Chương 5 Ngày đẹp trời
Ánh sáng thuở sơ khai của thế giới,
Soi sáng thanh xuân đã mơ hồ, soi sáng năm tháng đã trôi xa
Hoa diên vĩ dần trải khắp sườn đồi, trông về bóng tối nơi bài thơ vang vọng
Bài thơ đó xướng lên truyền thuyết, truyền thuyết đó xướng lên nhân vật
truyền kì,
Nhân vật đó trước mắt bao người bắt đầu bao chuyến phiêu lưu
Mang theo thanh xuân nguyên vẹn hạnh phúc, dẫu đường đi không tỏ
đường về chưa tường
Thầy tế vội dát sơn vàng bột bạc lên nghi thức vãn hồi tuổi xuân
Vì lẽ đó, năm tháng từng mất tiếng nay bỗng vang lên âm thanh như gió rít
trong rừng sâu,
Bộ xiêm y từng phủ bụi nay bỗng lấp lánh ánh trăng.
Cậu từng trẻ trung, anh tuấn, từng trầm mặc mà tốt bụng, sau bao năm
cách xa nay bỗng trong sáng như thuở mười bảy.
Tớ đã từng cô đơn, nay sẽ không còn cô đơn.
Thế giới này là khu vui chơi hạnh phúc của cậu, ngoài cậu chẳng ai có thể
bắt nó ngừng hoạt động.
Bầu trời trong xanh, hàng lau lưu luyến, cậu lại xuất hiện ở ngã rẽ, gương
mặt tuấn tú, mái tóc đen, tà áo trắng.
Tựa như mùa hè năm nào lỡ đánh rơi Hạ chí.
Mùa hạ trong ký ức như thế nào nhỉ? Là mùa hạ thoang thoảng hơi nóng, là ráng chiều tà mờ ảo, là ánh hoàng hôn màu vàng kim buông lơi trên làn mi của Phó Tiểu Tư, và cả nụ cười của Lục Chi Ngang nữa.
Vào những ngày hè đó, nụ cười ấy tựa như tiếng ca vang dội ngập tràn sinh lực, dù ban mai hay hoàng hôn, nụ cười ấy luôn đong đầy cảm giác ấm áp. Mùa đông này, nụ cười của Lục Chi Ngang vẫn mang hơi thở dịu dàng, nhưng không bao giờ còn cảnh cậu ấy ngoác miệng cười tới mức từ rất xa cũng có thể nghe thấy được nữa. Lục Chi Ngang của hiện tại chỉ mỉm cười một cách lặng lẽ, vành mắt cong cong, mỗi lần cậu ấy cười, mùa xuân cũng như muốn tỉnh giấc.
Lục Chi Ngang của hiện tại đã không còn là Lục Chi Ngang của một năm trước, cậu ấy dường như đã thay đổi thành một chàng trai chín chắn. Cậu ấy mặc chiếc áo đồng phục cỡ rộng màu đen với mái tóc cắt ngắn gọn gàng, hàng mày đen rậm. Thỉnh thoảng khi mặc âu phục diễn thuyết trong các buổi lễ của trường, cậu ấy trông càng giống một cán bộ trẻ tuổi tài giỏi, từ “chàng trai” đã không còn thích hợp để miêu tả cậu ấy nữa rồi.
Chẳng mấy thanh niên gần tuổi mười tám được gắn với những từ như “bình tĩnh”, “chín chắn”, “dịu dàng”, “bao dung”, ấy vậy mà những từ này lại có thể dùng để khắc họa Lục Chi Ngang. Nếu cậu ấy có em gái, ắt hẳn cô bé ấy sẽ là người hạnh phúc nhất thế gian.
Còn Phó Tiểu Tư, phải dùng từ gì để miêu tả cậu nhỉ? Một con mèo? Mùa đông? Hay đám tuyết đọng trên nhành cây tùng bách? Phương trình hàm số không lời giải? Phản ứng hóa học không thể đảo ngược, tăng nhiệt, hay xúc tác? Nói tóm lại, Phó Tiểu Tư là một kẻ quái gở.
Khi Lục Chi Ngang đang thay đổi từng ngày thì dường như Phó Tiểu Tư vẫn giữ một vẻ thản nhiên xuyên suốt bốn mùa. Dù khi trò chuyện, trầm tư, thẫn thờ hay giận dữ, gương mặt cậu vẫn giữ nguyên vẻ thờ ơ như thế, chỉ có đôi khi đầu mày thoáng cau lại, tựa như làn nước hồ yên ả trong ngày xuân bỗng gợn sóng vì một cơn gió thoảng. Thế nhưng nếu bạn quan sát cẩn thận thì vẫn có thể nhận ra sự thay đổi của cậu ấy. Nếu Lục Chi Ngang thay đổi nghiêng trời lệch đất, tựa như thế giới từ thời kỳ hỗn mang tới ổn định rồi lại về hỗn mang, thì sự thay đổi của Phó Tiểu Tư lại như lớp vở Trái đất thay đổi trong hàng nghìn hàng vạn năm mà không ai có thể nhận ra, đến khi bạn ngoảnh đầu lại đã thấy cơn sóng triều hung hãn khôn xiết bao trùm cả vùng cỏ xanh, cây cối lúc xanh lúc tàn báo hiệu sự chuyển giao của bốn mùa.
Cả Ngộ Kiến nữa, không biết cô ấy có khỏe không?
Đôi khi Lập Hạ cảm thấy sự ra đi của Ngộ Kiến như trò đùa của ông trời. Cô từng nghĩ mình đã tìm được nửa tâm hồn còn lại, nhưng ông trời lại cắt da xẻ thịt cô để cướp đi. Nhiều đêm cô mơ thấy gương mặt quật cường của Ngộ Kiến, nói rằng: “Mình không cô đơn, mình chỉ có một mình mà thôi, thế giới của mình chỉ có mình mình cũng ổn, cũng rộn rã lắm rồi.”
Đó chính là những lời của Ngộ Kiến khiến cô đau lòng nhất.
Còn cô thì sao? Sau khi đã trải qua bao ngày hè ở Thiển Xuyên, cô đã thế nào? Thời gian cứ trôi qua một cách lặng lẽ mà cô lại thờ ơ chẳng mảy may động tĩnh, đó phải chăng là điều bi ai nhất?
Lập Hạ vừa nghĩ vừa cầm phích nước nóng vừa được rót đầy từ phòng nước quay về. Hai bên đường là tán rã hương cao lớn sum suê, điểm thêm vài nhánh bạch dương và ngô đồng Pháp còn lác đác.
