maurois đừng theo nghề sư phạm. Có phải ông bị mặc cảm thông thường nầy không, là nhiều khi mình ở trong nghề nào, thấy rõ bề trái nghề ấy nên hay bàn ra với ai muốn đi theo vết xe của mình. Maurois nghe lời ông mà về sau cũng hơi hơi cãi ông. Tức là Maurois không làm nghề dạy tuổi trẻ song mấy chục năm trước khi ly trần, Maurois đi diễn thuyết khắp Âu-Mỹ, nghĩa là Maurois làm sư phạm cho người lớn.
4.- Alain dạy Maurois viết:
Theo Maurois thuật lại thì lúc Alain viết cho tờ Dépêche de Rouen, sáng nào ông cùng bạn bè cũng chờ đọc như chờ ăn điểm tâm. Cái cảnh trò mê văn thầy như thỉnh thoảng người ta thường thấy đấy. Như vậy chắc chắn là Maurois đã phần nào nhiễm văn Alain. Nhưng Alain còn kỹ lưỡng hơn, còn căn dặn Maurois phải viết độc đáo, viết chắc nịch, cô đọng, viết cuối bài vố một câu như quả tạ. Điều nầy hay mà xét ra cũng lạ, Alain khuyên Maurois thành tiểu thuyết gia lớn, mà văn tiểu thuyết chắc ông dư biết, đâu giống hẳn văn ông dùng viết triết đàm trong Propos của ông. Chí lý là ông khuyên Maurois phải viết sao cho có lô-gích toàn bài, các ý mạch lạc với nhau mà đừng dùng nhiều giới từ lộ liễu một cách vụng về. Điều nầy tối cần trong văn triết của thầy lẫn trong văn tiểu thuyết hay tiểu sử của trò. Đọc văn Maurois, ai cũng nhận là cô đọng mà sáng sủa, bình dị mà sâu sắc. Lý luận được rọi sáng ngời bằng thí dụ cụ thể. Lý thuyết được kinh nghiệm bản thân bảo đảm, ý trừu tượng bị xô đến hành động thực tế. Mà hết những độc đáo nầy trực tiếp hay gián tiếp, chính Alain đã gieo trong ngòi bút Maurois.
5.- Alain còn muốn đúc khuôn Maurois nữa:
Không biết sao tình thương của Alain đối với Maurois đi đến chỗ độc tài quá. Gần như ông ra lệnh cho Maurois là hễ viết thì về bút pháp phải viết theo Stendhal, còn về nội dung phải viết theo Balzac. Maurois nghe lời thầy: đọc như tụng niệm hai hộ pháp nầy. Về sau trên đường văn nghiệp, tuy Maurois không làm một Balzac thứ hai như Alain quan niệm, nhưng hết các tác phẩm của ông quá nhiều loại văn, chưa chắc nhượng bộ Trò Đời của Balzac. Còn về nghệ thuật viết thì phải nhận là Maurois bị thầy bắt ám ảnh Stendhal. Bằng chứng là càng về già, ông càng viết keo như thuốc cao. Ý nối nhau bằng ý chứ không bằng những tiếng như "mà, vậy" trong một tam đoạn luận. Nhứt là ông hà tiện tĩnh từ, tối kỵ liệt kê tĩnh từ nhiều sau một danh từ. Văn của ông vì đó nghệ thuật thì bén nhọn đấy, mà có nhiều đoạn bạn đọc như văn Lão Tử trong Đạo Đức Kinh, đặc kẹo đến thành khó hiểu. Dĩ nhiên là đọc mệt óc mà hiểu được thì thú vị. Có thể nói Alain muốn trò của ông bắt độc giả mỗi lần đọc phải đập xương hút tủy, chứ không dễ dàng như ăn thịt quăng xương. Trừ Đức Giê-Su quyết liệt bắt môn đồ làm Thánh, đúc khuôn trò theo mẫu chí thánh của mình, tôi chưa thấy thầy nào đúc khuôn trò kỹ như Alain đúc khuôn Maurois.
