← Quay lại trang sách

Chương 1 Nơi chưa được biết

Câu truyện về hai cây rã hương như thế nào nhỉ?

Giữa dòng người đông đúc, có người thấp giọng hỏi.

Mọi thứ bỗng trở nên kỳ lạ, ánh mắt ấm áp, bàn tay ẩm ướt.

Khi mùa hạ bừng nở vội vàng dưới vòm trời, cũng là lúc ánh dương trở nên rực rỡ hơn bao giờ hết.

Cô vội vã lướt qua anh, khiến trong đám cỏ dại nở ra một nhành hoa đơn độc.

Anh lặng yên đứng phía sau đợi cô, khiến hoàng hôn từ từ khép lại cánh cửa nặng nề.

Bốn mùa trôi qua, anh và cô ngày càng trầm lặng, hoàng hôn đã qua và bình minh chưa tới.

Mùa hạ về, khi bước chân của anh và cô dần chậm lại, đôi tay từng nắm giờ lại nắm những bàn tay khác.

Có những âm thanh chưa từng được hát vang, có những đốm lửa chưa từng được bừng sáng.

Nhưng thế giới này đã có cả âm thanh và ánh sáng rồi.

Vì thế thời gian trở nên nặng trĩu nhưng cũng nhỏ bé vô cùng, một cơn bão tuyết dễ dàng phá tan cánh cửa mỏng manh ấy.

Thành phố này vẫn đương sắc xuân. Nó cứ dừng mãi trong ký ức, đến khi hóa thành nỗi trống vắng và cô độc trong buổi hoàng hôn khi chẳng còn ai ở lại trường học nữa.

Từng hàng rã hương chạy dài bao trùm cả bầu trời của thành phố.

Trong bóng râm ấy, có lời từ biệt muộn tới mười năm.

Này này, mình đang hát, cậu có nghe thấy không?

Ha ha ha, ai đang hát cơ, mình nghe thấy rồi.

Có những nơi có thể bạn chưa từng đi qua, nhưng đến khi bạn thực sự đặt chân đến, bạn sẽ có cảm giác bản thân của mấy năm trước, mười mấy năm trước, thậm chí mấy chục năm trước, hoặc thậm chí quãng thời gian đó còn vượt xa số tuổi của bạn, đã từng tới đó. Bạn thực sự đã từng ở đó, từng địa danh, từng ngõ ngách, bạn đều đã từng ghé qua.

Có nhà văn giải thích rằng, đó là do điện sóng não của những người đã qua đời từng sống ở nơi này vẫn còn lưu lại trong không khí. Mỗi người lại có một tần số khác nhau, và cơ hội để những tần số này tương đồng gần như không có, nhưng cũng vẫn sẽ tồn tại một tỷ lệ rất nhỏ người đang sống có thể tiếp nhận những sóng điện phiêu lãng trong không trung ấy. Những sóng điện này, chính là “ký ức”.

Vừa hay, bạn tiếp nhận tần số điện sóng não ấy, và người để lại điện sóng não ấy, chính là thứ mà chúng ta gọi là “kiếp trước”.

Đối với Lập Hạ, Thiển Xuyên cũng tồn tại theo cách đó, chân thực nhưng cũng hoang đường.

Gió cuốn hết đi, hồn phi phách tán.

Sáng nay Lập Hạ dậy rất sớm, nhưng vì ngày mai mới là lễ khai giảng nên hôm nay chẳng có việc gì cần làm. Hơn nữa, hôm qua cô đã chuyển hết những thứ cần chuyển, cũng đã nộp học phí đầy đủ. Một ngày trống này có lẽ là nhà trường cố ý chừa ra để đám học sinh đa sầu đa cảm có thể làm một buổi lễ truy điệu đầy đau thương cho những năm tháng cấp hai của mình, hoặc có những ai vô tâm vô tư có thể tụ tập đi karaoke nhảy múa đánh bài uống rượu, vùi chôn cả quá khứ lẫn tương lai trong thanh xuân vô định.

Lập Hạ nghĩ vậy, nhà trường có lẽ cũng nghĩ thế. Mà dù nhà trường không nghĩ thế thì các học sinh chắc chắn cũng sẽ cho là vậy thôi. Do đó, ngày này bỗng trở nên đầy ý nghĩa với các cô cậu học trò.

Nhưng suy cho cùng cô là một người nhạt nhẽo vô vị, đã không có tinh thần hưởng thụ lại cũng chẳng muốn buông thả bản thân.

Lập Hạ chỉ quay về Thiển Xuyên, nhìn từng cây rã hương lần lượt che phủ cả thành phố, lẩn tránh thời gian, phí hoài năm tháng.

Nhung kỳ lạ thay, Lập Hạ có cảm giác bản thân mình của rất nhiều năm trước chắc chắn đã từng chạy bộ mấy vòng quanh ngôi trường ở đây, đã từng đợi xe ở vỉa hè, từng mua một chai nước trong tiệm tạp hóa, từng đứng dưới gốc cây hóng mát, từng nhiều lần thả diều ở quảng trường.

Lúc ăn cơm trưa mẹ gọi điện tới, Lập Hạ phải dừng bữa để nói chuyện với mẹ, một lúc sau chợt nghe bên ngoài có vài tiếng ho, cô giật mình nhận ra mình đang ở nhà của người khác bèn vội vàng cúp máy, chạy về bàn ăn và vội ba miếng nữa rồi dọn dẹp.

Nhưng may thay mai là ngày tựu trường, nếu không cứ ở nhà bà con thế này, Lập Hạ cảm thấy mình sắp bị stress đến nơi rồi.

Cô nghĩ, con người chung quy vẫn thích sống trong môi trường quen thuộc, một khi môi trường thay đổi thì dù xung quanh vẫn lấp lánh tươi đẹp, nhưng trong phút chốc trực giác của động vật sẽ thức tỉnh, khiến con người bắt đầu sợ bóng sợ gió, thần hồn nát thần tính.

Mùa hè năm 1995. Buổi học cấp ba đầu tiên.

Thật ra Lập Hạ mới tới Thiển Xuyên được ba ngày, nhưng lại có cảm giác đặc biệt thân thuộc với thành phố này. Tựa như trong những giấc mơ từ thuở nhỏ, những cây rã hương to lớn này đã xuất hiện vô số lần, đem theo những rung động mơ hồ, những làn sáng dịu dàng mờ ảo lấp đầy đôi mắt.

Lập Hạ cảm thấy Thiển Xuyên chẳng có Hạ chí, bất luận mặt trời lên cao như thế nào, tỏa ra những tia sáng trắng xóa nóng rực đến nhường nào, một nửa thành phố này vẫn vĩnh viễn được che chắn dưới bóng râm dịu dàng của những tán rã hương xanh thẫm, cách biệt với trần thế, nhắm mắt hít thở an nhiên.

Vỉa hè. Cầu thang. Sân thượng. Cầu vượt nối liền mọi nơi. Sân vận động có tường rào bao quanh. Nửa thành phố chìm trong bóng râm xanh thẫm của rã hương, mang theo hương vị ẩm ướt của mùa hè.

Từng tán rã hương lùi dần sau ô cửa kính xe buýt.

Hôm qua Lập Hạ ở trong nhà một người họ hàng mà bản thân cô cũng chẳng nhớ tên, còn hôm trước, cô đã chuyển hết đồ đạc tới trường rồi. Đây là lần đầu tiên từ lúc sinh ra tới giờ Lập Hạ sống ở trong trường, trước khi tốt nghiệp cấp hai cô toàn ở ngoại trú. Vốn luôn mong chờ được ở ký túc, hơn nữa cũng không muốn ở nhờ nhà người ta, nên khi mẹ hỏi cô muốn ở ký túc hay nhà người quen, Lập Hạ chọn ngay ký túc chẳng hề do dự.

Khi ánh sáng lấp ló qua khung cửa sổ, cũng là lúc mí mắt cảm nhận được độ ấm. Chắc mặt trời đã ra khỏi tán rã hương rồi đây - Lập Hạ nhắm mắt thầm nghĩ, và rồi gương mặt mẹ lại hiện lên trong tâm trí cô. Lập Hạ cảm thấy, trước kia cô đâu có nhớ nhà thế này nhỉ, ấy vậy mà vừa rời khỏi tổ ấm, từ máu thịt đến dây thần kinh trong cơ thể bỗng đồng loạt cùng bứt rứt như đã hẹn từ trước vậy.