Gió thổi bay từng khoảng lá vàng, thoáng chốc đã hòa mình vào bóng đêm dày đặc. Bây giờ đã là 10 giờ tối, sau khi Lập Hạ đổ đầy bình, phòng nước cũng đến giờ đóng cửa. Bởi vậy trên con đường tới ký túc xá chỉ còn mỗi mình cô.
Thả từng bước thật chậm trên sườn dốc.
Màn đêm nặng nề bao phủ từng tán cây ngọn đèn, tựa như chiếc chăn nhuộm đen đột nhiên trùm xuống. Lập Hạ bước thật chậm, lòng đầy nỗi xót xa.
Dường như chỉ ở độ tuổi này con người ta mới đa sầu đa cảm như thế.
Bài kiểm tra trước kỳ nghỉ đông vẫn đáng sợ như xưa, kiến thức cơ bản môn Số học của Lập Hạ khá tốt nên thành tích của cô cao hơn nhiều so với bạn cùng ban Xã hội.
Ấy vậy mà Lập Hạ vẫn kém điểm Phó Tiểu Tư, mỗi khi nhìn thấy bảng điểm của cậu, Lập Hạ luôn thở dài rồi nói: “Cậu đúng là huyền thoại.”
Thật ra dù ở bất kỳ phương diện nào, chỉ cần liên tưởng tới cậu, “huyền thoại” luôn là từ đầu tiên xuất hiện trong đầu cô. Ngoài ra còn một huyền thoại nữa là Lục Chi Ngang, sau khi Phó Tiểu Tư chọn ban Xã hội, Lục Chi Ngang nghiễm nhiên trở thành học sinh có thành tích tốt nhất toàn ban Tự nhiên.
Ai bảo ông trời công bằng? Công bằng con khỉ?! Cứ thấy hai kẻ đó Lập Hạ chỉ muốn xông ra bóp cổ.
Tiết học cuối cùng trước kỳ nghỉ.
Thời gian chậm rãi chuyển động theo trục tọa độ, ánh nắng phân tán tạo nên quỹ tích, bức tranh chợt lóe trong đầu vẫn là những cánh phượng đỏ úa tàn trải thành tấm thảm đỏ rực dưới cơn mưa tầm tã. Mà thực tế trước mắt cô lại là mùa đông khô cóng tới mức như không còn hơi nước, đôi khi sờ lên da mặt còn thấy như một bức tường vôi đã lâu không được sơn sửa, chỉ cần xoa nhẹ sẽ rơi xuống một đống bụi trắng.
Đáng lý học sinh phải được nghỉ từ lâu rồi nhưng nhà trường lại bắt toàn khối 12 phải ở lại học bổ túc thêm nửa tháng nữa. Mặc cho Ủy ban Giáo dục ra lệnh đình chỉ học thêm hết lần này tới lần khác, nhưng chỉ cần nhà trường yêu cầu, phụ huynh học sinh không những không tố cáo mà còn liệt nhiệt hưởng ứng, đã vậy còn liên tục lén lút thảo luận.
“Ngôi trường này quả không hổ danh là trường học hàng đầu.”
“Chứ sao, bà xem học sinh trường khác, sớm thế đã được nghỉ chúng nó chỉ mải chơi chứ làm gì đâu.”
“Nghe đâu con gái ông Trương phòng Văn thư đã nghỉ được một tuần rồi cơ, ngày nào cũng lông bông với một đám vô công rồi nghề kia kìa.”
“Phải đó, thật đen đủi…”
Kẻ đen đủi thật sự phải là học sinh trường này mới đúng.
Lập Hạ nằm nhoài lên bàn, nhìn chăm chú ra bầu trời ngoài khung cửa, ánh chiều tà dần buông, chậm rãi khuếch tán trên bầu trời tựa như lòng đỏ trứng gà được đánh tan, cả bầu trời như bùng cháy.
Đã có vài lớp được tan sớm, cô thấy Lục Chi Ngang đang cúi đầu đi về phía ban Xã hội với chiếc ba lô khoác trên vai. Cậu ấy đi qua sân vận động, bước ngược hướng xuyên qua đám học sinh vừa ùa ra từ giảng đường ban Xã hội, tiến thẳng về phía lớp Lập Hạ. Những cô cậu học trò vội vã chạy như bay hóa thành những tia sáng kéo dài mờ ảo, chỉ riêng Lục Chi Ngang lại rõ nét tới từng chân tơ kẽ tóc, ánh sáng thong thả chuyển động trên người cậu ấy, tìm mọi khe hở rồi thẩm thấu vào trong, tựa như được cơ thể trẻ trung ấy hấp thu toàn bộ.
Nhân vậy huyền thoại có thể hấp thu cả năng lượng mặt trời.
Thảo nào thành tích xuất sắc là thế.
Thảo nào vóc dáng cao to đến vậy.
---
Những suy nghĩ mắc cười ấy thấp thoáng trong mỗi góc tâm trí cô. Lập Hạ ngoảnh đầu nhìn Phó Tiểu Tư, góc mặt nghiêng vẫn giữ nguyên vẻ thờ ơ, đôi mắt nhìn chăm chú lên bảng, hàng mày khẽ chau, cậu cắn nhẹ lên chiếc bút trong tay. Cô mở tờ giấy trong tay ra một lần nữa, vừa vào tiết không lâu cậu đã dúi cho cô tờ giấy này, bên trên là nét chữ rõ ràng của cậu: Sau khi tan học đợi tớ một lát.
Sau khi tan học đợi tớ một lát.
Thật là một câu đơn giản chẳng hề có nghĩa bóng.
Khi Lập Hạ nhìn về phía sân vận động thì bóng Lục Chi Ngang đã mất hút. Từng tốp học sinh tan trường ùa về phía sân vận động như ong vỡ tổ, không hiểu sao cô bỗng liên tưởng tới đường ống thoát nước, thật kỳ lạ.
Dường như thầy giáo Lịch sử biết đây là tiết học cuối cùng trước kỳ nghỉ đông nên ra sức kéo dài buổi học, mười bảy phút sau khi tiếng chuông báo tan học vang lên thấy mới nói câu: “Buổi học hôm nay tạm dừng tại đây.”
Lập Hạ không nhịn được mà lầm bầm: “Tốt cuộc thầy còn muốn giảng đến đâu thế?”