6.- Thầy vạch nếp sống cho trò:
Không phải chỉ trong lãnh vực cầm bút mà thôi, tận trong nếp sống, trong thái độ xử thế, Alain cũng vạch vẽ lối cho Maurois. Alain là một triết gia đề cao quyền năng của ý chí và cổ võ hành động. Ông đã bơm hai liều thuốc nầy vào óc Maurois từ trước khi Maurois được nửa đời người. Sự kiện mà Maurois viết cho đến ngày vào bệnh viện để qui tiên tại đó, sự kiện mà Maurois trong vòng gần 30 năm vừa viết vừa đi đây đó hoạt động, khi tổ chức trồng cây ăn trái, khi diễn thuyết khắp Âu-Mỹ, hết các sự kiện đó nói lên ông đã thực hiện tiền ngôn "Tôi muốn là có tôi" và triết lý hành động của tôn sư.
Alain vốn là một triết gia mực thước, làm việc gần như mê tín nguyên tắc. Bạn thử tưởng tượng trường hợp Alain bảo Maurois ban ngày trông coi hãng xưởng, ban đêm ngồi chép tác phẩm của Balzac, Stendhal để nhiễm hai cây bút nầy đi. Tinh thần làm việc quyết liệt đó Alain cho nhập vào cốt tủy Maurois, cho nên người ta không còn ngạc nhiên sao mà đến lúc tóc đã ngã màu, Maurois tổ chức viết lách y như tổ chức hãng xưởng. Hồi xưa thấy ông viết mỗi Propos canh đúng trong hai tháng thôi. Ông có chịu thua đâu. Chính Maurois đã từng khuyên thanh niên đại khái: "Không hứng cũng cứ ngồi viết riết rồi bắt mê". Cả đời ngày nào cũng viết hai trang thì về lượng tác phẩm làm sao thua Balzac, Voltaire. Y như cái máy sản xuất đồ plastic, Maurois sau ngày bà vợ thứ nhất ly trần, hễ sáng là cắm đầu viết đến trưa. Chiều thì chuẩn bị tài liệu để sáng mai viết nữa. Bạn thấy ớn lạnh không. Ông tuy không có cái tướng đồ sộ như con bò mộng của Balzac, nhưng ông thực là Balzac ở chỗ có sức khỏe kinh hồn.
Lối cuối năm 1972, trong câu chuyện bàn về viết văn với Nguyễn-Hiến-Lê, tôi đã nói chơi chơi: "Nghệ thuật viết là nghệ thuật ngồi. Ai từng cầm bút từ 10 năm trở lên tất ý thức rằng ngồi trường kỳ để đẻ chữ theo kiểu Maurois là kinh hồn. Ngán nhứt là cái bao tử bị hăm dọa. Trong hai cuốn Thư ngỏ gởi thanh niên và Thư ngỏ gởi phụ nữ vô danh, ông còn trách sao người ta không chịu làm việc 8 giờ mỗi ngày, ông còn mắng kẻ đến ăn cướp thời giờ làm việc của ông. Ông dùng danh từ của Montherlant (Chronophage) để gọi thứ khách hay thứ người không quen mà táo bạo, vô lễ viết thư kèm tem bắt ông trả lời. Bạn có thấy ngán ông không. Nếu Montherlant cùng ông mắng hạng người trên là ăn cướp thời giờ thì bạn có thể gọi ông là Chronosophant tức là kẻ ghiền thời giờ. Mà tầm nguyên cái tinh thần quyết liệt đó, bạn thấy đúng là ông bị lây thầy ông. Alain đã đầu thai, nhập cốt trong ông.
Về chữ danh trên đời, Alain cũng lái trò như người ta lái ghe tàu nữa. Ở trên có chỗ bạn nhớ tôi dẫn trường hợp Alain bảo Maurois rằng việc vào Hàn-lâm-viện là ghê tởm và không nên thấp thoáng trong chánh quyền. Những tư tưởng về đào luyện tâm hồn, về nâng cao đời sống, về giao tế dụng nhân, về lòng nhân đạo, trung tín ân hậu, tất cả ta gặp nơi ngòi bút Maurois đều do Alain gieo giống hết. Viết về mốt ăn mặc của phụ nữ mà Maurois cũng lôi thầy ra trưng dẫn. Chẳng hạn thầy ông nói: "Ăn mặc phải giống ai nấy mà không ai bắt chước được độc đáo của mình. Áo quần theo mốt có mục đích đầu tiên là làm cho yên tâm người trang sức v.v...".