Thất Thất cũng từ Thất Huyện lên Thiển Xuyên học, cô ấy là bạn nối khố của cô, hai người học cùng tiểu học tới tận cấp hai, rồi lại thuận lợi thi đỗ vào cùng trường cấp ba. Ba mẹ Thất Thất lái một chiếc xe con lên tận đây đưa cô ấy nhập học, Thất Thất hỏi cô có muốn đi cùng không nhưng Lập Hạ từ chối. Cô nghĩ bụng, mình có phải lá ngọc cành vàng gì đâu, bảo cô đi xe hơi riêng lên nhập học có khác nào ngồi tên lửa bay lên sao Hỏa.

Xe dừng trước đèn giao thông.

Khi Lập Hạ mở mắt, ngoài khung cửa sổ bỗng có thêm một bóng người. Cậu con trai ấy cưỡi xe đạp địa hình, một chân chống đất, lọn tóc xòa xuống che khuất một phần đôi mắt, dây tai nghe màu trắng buông thõng từ ngực xuống thắt lưng da, rồi biến mất trong chiếc cặp đeo chéo. Cậu ta lặng lẽ đứng bên đường cái, dường như thuộc về một thế giới khác. Trong thế giới đó chỉ có mình cậu ta, mọi sự vật như bất động, chỉ những khi cậu ta cúi đầu ngẩng đầu, phong cảnh mới thoáng chuyển động.

Cậu ta nằm nhoài trên ghi đông xe một cách yên lặng, chiếc áo thun trắng như ánh lên sắc xanh của bóng cây rã hương. Bỗng cậu ta từ từ ngoảnh đầu lại, gương mặt hoàn toàn chiếm trọn ánh mắt Lập Hạ.

Cô không thể phủ nhận đó là người đẹp trai nhất cô từng thấy kể từ khi tới Thiển Xuyên. Cậu ta có sự tươm tất mà những cậu chàng khác không có, tựa như nam chính trong những bộ phim điện ảnh, toàn thân tỏa ra ánh sáng trắng dìu dịu, dù có đi bao lâu trong biển người chen chúc thì vẫn sạch sẽ không vướng bụi trần.

Nhưng ngay sau đó, Lập Hạ lại cau mày bởi chiếc xe địa hình và logo CK kinh điển thoắt ẩn thoắt hiện sau lưng áo cậu ta. Xưa nay Lập Hạ không ưa loại công tử nhà giàu, thế nhưng gương mặt thanh khiết kia lại không thể khiến cô ghét nổi. Đúng lúc này, cậu ta nhìn về phía cô, Lập Hạ cũng nhìn vào đôi mắt kia, đôi mắt mờ sương tựa mặt hồ sớm mai.

Lập Hạ cảm thấy đôi mắt cậu ta chỉ chuyển động theo hướng xe đi, chẳng chú ý và cũng chẳng để tâm. Đôi mắt không tiêu điểm ấy như bị che bởi một màn sương mờ.

Đèn giao thông chuyển màu xanh, dòng xe chậm rãi tiến về phía trước, ánh sáng và bóng tối luân chuyển qua tán cây. Lập Hạ nhắm nghiền hai mắt nhưng gương mặt chàng trai đó vẫn không ngừng ẩn hiện trong tâm trí.

Lễ khai giảng lúc nào cũng chán. Lập Hạ đã nghĩ vậy khi ngồi giữa sân vận động đầy người. Tất cả học sinh đều phải tập trung ở khoảng sân trống trước bục cờ, các anh chị trong Hội Học sinh bận rộn chuyển bàn ghế trên bục, sắp xếp xong xuôi lại bắt đầu bày hoa tươi.

Trình tự khai giảng ngàn lần như một, chẳng khác gì hồi cấp một hay cấp hai.

"Chẳng có chút sáng tạo nào cả."

May sao không nơi nào trong thành phố có những cây rã hương xanh tươi hơn ngôi trường này, tới độ muốn tìm một khoảng trời nắng cũng không thấy, chỉ có những tia sáng luồn lách qua những kẽ lá mà thôi. Lập Hạ thấy mình như đang đứng trong một khu rừng rậm, tiếng huyên náo của hơn nghìn học sinh bỗng như trôi tới một nơi xa xôi, những hạt bụi cũng yên ắng trôi nổi giữa chùm nắng.

Lập Hạ bỗng nhớ tới sân vận động đất đỏ hồi cấp hai, nhớ tới những cậu thanh niên nhễ nhại mồ hôi và những cô thiếu nữ cầm chai nước lặng lẽ đứng chờ bên cạnh dưới ánh nắng chói chang. Tiếng ve ngân vang rộn rã khiến ngày hè càng trở nên nóng nực và bức bối. Suốt thời cấp hai, Lập Hạ chưa từng thích một cậu bạn nào. Thất Thất cũng phải thốt lên rằng cô đúng là một cô gái ngoan. Lập Hạ không phủ nhận, nhưng cô biết hồi đó cô không thích một nam sinh nào không phải vì không muốn thích, mà là vì không có ai đáng để cô thích cả. Trong trái tim cô hiện hữu một người ở nơi rất xa, cô không biết mặt mũi người đó ra sao, nhưng mỗi tối ngồi học trước khung cửa sổ, cô luôn bất giác viết tên người đó lên vở. Cái tên đó tựa như một câu thần chú không chịu ngủ yên nhưng cũng chỉ lặng lẽ lấp lánh ánh sáng mờ ảo trong đêm tối.

Trên bục cờ, thầy hiệu trưởng phát biểu ngày càng hăng say, nói từ việc vệ sinh cầu thang tới việc Trung Quốc đã cho nổ thử quả bom nguyên tử đầu tiên, Lập Hạ nghe mà không chịu nổi.

“Người làm vệ sinh cầu thang cũng chẳng phải người cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên, cần gì phải liên hệ hai chuyện này với nhau nhỉ?”

Bởi vậy, cô quyết định không nghe thầy hiệu trưởng nói nữa, mà thật ra những lời đó cũng chẳng có gì đáng nghe. Những lời này đã được lặp đi lặp lại không biết bao lần từ hồi lớp 1 tới giờ, kiểu gì chẳng là không được làm gì, phải làm những gì. Nhưng kỳ lạ thay, từ cấp một tới cấp ba, đã chín năm trôi qua mà danh sách những việc phải làm và không được làm ấy chưa từng thay đổi, Lập Hạ nghĩ mà buồn cười.

Cô bắt đầu chuyển tầm mắt sang những gốc rã hương, dù việc đó cũng tẻ nhạt không kém.

Những chiếc bóng luân phiên giao hòa khiến thời gian trôi qua thật nhanh. Lập Hạ ảo giác như có một dòng nước chậm rãi lướt qua mu bàn chân cô, mang tới một cảm giác mát lạnh, văng vẳng đâu đây là tiếng đàn dương cầm, nhịp điệu chậm dần khiến cô mơ màng muốn thiếp đi.

Lập Hạ vừa ngoảnh đầu lại đã thấy chàng trai gặp lúc đi học. Gương mặt ấy lấp ló giữa mái tóc của hai nữ sinh ngồi phía trước, trông còn thanh tú hơn cả hai bạn nữ sinh kia. Lập Hạ nghĩ bụng mình gặp quỷ rồi. Bỗng cô nghe thấy tiếng cậu ta nói chuyện với cậu bạn ngồi bên cạnh, nhưng vì quá xa nên cô không nghe rõ giọng, chỉ loáng thoáng nghe được cậu bạn kia gọi cậu ta là “Chết cười” thì phải.

“Chết cười”1? Sao trên đời này lại có cái tên kỳ quặc vậy nhỉ? Lập Hạ cảm thấy khó hiểu.

1.“Chết cười” đồng âm với Tỉểu Tư

“Đúng là buồn cười muốn chết.” Cô lắc lắc đầu rồi lại tiếp tục ngắm cây.

Vào giờ nghỉ trưa Lập Hạ không xuống căng-tin ăn cơm, cô ngồi dưới bóng cây, mang hộp cơm chuẩn bị từ nhà ra, vừa ăn vừa lật xem một cuốn tạp chí mỹ thuật vô danh. Kỳ nào cô cũng mua tạp chí này chỉ bởi vì một họa sĩ có nghệ danh là Tế Tư. Vào một ngày năm Lập Hạ học lớp 8, cô nhìn thấy bức tranh “Mùa hè mất lửa” của họa sĩ này trên tạp chí liền thích người đó luôn, dù không biết Tế Tư là nam hay nữ, tên họ, tướng mạo ra sao, người ở đâu. Nhưng cô đoán ắt hẳn đó là một người đàn ông trẻ tuổi với gương mặt tuấn tú, không thích sự khoa trương, thích mặc quần bò với áo sơ mi trắng, chỉ uống Coca không thích uống nước lọc. Tất cả những điều đó đều là ảo tưởng cố chấp của thiếu nữ, nhưng Lập Hạ lại coi như thật.