Khi cô dọn xong sách vở thì trong lớp đã chẳng còn mấy người, Lập Hạ ngoảnh đầu lại vẫn thấy Phó Tiểu Tư đang cất sách với vẻ thờ ơ vạn năm không đổi.
Cậu ấy làm gì cũng thật rề rà, đôi lúc Lập Hạ nghĩ khi thế giới đang chuyển động chóng mặt thì Phó Tiểu Tư vẫn đang sống trong một thế giới khác.
Hoang mang, căng thẳng, sốt ruột, nôn nóng - những từ này chưa từng xuất hiện trong kịch bản cuộc đời cậu, dường như Phó Tiểu Tư vẫn có thể bình thản thu dọn sách vở ngay cả khi thế giới đang tới hồi tận thế. Đến khi cậu cất quyển sách Tiếng Anh bìa đỏ vào ba lô, Lục Chi Ngang vẫn đang ngồi ngoài hành lang đeo tai nghe bỗng khoác ba lô đủng đỉnh bước vào phòng học, tới bục giảng liền nhảy phốc một cái rồi đặt mông lên bàn giáo viên.
“Đã ba năm rồi sao cậu vẫn chạm chạp thế hả, đã vậy còn đòi thích Sonic1 sao.”
1: Nhân vật chính trong dòng game Sonic the Hedgehog phát triển bởi công ty Sega.
Lập Hạ bỗng thấy buồn cười, không phải là vì lời nói của Lục Chi Ngang mà vì không thể tin nổi một người như Phó Tiểu Tư mà lại thích Sonic. Một người lạnh lùng như cậu ấy chẳng phải nên thích nhạc rock, thích Van Gogh hay Monet mới là điều bình thường sao?
Việc Phó Tiểu Tư thích Sonic gây sốc chẳng khác nào việc Björk thích hát karaoke bài “Vợ chồng cùng về nhà vậy”1 vậy.
1: Một khúc kịch hoàng mai (một loại hí khúc của tỉnh An Huy có nguồn gốc từ Hoàng Mai tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc).
Thế nhưng Tiểu Tư lại chẳng thèm để ý đến Lục Chi Ngang, vẫn tiếp tục thu dọn như thể có tận thế cũng chẳng quan tâm.
“Cuộc chiến Nha phiến1.” Lục Chi Ngang vừa chuyển chủ đề vừa nhìn lên những vết phấn còn lại trên bảng, chỉ trỏ hỏi: “Là năm 1940 đúng không?”
1: Hai cuộc chiến Anh - Trung xảy ra giữa thế kỷ 19 gây nên cuộc xung đột kéo dài giữa Đế quốc Anh và nhà Mãn Thanh liên quan đến quyền tự do buôn bán thuốc phiện.
Lập Hạ tròn mắt: “Lạy cậu, là năm 1840 ạ.”
Phó Tiểu Tư vẫn cúi đầu dọn sách vở, tiếp lời: “Kệ đi, cậu ta thi Lịch sử được có 17 điểm thôi.”
Ngay lập tức Lập Hạ nghe thấy tiếng Lục Chi Ngang ngã ngửa xuống đất trên bục giảng.
Sau đó ba người vừa đi khỏi phòng học vừa tranh luận, Lục Chi Ngang đan chéo hai tay ra sau ót, ba lô móc trên ngón tay đung đưa ở đằng sau.
“Hai cậu nhạt nhẽo vừa thôi, có giỏi thì giờ viết công thức hóa học hoàn chỉnh của glucose cho tớ xem đi!”
Khi sắp ra khỏi tòa nhà giảng đường, Lập Hạ mới chợt nhớ cô còn chưa hỏi Phó Tiểu Tư bảo cô ở lại làm gì, cô bèn đứng lại hỏi, bấy giờ Phó Tiểu Tư mới vỗ đầu như bừng tỉnh, bật thốt suýt thì quên việc quan trọng.
Lập Hạ dở khóc dở cười, dáng vẻ này chẳng phải nên thuộc về Lục Chi Ngang hay sao, một người vốn theo phong cách lạnh lùng như Phó Tiểu Tư nay bỗng có dáng vẻ như Lục Chi Ngang thật khiến người ta cảm thấy buồn cười.
Phó Tiểu Tư nói: “Chính là chuyện đi Thượng Hải đã nói với cậu hôm Noel ấy, tớ đã đặt xong vé cho các cậu rồi, ngày kia nhé.”
Lần này lại đến lượt h không thốt nên lời. Đối với cô, sự tồn tại của máy bay chẳng khác nào tên lửa. Lập Hạ lớn tới nhường này rồi mà vẫn chưa đi xa bao giờ, khoảng cách xa nhất cô từng đi chính là từ quê nhà lên Thiển Xuyên.
“Không sao đâu, mình đi có ba hôm thôi mà, chẳng mấy chốc là về rồi.”
Lục Chi Ngang tiếp lời.
“… Vậy cũng được.” Đến vé cũng đặt xong rồi thì bảo “không” sao cũng được, đúng không.
Khóe môi Phó Tiểu Tư khẽ nhếch thành một nụ cười mỉm rất đẹp và dịu dàng, “Ngày kia tớ sẽ tới đón cậu, cậu chỉ cần mang một hai bộ quần áo thôi.”
Nào ngờ định nghĩa “Ngày kia tớ tới đón cậu” của Phó Tiểu Tư lại là đánh một con xe hơi bóng lộn màu xanh nước biển mang logo BMW tới ký túc xá đợi Lập Hạ. Phó Tiểu Tư và Lục Chi Ngang tựa lên xe thoải mái trò chuyện, còn Lập Hạ ngay từ khoảnh khắc nhìn thấy họ qua ban công đã thấy không thoải mái, suốt từ lúc trên tầng xuống luôn có người nhòm ngó, chụm đầu thì thầm. Lập Hạ nghĩ bụng, lôi xe đến đây làm gì chứ, bày vẽ quá đi!
Sân bay Bình Dã ở Thiển Xuyên mới được xây xong nửa năm trước, trước kia phải bắt xe tới thành phố lân cận mới có sân bay.