B.- TÌNH TRÒ MAUROIS ĐỐI VỚI THẦY ALAIN:
Trở lên là ta thấy cách Alain biểu lộ tình thương trò đối với Maurois. Dưới đây là những cách Maurois cung xử với tôn sư ông.
1.- Mê tín thầy mà lai rai cãi thầy:
Trừ trường hợp thánh Paulus trên đường truyền giáo lúc nào cũng trưng dẫn lời Đức Giê-Su, tôi thấy trong các vĩ nhân, không ai mê tín trưng dẫn thầy mình bằng Maurois. Gần như đọc cuốn nào của ông, nhứt là những sách tiểu luận, tiểu sử, người ta đều thấy ông trích tư tưởng của Alain. Còn những tiếng như: Alain, tôn sư của tôi, Alain nói, Alain bảo, Alain khuyên, Alain thì..., bạn gặp đầy dẫy trong các tác phẩm của ông. Ông còn mê thầy ông một kiểu gián tiếp bằng cách trưng dẫn rất thường Balzac, Stendhal, Dickens, Tolstoi là những danh sĩ mà thầy ông khuyên: "phải ngốn đêm ngốn ngày". Lập bàn thờ đốt hương cho Thầy trong lòng đến mức đó nhưng có phải Maurois nô lệ tư tưởng thầy không? Không, ông là thứ môn đệ biết dùng sáng kiến áp dụng vào lời khuyên của thầy một cách co dãn. Ông lai rai cãi thầy mà nhờ cãi như vậy tỏ ra xứng đáng là trò của thầy. Ta thử liệt kê vài trường hợp, ông nghe lời thầy ông trọn vẹn.
a) Thầy ông khuyên tiếp tục hãng dệt để tập tiếp xúc với đời, rút kinh nghiệm viết tiểu thuyết. Ông nghe lời làm chủ hãng ít năm rồi bỏ.
b) Thầy ông dặn muốn được tự do thì đừng thấp thoáng trong chính quyền, vậy mà có lúc ông làm công chức ở Rouen, nhưng sau một thời gian cũng thôi cạo giấy. Lần đầu bị động viên nhập ngũ đã đành. Hai lần sau vào quân đội là ông tình nguyện. Như vậy là ông có cãi thầy ông không? Hay định vào đó thay vì làm chủ hãng dệt để tìm tài liệu sáng tác.
c) Thầy ông nói chết sống gì cũng làm Balzac thứ hai. Ông viết đâu một mớ truyện ngắn, truyện dài, tệ thì không tệ nhưng không đứng đầu sổ nổi ở thời đại ông. Ông xây qua viết tiểu luận nhứt là viết tiểu sử và ông trở thành tiểu sử gia không ai qua mặt nổi.
d) Thầy ông bàn ra vụ vô Hàn-lâm-viện. Ông làm đơn xin làm ông Hàn. Tuy không còn cửa hậu để xin phiếu song trước khi vào ngồi thay ghế của Roumic ông đã giao du, thăm viếng nhiều cụ Hàn và nhờ đó ông đắc cử.
e) Thầy ông lái ông trớt vụ thi vào Cao-đẳng Sư-phạm nghĩa là không muốn ông gõ đầu trẻ. Mấy chục năm trước khi qua đời ông đi diễn thuyết khắp Âu-Mỹ nghĩa là không gõ đầu trẻ thì ông dạy người lớn.