Mùa hè trong bức tranh đó của Tế Tư hừng hực bốc cháy, nhuốm đỏ cả bầu trời, vài khóm lau điểm xuyết những chấm sáng, lay động theo gió. Trên bầu trời chỉ có duy nhất đôi cánh chim chao liệng xuyên qua tầng mây dày, phủ lấp những câu chuyện chưa thể kể. Thời gian trong bức tranh chậm rãi chảy trôi.

Từ đó về sau, trong mỗi kỳ tạp chí, Lập Hạ đều thấy tranh của Tế Tư. Những bức tranh ngập tràn màu sắc kia trở thành điểm nhấn trưởng thành của Lập Hạ, tựa như một loại vỗ về an ủi, hay nói đúng hơn là một sợi dây kết nối.

Cô bắt đầu say mê Tế Tư một cách kỳ lạ, đêm nào cũng không ngừng tưởng tượng, Tế Tư vuốt ve tờ giấy vẽ thế nào; người đó cúi đầu gọt bút chì ra sao; khi pha màu, làn mi người ấy có nhướng lên hay không; ban ngày người ấy sẽ thế nào, và ban đêm đi ngủ sẽ ra sao.

Những suy nghĩ đó dường như đã thành thói quen tới tận khi cô tốt nghiệp cấp hai. Cô biết tình cảm mình dành cho Tế Tư đã thành tín ngưỡng. Tranh của người ấy luôn mang tới cảm giác như đang đưa tiễn tuổi xuân. Nhiều khi Lập Hạ cảm giác Tế Tư như một người khoác lên mình tấm áo choàng đen dày nặng, đứng bên con đường ngả bóng hoàng hôn, ánh mắt nặng trĩu tiễn đưa những con người không quay trở lại, phía trên bầu trời là đàn chim dáo dác bay.

Bất giác, Lập Hạ thiếp đi, buổi trưa mùa hạ luôn mang theo hơi nóng, ánh sáng, mùi hương và cả sự lười nhác nữa, tổng thể đó khiến mí mắt cô trĩu nặng, tựa như một hợp chất kết dính cực mạnh vẫn đương nóng hôi hổi.

Hơi thở dần chậm lại, cô chìm vào giấc ngủ. Có rất nhiều buổi trưa, Lập Hạ sẽ đột nhiên lịm đi như thể mất đi ý thức.

Tới khi tỉnh giấc nhìn đồng hồ, cô bật thốt “Giết tôi đi!” rồi vội vàng thu gom đồ đạc, chạy về phía giảng đường.

Lập Hạ vẫn luôn phải hối hận vì tính cách bất cẩn này của mình, tính tình mà Thất Thất chưa bao giờ có. Cô ôm tập tranh, hộp cơm, túi xách và cởi áo khoác ra vì trời quá nóng, thoạt trông thật nhếch nhác. Ở góc cua tầng ba, Lập Hạ bỗng thấy phía trước có bóng người, nhưng cô thật sự không kịp phanh lại nên lập tức đâm sầm vào người ta.

Chiếc áo thun mềm mại mang theo hơi lạnh, tiến thêm nữa là sẽ chạm vào làn da ấm áp. Khi đập mặt vào lưng người phía trước, Lập Hạ có thể cảm thấy hai cánh xương gồ lên ở phía sau lưng người đó. Chất vải hòa quyện hương nước hoa và mùi mồ hôi, thoang thoảng mùi thơm thanh mát như hương cỏ. Lập Hạ hoảng hốt đánh rơi hết đồ xuống đất, thân hình lảo đảo vội ôm lấy eo người đó theo phản xạ. Khi chạm phải phần bụng rắn chắc của người đó, cô vội vã rụt tay, thế nhưng bàn tay vẫn nóng bừng bừng. Lập Hạ vì co người nên mất trọng tâm, lập tức ngã phịch xuống sàn.

Thật ra cả quá trình chỉ diễn ra trong một hai giây, nhưng Lập Hạ lại nhớ rõ được từng chi tiết, cô ngồi bệt xuống đất, đưa mắt nhìn hàng mi đen, đôi mắt, sống mũi của người đó.

Đó chính là gương mặt mà cô đã thấy ngoài cửa sổ xe buýt sáng nay.

Gương mặt đó không hề có biểu cảm gì, chỉ trừ hàng mày khẽ nhíu lại. Lập Hạ nhìn thấy dầu mỡ từ hộp cơm của mình bắn lên vạt dưới áo thun của người đó, đưa mắt lên thêm chút nữa thì nhìn thấy logo hai chữ CK, liền rùng mình nghĩ bụng “Giết tôi thêm lần nữa đi!”

Cô vội vàng đứng dậy, không hiểu sao nói mãi không xong câu “Mình xin lỗi nhiều lắm.”

“Mình... Mình...” Âm cuối thậm chí còn khẽ tới độ không ai nghe thấy, chỉ có tiếng tim đập rộn ràng như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực.

Gương mặt ấy vẫn chẳng có biểu cảm gì, người lên tiếng lại là chàng trai đứng kế bên. Bấy giờ Lập Hạ mới nhận ra ở đây có những hai người. Ngoảnh đầu trông thấy một gương mặt còn điển trai hơn với chiếc áo thun cũng của hãng CK, cô liền như nghẹt thở. Người đó cười tít mắt nói: “A...” rồi không nói tiếp nữa, gương mặt lộ rõ vẻ chờ xem kịch hay.

Lập Hạ bỗng thấy cái tên có gương mặt hớn hở lộ liễu khi người khác gặp nạn này thật đáng ghét. Tên này cao hơn chàng trai cô thấy ngoài cửa kính xe buýt nửa cái đầu, đôi mắt cũng to hơn một chút, trông cũng điển trai hơn. Thật ra nét đẹp của hai người này không thể so bì, khi đứng trong đám đông, họ đều cực kỳ hút mắt. Chắc hẳn tên này chính là kẻ ngồi bên nói chuyện với cậu bạn lạnh lùng kia.

Chàng trai bị bẩn áo xoay người lại, buông đúng một câu “Đi thôi!” với người kế bên như thể chưa hề có chuyện gì xảy ra. Điều này khiến Lập Hạ sửng sốt, và cả thất vọng một cách kỳ lạ. Thực ra cô cũng không biết mình đang mong đợi chuyện gì nữa, chỉ là sự bình thản ấy không khỏi khiến người khác cảm thấy hụt hẫng. Chí ít người kia cũng phải tranh luận một câu hoặc chấp nhận lời xin lỗi của cô chứ, cùng lắm thì mình giặt áo cho cậu là được chứ gì? Dù mình không có áo thun CK để đền cho cậu, nhưng bột giặt thì không thiếu.

Trong tâm trạng tức giận, Lập Hạ hét lên phía sau hai chàng trai: “Xin lỗi nhé!” Dũng khí sục sôi ấy khiến giọng cô vang vọng khắp cả tầng, tới mức chính cô cũng phải giật mình. Bóng lưng của “mặt lạnh” thoáng khựng lại rồi bước tiếp, trông thờ ơ hệt như chính gương mặt của cậu ta vậy. Nhưng kẻ bên cạnh thì ngoảnh đầu lại, nhoẻn miệng cười để lộ chiếc răng nanh, vẻ mặt lại càng sung sướng khi thấy người khác gặp họa.

Lập Hạ vội vàng chạy về phía phòng học lớp mình, thầm nghĩ giờ mình chắc chắn trông cực kỳ ngốc nghếch.

2 giờ 33 phút, tới muộn ba phút, Lập Hạ đứng ngoài cửa thở hổn hển, gương mặt thầy giáo lộ vẻ không vui, tới muộn ngay tiết đầu của buổi học đầu tiên, trò đùa này thật quá trớn.

Thầy giáo cằn nhằn vài câu, dù không có ý trách phạt nặng nề nhưng đứng trước bao bạn học mới gặp lần đầu thế này, Lập Hạ vẫn thấy hơi xấu hổ.

Sau một phút đứng tại chỗ, cuối cùng cũng nghe được câu “Em vào đi, lần sau nhớ chú ý!” của thầy giáo, cô bèn vội vàng chạy vào lớp, liếc nhìn sơ đồ chỗ ngồi xếp theo mã số học sinh trên bảng để tìm chỗ của mình.