Thế nhưng đó cũng chỉ là điều mà cô được nghe kể, đừng nói đến việc ngồi máy bay, ngay cả cơ hội được đi các chuyến ô tô đường dài của cô cũng rất ít. Lập Hạ thường đọc những cuốn tạp chí địa lý trong thư viện một cách cực kỳ chăm chú, nào là chim ở Thanh Đảo, tuyết ở Tây Tạng, những bãi sậy trải dài miên man ở Ninh Hạ nữa… Mỗi khi thấy hình ảnh bãi sậy, cô lại nghĩ tới cảnh Tử Hà tiên tử lướt thuyền xuất hiện trong bãi sậy mướt như lông vũ trong “Đại thoại Tây Du”1, khuấy động mặt nước đã ngủ yên suốt ngàn năm, tiến về phía hạnh phúc và cũng là tai họa. Kể từ đó mỗi lần thấy sậy, Lập Hạ luôn có cảm giác muốn khóc kỳ lạ.
1: Một bộ phim nổi tiếng của Hồng Kông.
Mà nay cuối cùng cô cũng được tới một nơi xa xôi như Thượng Hải, Lập Hạ có cảm giác không dám tin. Đó là một thế giới mà cô không thể bước vào, đó là nơi ngập tràn ánh đèn nê-ông và những tà váy tung bay. Cô muốn tới tham quan những con phố cổ, nơi những tia nắng ban trưa xóa tan sự u ám, nơi có những bức tường cổ lấm tấm rêu phong ẩm ướt, nơi những chiếc xe ba bánh bóp còi inh ỏi chạy qua, nơi khi hoàng hôn buông sẽ có những chú chim bồ câu vút khỏi mái nhà bay lên trời cao. Hương vị cuộc sống đời thường đầy ngọt ngào này từng xuất hiện trong giấc mơ của cô, tựa như những viên kẹo ấm nóng vừa ra lò.
Đại sảnh của sân bay Bình Dã vừa rộng rãi vừa sáng sủa, dù hành khách không nhiều, không có vẻ đông đúc, thì nơi đây cũng không khiến người khác cảm thấy quạnh quẽ. Phía ngoài khung cửa sát đất là những chiếc máy bay chốc chốc lại cất cánh bay cao. Lập Hạ chợt nhớ một tác giả trước kia cô thích hay kể mình thường xuyên ngắm nhìn máy bay cất cánh và hạ cánh qua hàng rào thép.
Tác giả đó nói, vào khoảnh khắc ấy thế gian bỗng trở nên trống rỗng.
Tai Lập Hạ như ù cả đi, có lẽ là do máy bay cất cánh. Trước kia cô chỉ nghe người khác tả ngồi máy bay sẽ thế nào, mà nay chính cô đang bị vây trên độ cao chín nghìn mét so với mực nước biển. Lập Hạ đưa tay bịt tai lại, sau đó mở miệng thật rộng rồi khép lại rồi lại mở, đó là mấy cách chữa ù tai mà cô xem trên ti-vi, Lập Hạ làm đủ mọi cách, tác dụng duy nhất đó là tiếng ù đã chuyển hẳn sang bên phải.
Bực mình!
Cô quay đầu nhìn bầu trời xanh ngoài khung cửa sổ, bảo là trời xanh nhưng thực chất lại mờ sương chẳng nhìn thấy gì, hẳn máy bay đang ở trên tầng mây rồi. Xung quanh đâu đâu cũng là một màu xám bạc nối tiếp như có như không. Nhìn nhiều cũng mỏi mắt, Lập Hạ nghiêng đầu chợt thấy gương mặt đang ngủ say của Phó Tiểu Tư. Một phút trước tiếp viên hàng không đã qua đắp cho cậu một chiếc chăn, mà chiếc chăn ấy theo từng lần xoay người của cậu đã trượt xuống. Lập Hạ không kìm được kéo chăn lên cao, rồi dém chăn ở hõm cổ cho cậu. Trước kia mẹ cũng hay làm vậy cho cô, thế nhưng giờ làm hành động này với một chàng trai đương tuổi mình Lập Hạ thấy có phần xấu hổ, đã vậy cô còn bất cẩn chạm phải làn da lộ ra ở cổ của cậu nữa. Lập Hạ hốt hoảng vội vàng rụt tay về, vừa đưa mắt lên đã thấy Lục Chi Ngang ngồi phía bên kia cười ranh mãnh, nhưng vì sợ tiếng cười khiến cậu bạn thức giấc nên đành cố nén, chỉ phát ra những tiếng khì khì như bị nghẹt mũi.
Lập Hạ bực mình lườm Lục Chi Ngang rồi ra dấu “Cậu đọc sách tiếp đi.” Cậu chàng cười nói bằng khẩu hình “Được, được, được”, sau đó tiếp tục đọc sách dưới ánh đèn màu cam chuyên dụng được gắn trên ghế.
Lúc này Lập Hạ mới nhận ra trên tay cậu là cuốn Biên niên ký chim vặn dây cót1 dày cộp. Từ trước tới nay cô chưa từng để ý, hóa ra Lục Chi Ngang lại thích thể loại sách văn học này, đáng nhẽ phải là loại truyện tranh đánh đấm bạo lực thiếu trí tuệ hoặc là những cuốn sách kiểu “Tổng hợp đề thi Hóa lớp 12 cực kỳ hữu ích” mới phải. Cô còn tưởng Lục Chi Ngang là kẻ mù văn học cơ, nào ngờ giờ lại đeo chiếc kính gọng vàng ngồi đọc Biên niên ký chim vặn dây cót trên máy bay.
1: Tiểu thuyết Nhật Bản của tác giả Huruki Murakami.
Ấy khoan, cậu ấy kiếm cái kính gọng vàng kia ở đâu thế? Chẳng phải trước kia toàn đeo kính gọng đen hay sao? Lập Hạ bèn hơi ngả người qua khẽ hỏi:
“Này, cậu đeo cái kính mới này từ bao giờ thế? Sao tớ chưa thấy bao giờ nhỉ?”
“Tháng trước đấy, đẹp không?”
“À đấy, toàn quên hỏi cậu, rốt cuộc cậu cận bao nhiêu độ thế?”
“Ừm… toàn 150 độ.”
“Thôi đi cha!”
“Ngốc ơi là ngốc, đeo vì đẹp chứ sao. Trông có giống thanh niên tri thức không?”
“…Lạy cậu, trông giống tên bác sĩ biến thái giải phẫu tử thi thì có.”