2.- Sao mà thương thầy quá không biết:
Đọc tác phẩm của Maurois, ta thấy tình của ông đối với tôn sư đằm thắm, ngọt ngào làm sao? Ngoài những trường hợp ông nói ra lộ liễu đại khái như: Alain bảo tôi như vậy, Tôi tin Alain, Tôi nghe lời Alain, Alain không muốn tôi làm như vậy, ngoài các trường hợp ấy, ta còn thấy ông tỏ ra thương thầy chí tình ngay trong những trường hợp ông cãi lời thầy ông. Nhiều lần ông thành thật hối hận vì đã không làm Balzac thứ hai như thầy ông bảo. Viết tiểu sử trở thành quán quân vô địch mà ông tự thú không viết được tiểu thuyết xuất chúng cho thầy vui. Có thể nói Maurois cãi thầy trong thể cách áp dụng lời khuyên thôi chứ nguyên tắc, ông giữ đúng. Không nhất thiết làm chủ hãng dệt để tiếp xúc với các hạng người, ông lựa môi trường khác, môi trường quân đội, du lịch xứ người chẳng hạn. Không nhất thiết đẻo chữ mài câu như tác giả Le Rouge nhưng văn của Maurois ai cũng nhận là điêu luyện cao độ. Không nhất thiết phải viết bộ Trò Đời thứ hai như Balzac, song đọc toàn bộ tác phẩm của Maurois, ai cũng phải nhận là một thứ trò đời bao la và nhiều chỗ còn dặm thêm hương vị của bộ Hài kịch thánh (Comédia pina) của Dante nữa. Quí báu nhứt là ông tỏ ra thường thầy bằng cách tổ chức đời sống, tổ chức làm việc y như thầy. Không ai gọi ông là thánh nhân nhưng thực không quá lố khi nói ông là quân tử, là thiện nhân của thế kỷ 20.
3.- Chỉ một câu của thầy mà trò xây Kim-tự-tháp ngó trật ót.
Hồi lúc Maurois viết vài tiểu thuyết đầu tay, báo chí khen nức nở, Alain bảo: "Em hãy lên cao nữa". Đọc lời nầy bạn có nhớ Đức Giê-Su nói lời gì với môn đồ niên trưởng của Ngài không? Ngài nói: "Hãy ra khơi: Duc in alto". Pétrus thì xây kim tự tháp bằng linh hồn thiên hạ còn Maurois thì bắt chước Goethe, Balzac xây kim tự tháp bằng tác phẩm. Và tác phẩm Maurois cao trung bình một thước bảy mươi mấy. Nếu bạn lấy tác phẩm của ông chất từ bàn chân ông chất lên thì chắc cao khởi đầu ông lối 1/2 thuốc. Ông là một thứ Momsen của Đức, người đoạt Nobel văn chương thứ ba. Làm chủ cả núi tác phẩm, cuốn nào cũng viết công phu như vậy mà lúc gần xuống lỗ Maurois còn trưng lời của Tolstoi: "Nếu tôi còn sống..." ngụ ý là nếu trời cho ông làm con cháu Mathusalem thì ông còn viết hàng loạt tiểu sử danh nhân nữa. Sao mà chứng đau ruột tàn nhẫn với ông quá hồi ông 82 tuổi. Bằng không thì cái câu "Em phải lên cao nữa" chẳng biết sẽ đưa Maurois đến tầng mây nào?
4.- Tiếng sét tình sư đệ và định mệnh sự nghiệp:
Đâu phải chỉ trong ái tình giữa nam nữ mới có tiếng sét. Mà trong tình Thầy trò, cũng có thứ lưỡi búa thiên lôi riêng. Nhiều người chỉ trích tình tiếng sét, cho là thứ tình nông nổi. Chỉ trích như vậy không sai nếu nó xảy ra giữa những tâm hồn tầm thường. Trong nhiều trường hợp nó là dấu hiệu của tiềm thức được chuẩn bị lâu dài. Hai thầy trò Alain và Maurois mới gặp nhau mà như đã hẹn nhau từ kiếp nào. Trò mê Thầy và Thầy thấy trò là một thứ hiện thân của mình. Thầy quyết tâm xúi trò làm tất cả những gì mình cho là hay đẹp nhất trên đời mà mình không thể làm được. Thứ cao vọng đó có thể có nơi cha đối với con, nhưng