Lập Hạ nhét hết đồ vào hộc bàn, vừa thở phào được mấy bận đã nhìn thấy hai chàng trai vừa nãy qua khung cửa sổ, mấy giây sau, họ đã đứng trước cửa lớp. Nào ngờ thầy giáo không hề trách mắng câu nào, chỉ mỉm cười gật đầu để họ bước vào.

Cô bực bội nghĩ, thật bất công, sao lại có chuyện đến muộn hơn cả cô mà vẫn bình an vô sự vậy?

Lập Hạ nhìn về phía hai chỗ ngồi còn trống duy nhất trong lớp ngay sau mình lại càng thấy khó chịu hơn, tựa như có con sâu bò lên người mà cô lại chẳng tìm ra cách bóp chết nó.

“Họ chính là hai người được tuyển thẳng từ cấp hai ấy hả?”

“Chắc vậy đó, nghe nói sau khi được tuyển thẳng, họ chẳng thèm đi học buổi nào suốt cả nửa học kỳ cuối cấp hai.”

“Hình như được tuyển thẳng theo diện học sinh nghệ thuật thì phải, nhưng thành tích các môn văn hóa của họ còn cao hơn tất cả học sinh lớp thường đấy.”

“Ôi mẹ ơi, đỉnh vậy!”

“Chứ sao, đã vậy còn đẹp trai nữa chứ.”

“... Bó tay với cậu luôn, nhưng hết hy vọng đi, nghe nói một người đã có bạn gái rồi đấy.”

“Vẫn còn một người mà, hi hi.”

“Ha ha.”

“Ha ha cái con khỉ!”

Những tiếng bàn tán phiêu đãng trong không trung, theo luồng gió quạt truyền đi khắp cả lớp. Lập Hạ cảm thấy mấy người bạn học xung quanh thật lắm chuyện, ấy vậy mà cô vẫn không khỏi ngoảnh đầu nhìn. Đúng lúc đó, chàng trai ngoài khung cửa xe buýt bỗng ngẩng đầu lên, gương mặt tinh tế ngay lập tức lọt vào mắt cô, thế nhưng đôi mắt cậu ta như không hề có tiêu cự, được phủ một lớp sương mù, chẳng thể nào biết người đó đang nhìn lên bảng hay nhìn cô. Lập Hạ vội vàng xoay người lên, bỗng nghe thấy tiếng cười từ phía sau vọng đến:

“A, là cái người hấp tấp vừa nãy đây mà.”

Còn người kia trước sau vẫn chẳng có phản ứng gì.

Người hấp tấp?!

Lập Hạ cảm thấy lưng mình như ướt đẫm mồ hôi, lau mãi mà không khô, rất ngứa nhưng lại chẳng thể làm gì, chỉ ước sao tháo được một cánh tay xuống đưa ra sau gãi cho đã.

Quạt điện vẫn không ngừng quay, tiếng vang phành phạch kéo mùa hạ ngày một dài hơn.

Phảng phất trong không khí là hương thơm nồng nàn của mùa hạ.

Ngoài khung cửa sổ lại nhuốm một màu xanh ngắt của rã hương.

Đêm đầu tiên ở lại trường, Lập Hạ thao thức mãi, nhưng vì không quen thân với cô bạn cùng phòng nên cô đành buồn bực nằm trên giường. Chiếc quạt trần thổi tới từng làn gió nhẹ, không gian chật hẹp trong căn phòng trở nên bức bối hơn bao giờ hết, vừa tắm xong mà giờ đã ướt đẫm mồ hôi.

Bên gối là mấy phong thư những người bạn cũ gửi cho cô. Khi mới tới Thiển Xuyên, vì quá tiếc nuối nên cô đã mang theo rất nhiều rất nhiều thư của các bạn. Giờ nghĩ lại, cô bỗng cảm thấy bạn học cùng trường mà cũng có thể viết dài đến vậy, lại còn dán tem rồi mang ra bưu điện, có lẽ là nhờ vào sự cố chấp và bồng bột của tuổi trẻ, nhưng như thế cũng thật thuần khiết, ít nhiều khiến người ta cảm nhận được sự ngây ngô.

Trước khi chào tạm biệt họ hàng để tới trường, Lập Hạ nghĩ mình sẽ không bao giờ đọc lại những lá thư đó nữa, nên buổi tối cô mang đống thư ra phân loại, thư của từng người sẽ được xếp riêng, chẳng mấy chốc đã có tới bốn năm chồng. Sau đó, cô hỏi mượn cái hộp sắt để đốt đống thư. Khi ánh lửa hắt lên mặt, Lập Hạ bỗng cảm thấy bao kỷ niệm trước kia như ùa về trước mắt, ai đó viết trong thư rằng tuần sau sẽ đi mua quần áo với ai, ai đó viết dạo gần đây cậu không quan tâm mình mà suốt ngày đi với ai, tớ giận thật rồi đó…

Nháy mắt đống thư đã hóa thành tro, Lập Hạ xoay người về phòng. Cảm giác nóng rát của ngọn lửa thật ngột ngạt, đã vậy hôm nay trời lại nóng hơn thường lệ, người cô đã đẫm mồ hôi, đôi mắt cay vì khói mà nhỏ lệ. Cuối cùng cô có thể giả vờ bảo rằng mình cũng đã sầu não vì thời thanh xuân của chính bản thân rồi. Tới khi nào cô mới có thể sửa được cái tính trong ngoài bất nhất này nhỉ. Lập Hạ bỗng nhớ tới câu khẩu hiệu “Xây dựng xã hội, làm lại cuộc đời” mà thấy bất lực với chính mình.

Nằm trên chiếc giường xa lạ, cô không sao ngủ được. Lập Hạ trở mình liên tục, tưởng tượng những lá thư đã hóa thành tro bỗng rơi từ trần nhà xuống phủ lên người cô, khiến cô thấy nghẹt thở như thể bị chôn sống từng chút.

Ngoài cửa sổ văng vẳng tiếng một chú mèo cứ kêu suốt, âm thanh uyển chuyển tựa như đã trải qua một khóa luyện thanh nghiêm khắc. Hè nóng như đổ lửa mà không đi ngủ, rạo rực cứ như xuân tới, thật không thể chịu nổi! Lập Hạ lại lật người, cô chợt nhớ hình như có người bạn từng kể mèo nhà cậu ta tương tư không kể xuân hạ thu đông, gọi bạn tình từ đầu năm tới tận cuối năm.

Chiều nay sau khi tan học, cô vừa mua một cuốn tạp chí, lần này Tế Tư vẽ một bức tranh mang tên “Quá khứ vô hồn”. Bức tranh vẽ một chàng trai mặc đồ trắng đứng trong mưa, xe cộ qua lại trên đường phố đều mờ nhạt không rõ, chỉ có chàng trai kia sắc nét vô cùng. Những người đứng trú mưa dưới mái hiên dõi theo chàng trai ấy với vẻ sửng sốt, còn người ấy vẫn hững hờ vô cảm. Phía dưới bức tranh đề một câu: “Chàng trai ấy thản nhiên bước qua bốn mùa...”

Đúng lúc này, cơn buồn ngủ lại ùa tới dồn dập như sóng triều, nhấn chìm mọi dây thần kinh tỉnh táo.

Hàng ngày, khi ôm xấp bài thi bước dưới tán rã hương che khuất ánh nắng gay gắt, Lập Hạ luôn nghĩ thời cấp ba của cô đã bắt đầu rồi ư? Sau khi cô suy nghĩ rất nhiều lần, dấu hỏi cuối câu nay đã thành dấu chấm.

Sáng nào cô cũng nhìn thấy hai chàng trai kia, ngay trong lần giới thiệu bản thân trong buổi học đầu tiên cô đã nhớ tên hai người đó rồi, bởi tên của họ rất đặc biệt. Một người tên Phó Tiểu Tư chứ không phải “Chết cười” như cô nghe nhầm, người còn lại là Lục Chi Ngang.

Dần dà Lập Hạ cũng phải thừa nhận hai người này thật sự là thiên tài, bởi nhiều khi cô để ý thấy Phó Tiểu Tư lên lớp không hề nghe giảng, chỉ tiện tay vẽ vời hết bức này tới bức khác trên giấy, còn Lục Chi Ngang lại nằm nhoài ra bàn ngủ gật. Thỉnh thoảng sau khi tỉnh dậy, cậu ta sẽ cầm tranh của Phó Tiểu Tư qua xem, sau đó vẽ vời linh tinh lên trên, để rồi lần nào cũng bị Phó Tiểu Tư đá cho kêu oai oái. Lập Hạ nghĩ bụng, nếu là Phó Tiểu Tư cô cũng đá, bởi chẳng ai vẽ tranh lại muốn tranh của mình bị người khác động vào.