Khi Lập Hạ xoay người lại, gương mặt say ngủ an bình của Phó Tiểu Tư lại lọt vào mắt cô. Cô thích thú ngắm cậu thật kỹ, trước nay cô luôn cảm thấy cậu quá lạnh lùng, nghiêm túc, lại thêm một đôi mắt như phủ một màn sương trắng mờ không có tiêu điểm, bởi vậy cơ hội được quan sát cậu ở khoảng cách gần thế này cực ít. Hàng mày ngày càng đen rậm tựa như màn đêm u tối, phía dưới là hàng mi phủ bóng dưới mí mắt.
Sống mũi thẳng tắp, môi mỏng như dao, chiếc cằm với đường nét mềm mại vẽ một đường vắt qua cổ rồi nhẹ nhàng kết thúc sau vành tai. Lập Hạ đưa tay tới gần mặt Phó Tiểu Tư làm đủ động tác kỳ quặc để nhìn bóng tay thay đổi liên tục trên gương mặt cậu dưới ánh đèn đọc sách, nghịch được một lúc thấy chán bèn thiếp đi.
Chỉ mấy giây sau khi Lập Hạ nhắm mắt nằm xuống, Phó Tiểu Tư bỗng mở mắt, mỉm cười nhìn cô nàng đang say ngủ, rồi cậu ngoảnh đầu nhìn Lục Chi Ngang kéo chăn lên cao, ý hỏi “Lạnh không? Muốn đắp chăn không?”
Lục Chi Ngang cười lắc đầu, vỗ đầu Tiểu Tư ra chiều cậu ngủ tiếp đi, sau đó dém chăn lại ở hõm cổ cậu như Lập Hạ vừa làm.
Phó Tiểu Tư nhìn Lục Chi Ngang đeo kính dưới ánh đèn đọc sách dịu nhẹ. Muôn vàn suy nghĩ nghẹn nơi lồng ngực rồi như hòa tan vào từng bộ phận trong cơ thể, xâm nhập vào từng tế bào, từng sợ lông tơ và mạch máu, tựa như bạch huyết chảy khắp toàn thân, muốn tìm lối thoát lại không thể. Nhìn Lục Chi Ngang trở nên trầm lắng, chín chắn và dịu dàng hơn qua từng ngày, Tiểu Tư như cảm nhận được những luồng nhiệt chầm chậm chảy trôi, sền sệt như dung nham phun trào, cuốn theo những dấu vết mà thanh xuân khắc ghi lên thời gian. Không biết tự khi nào cậu đã quen với việc Lục Chi Ngang chín chắn hơn cậu, điềm tĩnh hơn cậu, thậm chí còn chăm sóc cho cậu nữa.
Nếu trước kia Lục Chi Ngang trong mắt cậu chỉ là một đứa trẻ ngỗ ngược, là bạn, là ký ức tuổi thơ, thì nay lại càng giống một người anh trai, một người bạn trưởng thành. Thành thật mà nói, cậu khó có thể chấp nhận được sự thực này. Cậu nhớ khi suy nghĩ ấy vừa xuất hiện, cậu còn bất giác sờ trán tự hỏi phải chăng mình sốt rồi, bởi vì nhận thức “Lục Chi Ngang đã trưởng thành và chín chắn” quả thật cực kỳ lạ lẫm.
Lần đầu tiên cậu nhận thức được điều ấy là vào mùa hè năm ngoái, khi cậu và Lập Hạ ngồi trên thành bể bơi trong tiết Thể dục trong khi Lục Chi Ngang đang lặng lẽ bơi từng vòng quanh bể. Đó là lần đầu tiên cậu cảm thấy có lẽ là Lục Chi Ngang sẽ trở thành một người ít nói, khi ấy cậu vẫn còn sửng sốt, bởi vết sẹo ngay trên vai chính là do cậu bạn hắt nước sôi vào.
Tiểu Tư bất giác sờ vùng vai nay đã chẳng còn vết sẹo nào nữa, cậu nhắm mắt lại, một màu xanh lam vắng lặng bỗng hiện ra trước mắt, phía trên là bầu trời xanh thăm thẳm biến ảo khôn lường, phía dưới là những tia sáng bạc chiếu rọi xuống biển sâu từ phương xa.
Vô số cá bơi nơi ấy.
Tuổi trẻ chớp mắt đã qua.
Những dấu vết đã từng khắc sâu cũng có thể biến mất, có lẽ nhiều chuyện chẳng thể mãi dài lâu, dù chúng ta nghĩ rằng điều đó có thể tồn tại mãi mãi, thế nhưng “mãi mãi” dường như chưa từng xuất hiện. Bởi lẽ đó nhiều khi tôi nghĩ, Chi Ngang, chúng ta có thể làm bạn thân cả đời không? Dù sau này kết hôn, sinh con, dù chúng ta ngày một già yếu, liệu vẫn có thể cùng xách ba lô lên và đi không?
Liệu cậu vẫn sẽ buồn thiu nếu lỡ làm mất chiếc ví da mà tớ tặng chứ?
--- Năm 1998, Phó Tiểu Tư
Lập Hạ xoay người thì thấy Phó Tiểu Tư đang ngây người mở to đôi mắt, đúng lúc đó cậu nghiêng đầu qua chạm phải ánh mắt cô.
“Sao thế, không ngủ được?”
Cậu lấy chiếc tai nghe bên trái ra đưa cho cô, “Nghe không?”
“Có.” Lập Hạ cầm lấy tai nghe nhét vào tai phải, vừa hay tai phải đang bị ù, “Nghe chứ!”
Thính giác sẽ trở nên nhạy bén khi nhắm mắt, vì thị giác đã bị ngăn lại rồi.
Không biết lời giải thích cho lý do thính giác của người mù tốt hơn bình thường này cô đọc từ bao giờ mà nhớ kỹ tới nay.
Giả thiết này quả thật cũng có lý. Khi cô nhắm mắt nằm nghiêng trên ghế, dù chỉ có một bên tai nghe nhưng vẫn nghe rất rõ, đó là một giọng nữ đang nhẹ nhàng hát những giai điệu chậm rãi mà vững vàng, trong đó có một câu Lập Hạ nghe cực kỳ rõ ràng:
“Anh cầm đèn soi sáng ngàn vạn con đường, em chọn một đường duy nhất xông về phía hạnh phúc cùng anh chẳng hề chùn bước.”
Hạnh phúc? Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc có từ những điều nhỏ bé.