thường cha không đủ khả năng đạt chí bằng thầy. Trong trường hợp Alain và Maurois, ta thấy có một thứ định mệnh chi phối song phương. Định mệnh đã sinh Alain làm thầy thì cũng sinh Maurois làm trò. Họ đồng thanh đồng khí với nhau đâu tận cốt tủy nên ta thấy họ tương ứng, tương cầu một cách nhịp nhàng, ngoạn mục. Chắc bạn từng biết có nhiều ông thầy đáng là thầy muốn có trò đáng là trò để lo lắm mà đâu có. Thiếu gì trò gặp chân sư lại bỏ đi tìm ngược lại. Cũng thiếu gì trung đệ luôn cầu tiến, mong gặp minh sư mà cứ gặp toàn thứ gì đâu không. Thầy trò Alain và Maurois định mệnh xui khiến làm sao mà y như người chọi quả banh vào vách, banh dội lại. Chứ nếu có một bên nào chênh lệch thì cũng không làm gì được. Người ta còn thấy bàn tay định mệnh thể hiện qua sự tình cờ ở chỗ mặc dầu Maurois luôn cố gắng nghe lời thầy song bị Thần tình cờ cuốn hút. Việc Maurois bị động viên lần đầu là một bằng chứng cụ thể? Đâu phải Maurois không định viết Trò Đời thứ hai. Ông đã bắt đầu viết mấy cuốn: Climats, le Cercle de la famille, Instinct du bonheur rồi đó chứ. Nhưng rồi như có lần ông tự thú là phải bỏ để viết tiểu sử. Viết tiểu sử thành công quá. Ai cũng reo lên bảo ông viết tiếp. Đến cái bà quả phụ Fleming muốn nhờ người viết tiểu sử cho chồng cũng không chịu ai viết hơn là Maurois. Tình cờ nào nữa? Mấy bộ sử lịch sử Pháp, lịch sử Anh, lịch sử Mỹ đó. Thoạt đầu Maurois nào dám cãi lời Thầy mà làm sử gia. Nhưng rồi từ khi vào quân đội, gần gũi nhiều với người Anh, từ khi bị mời đi diễn thuyết mãi bên Anh, bên Mỹ, ông đâm ra sáng kiến viết các bộ sử trên cho ba dân tộc Pháp, Anh, Mỹ hiểu nhau. Bị mời đi diễn thuyết mãi cũng là tình cờ. Tình cờ nầy xô đẩy tình cờ kia. Trong đời cầm bút sao mà người ta hay bị cái lười ngẫu nhiên vây phủ quá. Nhiều cuốn mình không định viết mà có cơ hội thì nó ra đời. Nhiều cuộn mình ấp ủ mãi trong lòng mà nó vẫn còn trong mơ ước. Thử cầm bút chừng năm mười năm đi bạn sẽ thấy chân lý kỳ lạ đó. Có phải nó là định mệnh không và Maurois là con mồi điển hình của nó?
5.- Sống và cổ xuy lời khuyên của thầy:
Không phải Maurois chỉ nghe lời sư phụ bằng hành động thuộc loại văn nghệ mà thôi. Ta thử chứng minh ông còn sống là còn cổ xúy các lời khuyên của Thầy ông nữa.
a) Chỉ còn hai năm thôi là bịnh đau ruột lôi ông xuống lỗ, nghĩa là đã 80 cái xuân rồi mà ông còn nhiệt liệt quảng cáo triết lý và chính các tác phẩm của Alain trong cuốn "Thư ngỏ gởi một thanh niên". Mấy trang đầu sách ấy chứa 4 nguyên tắc mà 2 là của Alain rồi. Nguyên tắc hoạt động và nguyên tắc tin tưởng ý chí. Hai nguyên tắc nầy Alain đã nhét vào tim óc Maurois lối 60 năm về trước. Trong chương hướng dẫn thanh niên đọc sách, Maurois giới thiệu mấy lố danh sĩ Đông Tây Kim Cổ nhưng vẫn không quên Thầy ông. Ông còn cắt nghĩa rằng Thầy ông khó đọc mà đọc rồi thì hay tuyệt, rằng chính nhờ thầy ông mà ông hiểu được những ông hoàng trong làng triết. Ông còn quyết liệt nói nếu thầy ông đã bắt Balzac đầu thai trong ông thì ông xin Alain nhập cốt trong thanh niên. Còn ai tán tụng Thầy một cách vừa trung thành vừa sáng suốt hơn nữa không bạn?