Đôi khi Lục Chi Ngang sẽ ngẩng đầu mỉm cười với Lập Hạ đang ngoảnh đầu nhìn họ rồi nói: “Hi.”

Lập Hạ lập tức xoay người đi, đỏ mặt vì bị phát hiện. Lục Chi Ngang khá thích nói chuyện, cậu ta thường bắt chuyện với cô kiểu “Tên cậu hay thật đấy”, đã vậy trong giọng nói ấy còn mang theo sự nũng nịu hiếm thấy ở con trai, đúng là chẳng phù hợp với bề ngoài điển trai cao to của cậu ta gì hết.

Còn Phó Tiểu Tư dường như luôn mang vẻ mặt lạnh như băng. Thỉnh thoảng có người bắt chuyện với cậu ta, cậu ta cũng chỉ chậm rãi ngẩng đầu lên nhìn người ta, vài phút sau mới thong thả hỏi một câu “Chuyện gì?”, đôi mắt không hề có tiêu cự như phủ một màn sương mờ, âm thanh ướt át mà mềm mại tan trong không trung.

Tháng Chín tới, bầu không khí cũng dịu mát hơn, sáng sớm đạp xe tới lớp, hơi lạnh thấm vào áo khiến cậu nổi da gà. Phó Tiểu Tư hắt hơi, tóc mái xòa xuống che đi đôi mắt. Mấy hôm nay, cậu luôn muốn đi cắt chỗ tóc đã dài ra này nhưng mãi vẫn không có thời gian. Thầy dạy Mỹ thuật muốn cậu tham gia một cuộc thi hội họa nên mấy ngày gần đây chiều nào cậu cũng phải ngồi vẽ.

Khoảng thời gian tự học sau 4 giờ chiều, Phó Tiểu Tư và Lục Chi Ngang không cần có mặt, hai người có thể vác giá vẽ tới phòng tranh hoặc tới ngọn núi phía sau trường. Lập Hạ nhìn họ nghênh ngang về sớm, trước khi đi, Lục Chi Ngang còn cười tít mắt chào cô, điều này khiến Lập Hạ tức tới nghiến răng nghiến lợi. Nhưng dù có tức đến mấy cũng vậy thôi, quả thực thành tích của cô không thể sánh nổi với hai người họ. Đó cũng là điều khiến cô cảm thấy cực kỳ bất công, tại sao người vẽ vời kẻ ngủ gật trong lớp có thể thi được hạng nhất hạng nhì, còn người chăm chỉ ghi bài, dốc toàn lực ôn tập cũng chỉ có thể lọt vào top 10?

Ông trời ơi, ông có đang mở mắt không đó!

Cổng trường là trạm cuối của tuyến xe buýt số 16, điểm cuối đầu kia của tuyến này thuộc vùng ngoại ô thành phố Thiển Xuyên, nơi có một nhà xưởng bỏ hoang mọc tràn cỏ dại, cỏ cao tới mức không thấy đầu người, từng nhánh cỏ đậm nhạt khác màu nghiêng ngả trong gió, vẽ nên từng đợt sóng gợn như làn nước êm.

Những sợi lau màu trắng bay vút lên, bám đầy vào người đi đường.

Phó Tiểu Tư tựa người lên ghi-đông, chiếc tai nghe vang lên điệu nhạc xập xình. Nam ca sĩ hát mãi một câu: “I walked ten thousand miles, ten thousand miles to reach you...”, câu hát ấy tựa như lời mê sảng trong cơn mơ nhưng lại cực kỳ hợp với tiết tấu bài hát này, như thể có những người đang thổi sáo ngay giữa trạm xe ồn ã vậy. Họ đứng giữa sự huyên náo, thổi sáo ru ánh hoàng hôn trở nên yên tĩnh, biến con người hóa những chú chim, biến thời gian thành quá khứ, rồi lại biến quá khứ thành những dòng hồi ức.

Phó Tiểu Tư vừa đưa mắt nhìn lên đã thấy Lục Chi Ngang đứng trước mặt, cậu cau mày nói:

“Tốt nhất lần sau nhanh cái chân lên.”

“Có phải tớ không muốn nhanh đâu, chỉ tại có một em gái nhất quyết mời tớ uống Coca thôi mà, thịnh tình khó chối lắm.”

“Lộn chủ ngữ rồi kìa, rốt cuộc là ai mời ai?”

“... Cậu được lắm!”

“Cậu còn không đi lấy xe, tớ đảm bảo hôm nay lại tới muộn.”

Lục Chi Ngang sực tỉnh, vỗ bốp một cái lên đầu rồi chạy như bay, vạt áo phấp phới tựa như đóa hoa thanh khiết đương nở rộ trong nắng hè.

Trong mắt nữ sinh, những nam sinh đẹp trai như cậu ấy kiểu gì cũng sẽ được so sánh với hoa thôi.

Cuối cùng, hai người vẫn cứ tới muộn. Phó Tiểu Tư lườm Lục Chi Ngang một cái sắc lẹm, Lục Chi Ngang húng hắng ho vài tiếng giả vờ không thấy. Thế nhưng thầy giáo thì không. Hậu quả là hai người phải nộp năm bức vẽ tượng thạch cao ngay ngày mai. Phó Tiểu Tư nhìn Lục Chi Ngang, đôi mắt gườm gườm như sắp bùng cháy.

Trên đường về nhà, Phó Tiểu Tư thản nhiên bảo:

“Tớ thương cậu lắm, tối nay phải vẽ tận mười bức cơ mà.”

Ngay sau đó, chiếc xe đạp của Lục Chi Ngang lảo đảo vài cái rồi đổ kềnh, Phó Tiểu Tư chẳng thèm quan tâm mà cứ đi tiếp, để lại Lục Chi Ngang ngồi dưới đường gào thét: “A a a a a a a a a a...”

Một đàn quạ dáo dác bay vụt ra khỏi lùm cây.

Chớp mắt đã tới tháng Mười, bầu trời bắt đầu cao hơn, thỉnh thoảng Lập Hạ nhìn thấy những đàn chim bay di cư về phía nam, tiếng vỗ cánh cực kỳ rõ ràng. Chỉ cần nhắm mắt thôi, cô đã có thể nhìn thấy ánh nắng ấm áp ngập tràn đất phương Nam, đàn chim bay qua những vùng non xanh nước biếc.

Tuần nào cũng có bài kiểm tra.

Người nơi đây không ai không biết ngôi trường này có tỷ lệ học sinh lên lớp đạt gần một trăm phần trăm, bởi vậy muốn lọt vào top 10 có thành tích tốt nhất hẳn là chuyện không hề dễ.

Lập Hạ ngày nào cũng thấy mệt bã người, Thất Thất là học sinh nghệ thuật lại không cùng lớp với cô, Thất Thất ở lớp 10A7, còn cô ở lớp 10A3, đều là hai lớp nổi tiếng nhất khối. Lớp 10A7 là lớp nghệ thuật có tiếng, phân nửa số học sinh thi vào ngôi trường này bằng môn nghệ thuật đều học ở đây, vì vậy khi ngày hội văn hóa tới gần, hầu như cả lớp 10A7 đều đăng ký tham gia. Còn lớp 10A3 lại là nơi tập trung các học sinh đạt điểm cao trong trường, lần nào trong top 10 cũng phải có tới tám người thuộc lớp 10A3, sáu mươi sáu người đều sẽ nằm trong top 150.

Lớp 10A3 tổng cộng có sáu mươi sáu học sinh.

Bởi vậy nhiều khi Lập Hạ thấy cô và Thất Thất như sống trong hai thế giới. Thất Thất học vẽ tranh truyền thống, ngay từ nhỏ đã phải học vẽ cá vàng vẽ nòng nọc vẽ tôm he, vẽ những đóa mẫu đơn nở rực rỡ giữa trời hạ và mãi mãi không tàn trên mặt giấy Tuyên Thành. Còn cô thì cả năm lớp 7 chỉ dành để học phác họa, đến lớp 8 thì thôi học vẽ, lớp 9 đã không biết để giấy bút ở đâu nữa rồi. Thế nhưng Lập Hạ chưa bao giờ thấy như vậy không ổn, cuộc sống này rất công bằng, tuy không vẽ được nhưng cô lại là người có thành tích cao nhất huyện, từ đó thuận lợi bước vào ngôi trường này. Hơn nữa trong bốn kỳ kiểm tra trong hai tháng từ khi khai giảng đến nay, cô vẫn luôn giữ vững vị trí trong top 10. Lập Hạ tự nhủ: “Ừ, được như thế này cũng không dễ.”