Những lời thề non hẹn biển hay những lời yêu kinh tâm động phách thực chất chỉ là sáo rỗng. Dường như ngay những chi tiết nhỏ ta thấy trước mắt đều có thể xuất hiện sự sống. Một bữa tối ấm cúng bỗng có hình hài, đôi tất lông cừu ấm áp trong trời đông bỗng trở nên có cốt cách, con búp bê bản thân mất bao công sức mới làm được trong ngày sinh nhật bỗng chớp nháy đôi mắt, những tin nhắn lúc hừng đông bỗng mọc lên đôi cánh.
Hoặc có thể còn nhỏ bé hơn. Như khi vào sân bay Tiểu Tư khoác hành lý của Lập Hạ đi tới đi lui giúp cô làm thủ tục, Lập Hạ vươn tay toan lấy lại ba lô thì bị cậu lườm cho một cái rồi ném thêm câu “Cậu bị điên hả, làm gì có thằng con trai nào để con gái tự khoác hành lý chứ”; hoặc là khi Tiểu Tư cúi đầu khẽ nhắc nhở bên tai cô những điều cần nhớ khi lên máy bay, hoặc khi khom người cài dây an toàn cho cô, hoặc như hiện tại dù đang nhắm mắt nhưng cô vẫn biết cậu đang kéo tấm chắn sáng và tắt đèn đọc sách trên đỉnh đầu cho cô. Tất cả mọi thứ đều như bộ thủ và những ký tự bổ sung đã bị phân tách, mà khi mọi thứ quay trở lại vị trí vốn có, ai cũng có thể nhìn thấy hai chữ “Hạnh phúc” được viết rất lớn.
Hoặc chăng hạnh phúc là như hiện tại, cùng nghe một ca khúc, cùng bay qua một bầu trời trắng xám.
Nghĩ tới những điều ấm áp đó, nội tâm cô bỗng tích tụ càng nhiều nước mưa.
Dòng điện và sóng điện từ đi qua nam châm laser của máy CD, truyền qua thân máy màu trắng bạc, đi qua dây tai nghe vừa mảnh vừa dài, đồng thời truyền một luồng âm thanh vào hai cơ thể hoàn toàn tách biệt, khuấy động những cơn sóng lạ. Những cơn sóng lạ ấy bay bổng trong hai thế giới có chung một giai điệu, làn gió mùa ập tới khuếch tán những âm điệu thật rõ ràng đi khắp nơi.
Thế giới nội tâm bắt đầu từ từ sạt lở, tựa như gốc cây nơi sườn núi thấm đẫm nước mưa tháng Tám bỗng nhiên bật rễ.
Bùn đất sụt lún dần hé lộ bí mật bị chôn vùi, mà lồng ngực cũng thấm đẫm nước mưa đang chậm rãi dập dềnh theo hơi thở, tựa như miếng bọt biển hút đẫm nước, chỉ cần nhấn một chút là nước trào ra lênh láng.
Ngón tay đặt trên tay vịn chạm vào áo len của Phó Tiểu Tư, chiếc áo len lông cừu ấy tinh xảo ấm áp, tạo nên một cảm giác dày nặng trên làn da. Chiếc cổ của cô bắt đầu không đỡ nổi đầu, nghiêng lệch sang một bên.
Gò má bỗng cảm nhận được bờ vai gọn gàng của nam sinh và cả mùi hương thiếu niên đột ngột xộc vào mũi, chẳng khác nào nhành cỏ xanh bị thiêu đốt bởi ánh nắng gay gắt sau trưa hè, hoặc có lẽ là hương đất xộc lên sau trận mưa rào.
Sau đó Lập Hạ mất dần ý thức, những suy nghĩ ấm áp ấy cũng trở nên mơ hồ tựa như lớp kính ngăn cách màn mưa, mà phía ngoài lớp kín ấy là gương mặt thoắt ẩn thoắt hiện của Phó Tiểu Tư hoặc cũng có thể là Lục Chi Ngang. Nước mưa dâng ngày càng cao nơi đất trũng, mùa hè mưa xối xả, mưa rơi như trút nước khiến bầu trời tối sầm, bọt nước bắn tung tóe trên nền đất. Có những chiếc lá bị trận mưa cuốn trôi theo dòng nước, có cô thiếu nữ túm váy chạy vội tới mái hiên trú mưa, có chàng thanh niên thích tỏ vẻ lạnh lùng chơi bóng rổ một mình dưới mưa, chiếc áo thun trắng đẫm nước dính chặt lên xương cánh bướm, mái tóc ướt nhẹp dính sau ót. Trong cơn mưa, phòng vẽ chỉ còn lờ mờ tia sáng, tượng thạch cao và đủ loại mô hình hoa quả lặng lẽ nằm rải rác. Trong tiếng mưa ào ào như lấn át mọi thứ lại có tiếng chì lướt trên trang giấy, khẽ khàng như truyền thuyết đã biến mất từ xa xưa, thế nhưng âm thanh đó vẫn có thể dễ dàng nghe thấy. Trong tiếng loạt xoạt vang lên không ngừng xuất hiện bức tranh đen trắng năm 1995 khắc ghi trong tâm trí cô, đó là hình ảnh Phó Tiểu Tư lạnh lùng quay xuống đưa chiếc gọt bút chì, là hình ảnh nụ cười trẻ con của Lục Chi Ngang chỉ cần quay người lại là có thể nhìn thấy. Phó Tiểu Tư vẫn là Phó Tiểu Tư của năm 1995, Lục Chi Ngang vẫn là Lục Chi Ngang của năm 1995, còn cô lại là Lập Hạ của năm 1998. Thời gian trong giấc mơ bỗng chia đôi đường, cô đứng bên này đường nhìn hai chàng trai thuần khiết của năm đó, và một con mèo mun nằm trên bệ cửa sổ. Đột nhiên bầu không khí thay đổi, sự thay đổi vô hình đó từ từ lan tỏa, con mèo mun trên bệ cửa sổ biến mất, thay vào đó là gương mặt thờ ơ của Ngộ Kiến. Cô ấy ngồi trên đó áp mặt vào khung cửa kính, ánh mắt không biết đang nhìn thứ gì ngoài màn mưa. Hình ảnh bỗng dừng lại tại khoảnh khắc Ngộ Kiến xuất hiện, trong mơ cô thấy họng mình như nghẹn lại, tựa như đang bị ai đó bóp chặt, cô ôm miệng òa khóc mà chẳng hiểu lý do.
Mà ngoài khung cửa sổ kia cơn mưa tầm tã đã nuốt trọn cả thành phố.
Mùa đông ở Bắc Kinh không chỉ vô cùng lạnh mà còn rất khô.