b) Không phải lo khuyên thiên hạ mà chính ông lo sống theo Thầy ông. Bạn dư biết Alain là một triết gia phủ nhận mọi thứ chức vị trong xã hội. Hồi bị động viên, Alain chỉ là một sĩ quan quèn trong khi có khả năng giáo sư đại học và triết gia tên tuổi. Suốt đời Alain từ chối tuốt hết các chức quyền cao, các danh dự nhà nước dành cho ông. Ông ghét Mérimée rồi ghét luôn tác phẩm của danh sĩ nầy chỉ vì Mérimée làm Thượng-nghị-sĩ. Có phải ông trùm chăn quá khích không? Có người trách ông yếm thế và không dấn thân. Nhưng Alain có cái lý của ông là theo ông phải có một số người sáng suốt ở ngoài chế độ để giám thị, coi chừng nhà cầm quyền. Ông hoan nghênh ai hy sinh cho đại cuộc lắm nhưng vào chính quyền thì đừng làm bậy. Cái tinh thần dứt khoát ấy ông gài đâu tận óc tim Maurois. Càng về già, Maurois càng chủ trương, càng sống như vậy, bạn thử coi ông có phải là Alain thứ hai không. Ông nhốt ông trong thư viện gia đình. Ông đóng đinh ông trên bàn viết. Ông chửi bọn vô cớ đến thăm ông để ăn cắp thời giờ của ông. Ông chửi luôn độc giả nào không quen ông mà viết thư kèm tem bảo ông trả lời. Ông bảo bạn và tôi trốn chốn thị thành phồn hoa mà viết lách trong cảnh một mình một bóng. Ông còn tuyệt đối ở chỗ bảo đi thăm nhà xuất bản, chủ báo là phí thời giờ. Quyết liệt nhứt là dẹp ngoài tai hết các lời khuyên của tình nhân, kể cả của vợ nếu thấy hại cho nghề viết. Ghê thực hả bạn? Vậy hay hay dở tùy bạn liệu. Mà đúng là Maurois sống như thế đó. Cả đời ông nhờ vậy mà dựng Hi-mã-lạp-sơn bằng tác phẩm rồi đứng heo hút một mình cô quạnh trên đó một cách khoái trá.
Thầy Alain chích vào gân Maurois thứ triết lý không dấn thân vào chính quyền, nhiều người tưởng Thầy trò Maurois nói và viết hơn làm. Kỳ thực họ hành động kinh khủng. Có điều đặc biệt là họ hành động với họ nhiều hơn với kẻ khác để từ đó xúi kẻ khác hành động với mọi người. Ta thử nghĩ nếu Alain và Maurois không hành động theo kiểu ấy thì Thầy trò họ làm sao để lại cho đời đống tác phẩm khổng lồ như ai cũng biết. Chỉ một lời khuyên nhỏ của Alain là phải hành động mà Maurois cả đời hành động đắc lực. Ông lại còn viết những sách chuyên về thúc đẩy hành động rõ rệt nhứt, là các cuốn: "Thư ngỏ gởi một phụ nữ vô danh", "Thư ngỏ gởi một thanh niên" và cuốn thoạt tiên là "Hành động". Nhan đề cuốn chót nầy ông cảm hứng theo câu đầu trong Phúc-âm Gioan I nói về Ngôi lời tức Đức Giê-Su mà Goethe cũng đã dùng trong kịch Faust: Thoạt tiên là Ngôi lời: "In principio erat Verbum, Au commencement était le verbe". Mà bởi vì Ngôi lời (Verbum) là hành vị cao cả nhứt, đầu tiên nhứt của Thượng-Đế nên Maurois thế lại tiếng Ngôi lời bằng tiếng Hành động. Ngụ ý thực thâm thúy. Gần đất xa trời rồi mà ông còn say sưa hành động, còn muốn chuyển lại bó đuốc thiêng hành động cho thanh niên. Có lần trả lời một tờ báo phỏng vấn ông, ông mượn mấy tiếng của Tolstoi "Nếu tôi còn sống" để cho biết là nếu sức khỏe cho phép, ông còn sẽ đọc nhiều nữa để viết nhiều nữa. Người ta học được nơi Maurois một thứ sức khỏe tinh thần gồm lòng lạc quan và chí đam mê lý tưởng.