Vậy mà cô vừa nói xong, một cảm giác bi tráng đã từ đâu ập tới.

Lúc ăn cơm, Thất Thất hỏi tình hình bên Lập Hạ, cô bèn đáp rất ổn, có điều học hành bận bịu nên hơi mệt mỏi. Thất Thất lại gặng hỏi cô quen người bạn mới nào chưa, Lập Hạ lắc đầu.

Tiếng quạt trần vù vù trên đỉnh đầu ngày càng lớn khiến căng - tin vốn vắng vẻ bỗng trở nên ồn ã.

Lập Hạ thấy thời tiết hôm nay vẫn rất nóng, tháng Mười cũng đã coi như sang thu rồi, xem ra dù “hổ mùa thu”1 là đực hay cái thì vẫn rất đáng sợ.

1: Một cách gọi dân gian, nếu vào ngày lập thu, trời không mưa thì hai mươi tư ngày sau đó, thời tiết sẽ rất nóng, hai mươi tư ngày đó gọi là “hổ mùa thu”.

Thất Thất tròn mắt nói: “Tớ còn tưởng lâu vậy không thấy cậu là vì cậu bận đi với các bạn mới quen chứ.”

Lập Hạ gẩy gẩy hột cơm: “Tớ có được như cậu đâu, hơn nữa bạn cùng lớp tớ đều là mọt sách hết, cậu mà nói chuyện với họ, có khi còn ngửi thấy mùi công thức hóa học ấy chứ.”

“Hả? Kinh khủng thế á, ai cũng vậy ấy hả?”

“Đương nhiên... À không, có hai kẻ ngoại lệ.”

“Hửm?” Thất Thất hỏi bằng giọng đầy hứng thú: “Ai vậy?”

“Thôi đừng nhắc đến họ nữa. Thất Thất, lớp cậu có vui không?”

“Vui chứ, lớp tớ toàn các nhân vật thần thánh thôi, nghịch đến mức trần phòng học cũng phải lật ngược luôn.”

“Vậy sao...” Giọng Lập Hạ có chút hâm mộ.

“Ừ, kể cậu nghe chuyện này, vì nó mà tớ cười nguyên ngày đấy. Lớp tớ có một bạn nữ tên Lưu Văn Hoa làm văn như thế này: “Chú linh dương yêu mạng sống liều mạng chạy vào rừng sâu...” Cậu biết cô giáo phê như thế nào không? Thế rốt cuộc chú linh dương đó muốn sống hay muốn chết?”

Lập Hạ thoáng ngây người rồi bật cười như nắc nẻ, sau đó cô nhớ tới giáo viên lớp mình mà thấy chạnh lòng, lớp cô có vị giáo viên Vật lý có gương mặt rất phù hợp với nguyên lý đòn bẩy và giáo viên Hóa học miệng sặc mùi axit sulfuric.

Ánh nắng xế trưa luôn khiến người ta cảm thấy mệt mỏi và lười biếng. Thất Thất ngồi tựa vào Lập Hạ dưới gốc cây rã hương, bóng râm chậm rãi lướt qua hai người. Một áng mây đi qua lại một áng khác đến, bởi vậy bóng cây cũng từ từ chạy qua hai gương mặt trẻ trung. Hai màu sáng tối giao hòa, gió thổi tới từ phương Bắc hệt như làn nước, Lập Hạ cười đùa: “Trên trời có hai áng mây, một màu trắng, đám còn lại, cũng là màu trắng.”

“Giống như ở cổng nhà tôi có hai gốc cây, một gốc là táo, gốc còn lại cũng là táo1. Í, hay là bạch đàn nhỉ?”

1: Lấy ý từ tác phẩm “Đêm thu” của nhà văn Lỗ Tấn. Nguyên văn: “Ở vườn sau nhà tôi, có thể nhìn thấy phía ngoài tường có hai cái cây, một là cây táo, còn cây kia cũng là cây táo.”

“Chắc là táo, tớ cũng không nhớ bài học đó nữa.” Lập Hạ khẽ dịch người đổi sang một tư thế biếng nhác thoải mái hơn.

“Đã từ lâu lắm rồi.” Thất Thất bỗng cất tiếng.

“Hình như vậy.”

“Lập Hạ, cậu đã bao giờ nghĩ ngoài học ra, cậu còn muốn làm gì khác không?”

“Không biết nữa.” Cô duỗi chân ra, đầu gối thoáng nhói đau, chắc trời sắp mưa rồi.

“Cậu có nghĩ tới việc tiếp tục vẽ tranh không?”

Có thứ gì đó trong tim Lập Hạ bị đánh thức nhưng lại như chưa tỉnh hẳn, cũng tựa như trong giấc ngủ, dù nghe thấy tiếng sấm sét mưa rào ngoài khung cửa nhưng chẳng chịu mở mắt, chỉ vì cảm nhận được hơi nước và hơi lạnh nên mới vội vàng cuốn chăn. Phải rồi, cũng chỉ vậy mà thôi.

“Chưa từng, tớ có học lớp A7 đâu, vẽ vời gì chứ.”

“Cậu có định tham gia lớp học vẽ phác họa ở trường không? Ai cũng đi được, không hạn chế.”

Lập Hạ cảm thấy trái tim khẽ rung động, tựa như nó vừa trở mình một cái, đôi mắt hé mở trong mơ màng.

“Toàn học sinh lớp cậu thôi chứ gì?”

“Không đâu, hình như học sinh toàn trường ai cũng đi được đó, lớp nào cũng có người tham gia. Lập Hạ, cậu đi nhé?”

Lập Hạ quay đầu nhìn Thất Thất, tựa như vừa sực tỉnh khỏi cơn mơ, ngồi trên giường lắng nghe tiếng mưa rơi tí tách ngoài kia. Cô bật cười đáp: “Ừ thì đi.”

Lớp học vẽ nằm trong góc tây nam, bị những gốc rã hương che phủ tới độ nhìn không rõ hình dáng.

Đó là phòng học lâu đời nhất ở trường này, một căn phòng mái bằng ngói xanh, hình như được xây dựng từ đời nhà Thanh. Khi đó, học sinh phải ngồi học ở căn phòng mái bằng thấp tẹt, để rồi mấy năm sau sẽ phải rời xa nơi này lên kinh dự thi.

Lập Hạ lưng đeo giá vẽ, tay cầm dụng cụ đẩy cửa bước vào.

Tiếng sột soạt vọng ra, là tiếng của rất nhiều chiếc bút chì đang lướt trên giấy, trên đất có đủ loại thạch cao, các khối hình học, tượng đầu người, mà trong đó nổi bật nhất chính là tượng David.

Lập Hạ ngồi xuống một góc gần cửa sổ, vừa đặt giá vẽ và bút xuống thì thầy giáo bước vào.

Thầy tuy trẻ nhưng lại để chỏm râu dưới cằm, thoạt trông thật kỳ lạ. Lập Hạ không thích những người như vậy. Cô không hiểu vì sao những người làm nghệ thuật lại cứ muốn biến bản thân thành tác phẩm nghệ thuật.

Hôm nay đã là buổi học thứ ba rồi, cũng may trước kia Lập Hạ từng học vẽ nên bắt đầu học từ giữa khóa cũng không sao. Thực ra việc vẽ phụ thuộc phần lớn vào bản thân, giáo viên giảng rất ít, hơn nữa dù gì môn này cũng cần có tố chất.

Từng nét bút lướt trên giấy, cánh tay cổ tay di chuyển lên xuống, bức tranh từ từ có khung, có hình, sau đó là những vùng đổ bóng, màu xám chì dần chiếm lĩnh toàn bộ trang giấy.

Bỗng một chú mèo nhảy vọt lên khung cửa sổ làm Lập Hạ giật thót, ngón tay run run khiến đầu chì gãy ngay trên giấy.

“A.” Cô khẽ bật thốt, dù nhỏ tới mức gần như không thể nghe thấy nhưng vẫn khá nổi bật trong bầu không khí lặng như tờ này, có người khẽ cau mày.

Lập Hạ lục tìm dao gọt bút chì trong túi dụng cụ nhưng mãi không thấy, từng giọt mồ hôi bắt đầu rịn ra trên trán.