Da mặt cô chỉ cần sờ một chút đã bong ra từng mảng da chết màu trắng, chẳng khác nào bức tường vôi bị thiêu đốt quá lâu dưới ánh mặt trời. Những ai bảo “Bắc Kinh thực ra không lạnh mà rất ấm áp” đúng là kẻ nói dối. Mỗi lần lạnh tới mức không thốt nên lời, Ngộ Kiến đều nghĩ vậy. Những kẻ chẳng bao giờ phải ra ngoài, hoặc phải đi thì đã có xe hơi đợi sẵn ngoài cổng rồi lại vào phòng ngay thì làm sao cảm nhận được cái rét căm căm đó chứ. Họ là những kẻ vĩnh viễn sống trong bầu không khí có máy sưởi và điều hòa, chẳng khác nào loại hoa cỏ đột biến.
“Thà đột biến còn hơn lạnh chết.” Ngộ Kiến hậm hực nghĩ.
Ngày nào cũng vậy, khi trời còn chưa sáng, thậm chí khi nhà đài còn chưa phát nhạc, Ngộ Kiến đã phải thức dậy đi đưa báo.
Khu này có hai mươi tám tòa nhà, mỗi tòa lại có bốn tầng lầu, tổng cộng có bao nhiêu nhà đặt báo cô cũng không biết nữa, chỉ biết cô phải phát cho một trăm hai mươi nhà. Mỗi ngày Ngộ Kiến phải nhét một trăm hai mươi tờ báo vào một trăm hai mươi hòm thư khác nhau, chỉ cần muộn một chút thôi cũng sẽ bị mắng.
Họ mắng rất cay nghiệt, không phải vì họ giàu có cao sang mà ngược lại, họ cũng chỉ là hộ nghèo. Họ gắng gượng sống qua ngày bằng những đồng lương còm cõi, nhưng vẫn muốn quan tâm chuyện quốc gia đại sự, lông gà vỏ tỏi, để còn tỏ vẻ ta đây hiểu nhiều biết rộng trong những lần trà dư tửu hậu sau bữa cơm. Thế nên họ càng tích cực sử dụng cái quyền lợi ít ỏi của người tiêu dùng khi bản thân đã phải bỏ tiền mua báo.
Muộn mười phút thôi cũng bị mắng, có mấy gã đàn ông hầu như ngày nào cũng nôn nóng đứng đợi trước cửa nhẩm tính thời gian Ngộ Kiến đến muộn. Bọn họ mặc đồ ngủ chỉ để lộ một con mắt phía sau cánh cửa sắt, chỉ đợi nghe thấy tiếng xe đạp của cô sẽ lập tức buông lời trách mắng tục tĩu, hành xử chanh chua ra vẻ dân thành thị, chẳng khác nào mớ quần áo bông dày cộp đã lên mốc họ mặc trên người.
Đa phần Ngộ Kiến sẽ nhỏ giọng xin lỗi rồi nhét báo vào trong hòm thư hoặc qua khung cửa sắt, sau khi đạp xa được mấy mét sẽ mắng to một câu “Chết đi!”
Gió ở Bắc Kinh có thể xuyên qua hết thảy, dù bạn mặc quần áo kỹ càng cỡ nào, dù găng tay bạn đeo có dày đến đâu, thì những cơn gió đó vẫn có thể len lỏi qua từng kẽ hở giữa những sợi vải, tựa như hạt giống bụi gai bén rễ ở nơi sâu nhất trong cốt tủy. Sáng nào Ngộ Kiến cũng thấy bản thân chẳng khác nào cái xác bị đông lạnh đang hoạt động, khớp xương cứng đơ, huyết dịch như sắp đóng băng.
Ngày đầu tiên nhận công việc này, sau khi đưa xong tờ báo cuối cùng, Ngộ Kiến tựa vào bức tường xi măng trong khu mà nước mắt giàn giụa. Những giọt nước mắt nóng hổi là thứ duy nhất có độ ấm trên cơ thể cô, họng bỗng phát ra những tiếng thổn thức trước nay chưa từng có.
Thế nhưng nước mắt lăn trên gò má thoáng chốc đã hóa thành băng ướt lạnh khuôn mặt. Những giọt nước dần đông cứng từ ngoài vào trong, kết băng rồi đâm sâu mọc rễ vào da.
Đó là những ngọn rễ của khổ đau.
Nhưng kể từ đó Ngộ Kiến không còn rơi nước mắt nữa, ít nhất cũng không còn khóc vì công việc này, cùng lắm chỉ khẽ mắng thầm khi nghe thấy ai đó nói “Thực ra Bắc Kinh không lạnh” thôi.
Quả vậy, kể từ lần đó Ngộ Kiến không còn khóc nữa.
Để có thể kiếm thêm hai trăm hai mươi tệ, để mỗi tháng có thể tiết kiệm được thêm hai trăm hai mươi tệ, để có thể tiến gần hạnh phúc thêm một bước, dùng cơ thể trẻ trung này chống chọi với cái lạnh cũng là một việc đáng giá.
Nó đáng giá hai trăm hai mươi tệ.
Sau khi đưa báo xong, Ngộ Kiến vội vàng chạy tới cửa hàng tiện lợi 24 giờ cách nơi cô ở không gần cũng chẳng xa.
Cô vẫn mặc thật dày đạp xe đi làm, trừ đôi mắt ra thì tất cả những chỗ khác đều được bọc kín. Nào ngờ cái rét buốt dường như có thể đục một lỗ trên võng mạc rồi xâm nhập vào cơ thể cô, tựa như chất thủy ngân không gì có thể cản trở.
Vì cửa hàng tiện lợi này khá nhỏ nên chỉ có hai nhân viên, Ngộ Kiến và một nam sinh tên Đoạn Kiều.
Lần đầu tiên nghe thấy cái tên này, Ngộ Kiến phì cười. Nếu đọc đúng là Đoạn Kiều, nghe kiểu gì cũng thấy mắc cười. Sau khi cậu nam sinh đó lịch sự chào hỏi: “Xin chào, tớ là Đoạn Kiều, mong được giúp đỡ!”, Ngộ Kiến thờ ơ cong môi, đáp lại một câu không biết là chế giễu hay thân thiện: “Tên cậu buồn cười thật đấy!”
Mặt Đoạn Kiều lúc ấy y như nuốt cả một quả trứng trà1 vậy.
1: Trứng luộc nước trà.