Thấy ông là một đống tuổi, đầu bạc như thúng bông, báo chí hỏi ông đời sống hoàng hôn như vậy có buồn không? Ông điềm đạm trả lời rằng không có gì buồn hết, chết chỉ là đi ngủ không dậy nữa sau khi ông đã làm việc quá nhiều. Giấc trường miên đó chừng nào đến ông vui lòng chấp nhận. Sở dĩ Maurois có được triết lý nhân sinh của một đại nhân như vậy là vì từ xuân thời ông được thầy ông luyện cho tinh thần say mê hoạt động. Kinh thánh Alain giao cho Maurois gồm mấy tiếng: Sống nhiều, viết nhiều. Vì đó người ta không ngạc nhiên khi coi cuộc đời ông như một canh bạc, khi đã đỏ đen rồi thì không còn cách nào gọt tẩy chất ghiền trong xương tủy được nữa. Thành ra cũng như một Sertillanges chết khi soạn diễn văn, một Teilhard Chardin chết khi còn đang khảo cổ, Maurois qua đời khi ngòi bút còn đang cưu mang không biết bao nhiêu đứa con tinh thần nữa.
C.- ĐƯỜNG ĐIỆN ĐỎ TRONG ĐẠO THẦY TRÒ ALAIN - MAUROIS.
Còn vô số vấn đề, còn vô số chi tiết thú vị có thể đề cập nữa khi bàn về hai thầy trò vĩ đại nầy. Bạn thấy họ tuyệt vời quá trong mối tình sư đệ vô cùng phong phú, diễm lệ và đắc lực. Bạn hỏi cái đường điện đỏ nào, cái nguyên tắc nào chi phối một thứ "Hôn nhân" kỳ thú giữa một thầy lớn và một trò lớn như vậy. Có nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân lắm bạn. Có thứ ta bắt chước được mà cũng có thứ đầu hàng. Chẳng hạn bạn thấy nơi họ có cái may mắn như một định mệnh. May ở chỗ thầy như vậy gặp trò như vậy và ngược lại. May ở chỗ cả hai sống gần lột vỏ: Thầy 83 tuổi, trò 82 tuổi mới qui tiên. May ở chỗ đời họ ít gặp thứ biến cố gì phá hoại sự nghiệp họ một cách ác liệt. May cho thầy lẫn trò là đầu thai ở một quốc gia tân tiến, một xã hội không bị các loại ấu trĩ khống chế, do đó họ được yên thân làm việc và dễ dàng truyền bá tư tưởng. May cách riêng cho trò là sinh trong gia đình dư ăn dư để, có hai đời vợ mà bà nào cũng lo giúp chồng thành công. Các cái may ấy bạn cho rằng tự tạo được không? Nghĩa là hễ mình muốn là được phải không? Giá như vậy đi, tôi thấy cũng thiên nan vạn nan. Riêng tôi, tôi cho là Thầy trò họ có phước thuộc loại đẻ bọc điều. Tôi không dám lấy cái may ấy để làm gương cho bạn và tôi. Những điểm ta có thể bắt chước được nơi Thầy trò Alain - Maurois cũng không phải là thiên tài cao ngất như đỉnh núi Alpes của họ: cái đó gần như trời cho ai nấy hưởng. Ta có thể noi gương họ ở các điểm son sau đây:
1) Thầy thương trò hết lòng hết dạ.
2) Trò thương Thầy hết dạ hết lòng.
3) Thầy trọn đời lo cho trò và càng thấy trò thành công, không ganh tị mà càng đẩy trò lên cao mãi.
4) Trò suốt đời làm việc theo ý Thầy và càng sáng chói hơn Thầy càng thương Thầy, nghe lời Thầy, trung tính với Thầy, và đề cao Thầy.
5) Từ Thầy đến trò sống lương thiện theo lương tâm chính trực, coi danh lợi như cỏ rác, hì hục làm việc đến chết, làm việc cho tha nhân mà không vì đó không hưởng nhàn.
Tóm lại nơi Alain, Maurois là một lương tâm công chính, một đời sống lương thiện, một chí cao rộng như trời biển, một ý chí mãnh liệt như vũ bão, một quả tim yêu đời và hy sinh vô bờ bến, một bộ óc phán đoán đúng và đọc ngày đọc đêm, một bàn tay vừa chảy mồ hôi vừa thoát tục, tiêu dao, đặc biệt là viết và viết cho đến hơi thở cuối cùng.