“Này.” Bỗng một bàn tay vươn tới trước mặt cô, trên đó là một chiếc dao gọt màu trắng. Lập Hạ vừa ngẩng đầu lên thì thấy hàng mày đen, hàng mi và đôi mắt. Phó Tiểu Tư ngoảnh xuống nhìn cô.

“Hả?” Lập Hạ lại sửng sốt kêu lên. Sao cậu ta lại ở đây? Cô bối rối nghĩ, đáng nhẽ không có học sinh lớp A3 nào muốn tham gia lớp học không giúp ích gì cho việc thi đại học này mới đúng, thế nên việc gặp Phó Tiểu Tư ở đây ít nhiều cũng khiến cô ngạc nhiên.

“Tiểu Tư, sao thế?” Bỗng phía sau có tiếng nói vang lên, Lập Hạ quay đầu lại thì thấy một đôi mắt đang híp lại vì cười. Lục Chi Ngang đưa mắt nhìn cô, chào: “Hi.”

Lập Hạ bỗng cảm thấy thấp thỏm, muốn xách giá vẽ chạy khỏi đây ngay lập tức, bởi cô từng thấy tranh của hai người kia, nhìn là biết cô và họ không cùng đẳng cấp. Cô sợ người khác nhìn thấy tranh của mình, hơn nữa cũng không muốn bạn học cùng lớp biết mình tới đây học vẽ.

Khi cô cúi đầu, bút chì đang cầm trong tay đã biến mất, vừa ngẩng đầu lên thì thấy Phó Tiểu Tư đang gọt bút rồi, ngón tay xoay quanh bút và dao gọt tựa như sợi tơ vòng đi vòng lại, Lập Hạ nghĩ bụng, tay con gái chắc cũng chẳng linh hoạt được như cậu ta.

“Cầm đi. Sau này đừng hô to gọi nhỏ như thế nữa, người khác sẽ thấy phiền đấy.”

“Ừ.” Lập Hạ cúi đầu đáp, đang định ngẩng đầu nói lời cảm ơn, nhưng thấy gương mặt vô cảm và đôi mắt vô định của Phó Tiểu Tư thì họng bỗng nghẹn ứ.

Người ta vừa nói mình phiền đó, nói cảm ơn kiểu gì được đây?

Phó Tiểu Tư đứng dậy dọn đồ, Lục Chi Ngang ngồi phía sau dường như cũng đã vẽ xong. Lập Hạ nhìn họ, nghĩ bụng chắc hẳn lúc tạo ra các sinh mệnh, bà mụ cũng có lòng thiên vị, tại sao trên đời lại có hai người ưu tú như thế này nhỉ? Cô buồn bực nghĩ ngợi.

Hoàng hôn dần buông, những đốm sáng vàng tô điểm chân trời, Phó Tiểu Tư dụi mắt lộ vẻ mệt mỏi. Cậu vươn vai khiến các khớp xương kêu răng rắc.

“Mệt thật đấy.”

“Ha ha, lên đi, tớ cõng cậu về nhà.” Lục Chi Ngang nhảy tới làm động tác như đang định vác bao tải.

Phó Tiểu Tư ngoảnh đầu, ánh mắt sắc lẹm như muốn giết người, Lục Chi Ngang sợ hãi thu tay lại rồi cười xòa. Phó Tiểu Tư cau mày nhìn màu vẽ trên chiếc áo trắng của Lục Chi Ngang, nói:

“Không biết mẹ cậu giặt đồ kiểu gì đây?”

“Giặt không sạch thì mẹ tớ mua đồ mới thôi, đơn giản mà.”

“Chính vì lẽ đó mà Trung Quốc mãi vẫn chưa thoát nghèo đấy.”

Lục Chi Ngang sững người, bỗng mỉm cười mờ ám: “Tớ phải về mách mẹ.”

Lần này lại tới lượt Phó Tiểu Tư sửng sốt, bởi cậu không biết nên trả lời câu này ra sao, vẻ mặt đờ đẫn thoáng qua của cậu khiến Lục Chi Ngang cười lăn lộn.

Cậu có phần bực bội, mãi không nói gì, Lục Chi Ngang lại càng cười tợn, thật chẳng biết điểm dừng. Bởi vậy sau đó, hai người lại lao vào đấm đá túi bụi.

Ngày hè dài đằng đẵng kết thúc khi đàn chim sải cánh bay ngang. Đó cũng là đàn chim cuối cùng bay trên khung trời mùa hè. Không ai nhìn thấy khoảnh khắc cuối cùng khi chúng biến mất. Ráng chiều tà nhiễm đỏ không gian, bóng đêm lưỡng lự không chịu buông mình, mặt trăng treo lơ lửng giữa bầu trời xanh và trong ánh nắng chưa tắt hẳn. Khoảnh khắc ấy, thế gian này tựa như mộng ảo.

“Thất Thất, cuối cùng cũng hết hè rồi.”

“Ừm...”

“Cậu nhớ nhà không? Nhớ hội bạn cũ không?”

“Không biết nữa, còn cậu thì sao?”

“Tớ nhớ lắm, nhưng không biết mọi người bây giờ đang ở đâu, đang làm gì, có sống tốt không?”

“Vậy tìm cơ hội về nhà xem xem, cũng rất lâu rồi tớ chưa về nhà.”

“... Hay là... thôi đi...”

Nắng còn chưa kịp quá gay gắt, mùa thu đã vội vã cuốn quanh đầu cành. Những chiếc lá rụng ngày càng nhiều, phủ một màu vàng khắp đỉnh núi.

Ngôi trường này tọa lạc tại một ngọn núi nhỏ không tên, khi tan học sẽ có rất nhiều học sinh đi xe đạp men theo đường núi về nhà. Lúc bánh xe lướt trên đường sẽ nghe thấy tiếng những chiếc lá bị cán giòn tan, hai bên lề đường là tán cây sum suê, đàn chim ríu rít bay xuyên qua hàng cây xanh rồi mất hút.

Thế nhưng những học sinh nội trú như Lập Hạ hay Thất Thất lại chẳng thể cảm nhận được cảm giác đó. Hằng ngày chạy bộ xong đồng hồ đã điểm 7 giờ 25 phút, mà hầu như ngày nào, đúng giờ này, cô cũng nhìn thấy Phó Tiểu Tư và Lục Chi Ngang đang băng qua sân vận động tới lớp. Sau lần đối thoại ngắn ngủi trong phòng học vẽ hôm trước, dường như mối quan hệ của đôi bên đã không còn quá xa lạ nhưng cũng chỉ dừng ở mức thấy nhau thì gật đầu chào mà thôi. Đôi mắt của Phó Tiểu Tư vẫn phủ một màn sương, thỉnh thoảng khi tán gẫu với Lục Chi Ngang, đôi mắt ấy mới trong trẻo hơn.

Lập Hạ vẫn luôn thắc mắc về đôi mắt cậu ấy, chắc cô bị ảo giác nên mới nghĩ đó là bệnh đục thủy tinh thể. Cô cũng từng để ý xem cậu có nhìn rõ hay không, có điều nhìn cậu ấy vừa đạp xe vừa chạy vừa nhảy thế kia, cô không thể tự lừa mình rằng Phó Tiểu Tư là người mù được. Cô chỉ có thể giải thích rằng “Thiên nhiên kỳ thú có rất nhiều hiện tượng lạ lùng.”

Phó Tiểu Tư thấy Lập Hạ gật đầu với mình, vốn dĩ còn không nhớ ra cô nữ sinh này là ai, nhưng khi nghe Lục Chi Ngang gọi cái tên Lập Hạ thì cậu có ấn tượng rồi. Từ nhỏ tới giờ cậu rất khó nhớ mặt người khác, trừ phi thường xuyên nói chuyện hay quen thân, nếu không chắc chắn sẽ không nhớ nổi.

Lục Chi Ngang vỗ vai cậu, nói: “Cậu thấy cô ấy thế nào? Tớ thấy dễ thương phết.”

Cậu nghiêng đầu đáp: “Ừm, cũng được, lặng lẽ, không ầm ĩ cũng không đáng ghét.”

Lục Chi Ngang nhe răng cười. Bình thường, nếu Phó Tiểu Tư nhận xét về một người như thế có nghĩa cậu có ấn tượng khá tốt với người đó. Phó Tiểu Tư rất ít khi khen một người, nói đúng ra là chưa từng có. Lục Chi Ngang nghĩ mãi mà vẫn không nhớ ra cậu bạn này đã từng khen ai bao giờ chưa, đáp án là chưa hề.

Cậu ta vẫn luôn cảm thấy Tiểu Tư có chút tự kỷ, cứ như một nửa thời gian là sống ở thế giới khác, bởi vậy Lục Chi Ngang vẫn luôn thắc mắc không biết bao giờ Tiểu Tư mới trưởng thành đây? Trở thành một con người khéo ăn khéo nói ư? Chuyện không tưởng!

Nghĩ vậy, Lục Chi Ngang lại bật cười ngây ngô, Phó Tiểu Tư đang đi phía trước bỗng ngoảnh lại liếc cậu ta, lạnh lùng nhả một câu:

“Thần kinh!”

Lục Chi Ngang cau mày xắn tay áo rồi nhào tới.

Bụi lại bay mù mịt.

Ánh nắng mùa thu có khả năng xuyên thấu đáng nể, tựa ánh đèn tập trung chiếu vào hai chàng trai, gợi nên một loại ám thị nhẹ nhàng.

Chẳng mấy khi thứ Bảy được nghỉ học, nhưng cả trường sẽ học bù vào Chủ nhật, nói thẳng ra chẳng qua thứ Bảy và Chủ nhật đổi chỗ cho nhau mà thôi, thế nhưng toàn trường lại mừng rỡ như sắp đón Noel vậy.

Thất Thất và Lập Hạ mượn xe đạp của bạn học nam chuẩn bị đi mua đồ, đương nhiên người mượn là Thất Thất, vì cô ấy rất đẹp nên muốn mượn đồ chẳng hề khó, thậm chí bọn con trai còn ước được nhờ làm lái xe luôn ấy chứ.

Mãi tới khi trời ngả ráng chiều, Thất Thất và Lập Hạ mới rời thành phố về trường, túi lớn túi nhỏ xếp chồng trong giỏ xe khiến chiếc xe nghiêng ngả mãi. Hai người vừa cười nói vừa cật lực đạp băng qua con đường rợp bóng cổ thụ hai bên, khi tới cổng trường Lập Hạ mới chuẩn bị xuống, nhưng chân còn chưa chạm đất, cô đã nghe thấy tiếng phanh gấp từ phía sau.

Tiếng hét của Thất Thất vang vọng trong hoàng hôn, Lập Hạ vội ngoảnh đầu nhìn chiếc xe vừa tông phải họ. Đồ đạc trong giỏ xe văng tung tóe, còn chân cô lại mắc kẹt trong nan hoa, bánh xe quay tiếp theo quán tính, máu trên chân cô chảy ra ồ ạt. Cơn đau nhói từ chân truyền thẳng tới tim, ngay lập tức, tầm mắt Lập Hạ bỗng mờ đi.

Chiếc túi trong tay Thất Thất văng xuống đất, cô ấy ôm miệng hét không ra tiếng rồi òa khóc. Lập Hạ muốn an ủi bạn rằng mình không sao, nhưng miệng vừa mở đã bật ra những tiếng rên khẽ khiến chính cô cũng phải giật mình. Cơn đau ngày càng dữ dội, vết cắt trên chân cô rất sâu, máu đã thấm đỏ cả tất.

Lái xe bên kia vội vàng chạy tới, vốn Lập Hạ định bảo “Không sao” rồi đi ngay, nào ngờ lại bị người kia mắng, “Chúng mày không có mắt hả?!”

Cô nghĩ bụng, làm ơn đi, tôi bị đâm từ đằng sau đấy, rốt cuộc là ai không có mắt? Nhưng nghĩ lại, cô cũng không định tranh cãi với người đó, một là vì đau đến mức nói không nên lời, hai là chiếc xe hơi kia rất đắt đỏ, cô không muốn dính líu gì tới những kẻ giàu có đó.

Có điều Thất Thất nhất quyết không chịu. Cô bạn không thèm nói gì mà chỉ lấy sổ ra ghi lại biển số xe, sau đó lấy chiếc máy ảnh đi mượn ra chụp lại vài tấm từ dấu vết phanh xe, vị trí chiếc xe đạp, thậm chí cả những gờ giảm tốc và biển báo cấm xe có động cơ đi vào khu vực này ở ngay trước cổng trường. Lập Hạ biết thực ra máy ảnh không có phim, cô cười thầm, thế nhưng nụ cười vừa tới bên khóe miệng đã bị cơn đau đánh tan.

Người lái xe kia bắt đầu hoảng hốt, trán lấm tấm mồ hôi, xoa tay nói với Thất Thất: “Đừng chụp nữa!”

Thất Thất cất máy, khoanh tay trước ngực ra vẻ “Tôi đang nghe đây.”

Nụ cười của người đó có phần gượng gạo, cũng không biết nên nói gì.

Thất Thất chạy lại đỡ Lập Hạ dậy: “Tớ đưa cậu tới phòng y tế, phải băng vết thương lại chứ, không thể để nó chảy máu mãi thế này được.” Lập Hạ nhìn Thất Thất, hóa ra cô bạn mình cũng có lúc trưởng thành như thế, chỉ vừa nãy thôi còn rơm rớm nước mắt mà giờ đã bình tĩnh như một người mẹ rồi. Cô thật lòng bái phục.

Lái xe liên tục xin lỗi, cô thấy người đó đáng thương, vả lại chân cô cũng chỉ bị thương nhẹ, tuy đau nhưng không động đến xương cốt hay thần kinh.

Thôi, cho qua chuyện này đi.

Còn chưa kịp thốt nên lời thì người ngồi ghế sau trên chiếc xe hơi đã đẩy cửa bước xuống. Đó là một cô gái rất xinh, trang phục trên người cũng rất đẹp, vừa nhìn đã biết không hề rẻ, chắc hẳn là con nhà giàu rồi. Cô khẽ nói với Thất Thất: “Đi thôi.”

Đang loay hoay đứng dậy, cô gái kia bỗng lên tiếng: “Khoan đã!”

Rồi cô ta bước lại gần Lập Hạ, rút một ít tiền từ trong ví ra: “Cầm đi, xin lỗi, là lỗi của tài xế nhà tôi.”

Vốn Lập Hạ còn thấy cô gái này thật đẹp, hơn nữa câu xin lỗi cũng rất thật lòng, nhưng hành động rút tiền đó lại khiến cô cảm thấy buồn nôn.

Lập Hạ lắc đầu đáp, “Không cần.” Sau đó xoay người đi cùng Thất Thất, nghĩ bụng, con cái nhà giàu ai cũng đáng ghét như nhau, tưởng có tiền thì hay lắm chắc!

“Lập Hạ!” Bỗng tên cô bị gọi giật lại từ phía sau.

Vừa ngoảnh đầu lại, cô đã thấy nụ cười của Lục Chi Ngang và cả gương mặt lạnh lùng của Phó Tiểu Tư nữa.

Cậu cau mày bước qua rồi ngoảnh đầu nhìn cô gái vừa bước xuống xe kia, “Sao lại thế này?”

Cô gái đó cười, đáp với Phó Tiểu Tư: “Tài xế nhà em bất cẩn tông vào cô ấy.”

Phó Tiểu Tư lại gần, cúi đầu xem xét vết thương trên chân Lập Hạ, “Sao không tới phòng y tế?”

Lập Hạ đáp: “Tớ vừa bị tông, định đi giờ đây.”

“Tôi đưa cậu đi.”

Lập Hạ bỗng thấy máu trong cơ thể lại bắt đầu tràn ra ngoài, vết thương bỗng nhói đau tựa như từng sợi thần kinh bị ai đó gảy mạnh, cơ thể chợt trở nên nhạy cảm hơn.

Trong ấn tượng của cô, con người sở hữu đôi mắt sương mù chưa từng tan, hoàng tử băng giá nổi tiếng trong lớp chẳng phải nên đi lướt qua cô vờ như không thấy sao? Còn tên Lục Chi Ngang suốt ngày chỉ thích chọc nữ sinh đáng lý phải cười sung sướng nhìn cô rồi đánh tiếng chào “Ê, bị thương hả?” mới đúng. Tiếp đó, hai người sẽ xoay người bỏ đi, hành động đó mới phù hợp với hình tượng của họ và phải như vậy mới đúng với một thế giới thờ ơ như hiện nay.

Nhưng hôm nay sao thế này? Tại sao tình tiết lại giống hệt như những cuốn truyện tranh dành cho thiếu nữ và những mộng tưởng mơ hồ trong lòng cô vậy?

Vừa xoay người bước vào trường học, khuỷu tay cô đã bị ai đó nhấc lên, khiến cô cảm nhận được hơi ấm lan tỏa trên làn da ?