Ngộ Kiến làm việc từ 7 rưỡi sáng tới 7 rưỡi tối, cậu nam sinh kia sẽ làm từ 4 rưỡi chiều tới 4 rưỡi sáng, ba tiếng từ 4 rưỡi sáng tới 7 rưỡi sáng, cửa hàng đóng cửa, bởi vậy cửa hàng tiện lợi 24 giờ này thực chất chỉ tiện lợi 21 giờ thôi. Ngộ Kiến và Đoạn Kiều một ngày sẽ cùng làm ba tiếng.
Vì khu vực này không quá nhộn nhịp, cũng không phải nơi tập trung nhiều trường học hay khu văn phòng nên lượng khách rất ít, nhiều khi cả cửa hàng chỉ có mỗi mình Ngộ Kiến.
Cửa hàng lắp đèn sáng trắng, kệ bày hàng sắp xếp gọn gàng, thỉnh thoảng khi khách đẩy cửa vào, chuông gió sẽ kêu đinh đang, Ngộ Kiến sẽ ngẩng đầu nói “Xin chào quý khách.”
Ngộ Kiến mất nửa giờ sắp xếp hàng hóa trên giá, nửa giờ kết toán sổ sách, nửa giờ nhe răng cười chào “Hoan nghênh quý khách”, thời gian còn lại đều dành để viết nhạc.
Cô vẫn còn một công việc nữa là hát ở quán bar. Một ngày hai mươi tư giờ phải cáng đáng ba công việc: đưa báo, nhân viên bán hàng ở cửa hàng tiện lợi và ca sĩ quán bar. Những công việc hoàn toàn chẳng liên quan gì đến nhau.
Ba tiếng đồng hồ làm cùng Đoạn Kiều chính là ba tiếng bình thường nhất trong hai mươi tư tiếng, vì bình thường nên rất ấm áp. Cũng như chúng ta đã quen dùng những vật dụng phổ thông như khăn, bàn chải đánh răng, gối, chăn, giường, đèn bàn, sách vở, lịch, mọi thứ khi trở thành thói quen đều trở nên bình thường. Nhưng chính vì bình thường nên ngày càng tản mát những xúc cảm tuyệt vời và ấm áp, khảm sâu vào năm tháng cuộc đời, điểm tô những năm tháng xám xịt.
Một ngày có ba tiếng, mười ngày có ba mươi tiếng, một trăm ngày là ba trăm tiếng.
Cách tính đó đến học sinh tiểu học cũng biết, chẳng cần kiến thức đại học, không cần vi phân tích phân. Thời gian bị cắt thành từng mảnh nhỏ, tích tụ dần trong sinh mệnh. Trong khoảng thời gian ba tiếng mỗi ngày ấy đã xuất hiện những câu chuyện sau:
Quê tớ là một vùng đất tên Vĩnh Ninh ở tỉnh Phúc Kiến, chắc Ngộ Kiến không biết đúng không, nơi ấy nhỏ lắm. Nhưng tớ nói cho cậu biết nhé, biển quê tớ bốn mùa mùa nào cũng cực kỳ tráng lệ, xanh ngắt tới mức người nhìn không mở nổi mắt nữa.
Cậu biết viết nhạc á? Quái vật…
Mai kiểm tra đấy, lần này chết chắc rồi.
Hôm nay đang ăn cơm ở trường tớ nhìn thấy một cô gái rất giống cậu, nhưng vì phải chạy vội tới cửa hàng nên đành đi ngay mà không kịp nhìn kỹ hơn. Haiz.
Cậu nói xem vì sao thi chạy thỏ lại thua rùa? Theo lý mà nói thì hoàn toàn không thể nào…
…
Nhạt nhẽo và ấu trĩ.
Đó là cách Ngộ Kiến nghĩ về Đoạn Kiều.
Nhớ nhung và đau khổ.
Đó là cảm xúc về hồi ức với Thanh Điền.
Đôi khi nhìn Đoạn Kiều, Ngộ Kiến sẽ nhớ tới Thanh Điền, thực ra họ là hai mẫu người hoàn toàn khác nhau. Một người là tay chơi nhạc rock kiệm lời, một người là sinh viên ngoan hệ Kiến trúc mới vào năm nhất đã giành được học bổng, hai người họ chẳng khác nào khoai tây với vải thiều, vừa nhìn đã biết chẳng có họ hàng gì với nhau. Ấy vậy mà cô lại thường xuyên có ảo giác như thế, đôi khi nhìn Đoạn Kiều sẽ đột nhiên thốt nên một tiếng “Thanh” rồi im bặt, chính cô cũng phải hoảng sợ vì ý thức hỗn loạn của mình.
Nhưng tại sao lại vậy? Cô luôn cảm thấy mình và Đoạn Kiều như từng quen biết, một chuyện gì đó chắc chắn đã xảy ra trong năm tháng xưa cũ. Trong quá khứ phai màu, chắc chắn đã có ánh sáng đom đóm nhỏ nhoi trong đêm đen hằn sâu vào tâm trí cô.
Hoặc chăng bởi vì cả hai người đều từng cùng cô vượt qua quãng thời gian cô đơn.
Vào những lúc Ngộ Kiến cô đơn nhất, hai người họ là những người gần kề bên cô nhất.
7 giờ 20 phút trời đã tối mịt, Ngộ Kiến dọn đồ xong chỉ đợi 7 rưỡi sẽ về ngay vì cô còn phải về nhà trang điểm thay đồi tới quán bar. Bên ngoài trận tuyết lớn bay rợp trời như lông ngỗng, đây là trận tuyết thứ mấy cô thấy kể từ khi tới Bắc Kinh nhỉ? Tổng không quá năm lần nhưng cô lại không thể nhớ chính xác mà chẳng hiểu vì sao.
Vì thời tiết quá khắc nghiệt nên cửa hàng tiện lợi hầu như không có khách, do đó cả hai người đều ngây ngẩn không biết làm gì.
Đoạn Kiều nhoài lên quầy thu ngân, áp mặt lên bàn như một đứa bé, chiếc bút chì xoay tới xoay lui giữa những ngón tay thon dài. Hình ảnh ấy thật quen thuộc, Ngộ Kiến nhớ lại những buổi tối tự học ở trường phổ thông Thiến Xuyên số 1, phòng học rộng rãi sáng sủa với tám ngọn đèn trên trần rọi xuống những dải sáng màu trắng. Thầy giáo ngồi trên bục giảng đọc báo, trên bảng là đề cương ôn tập thầy viết buổi sáng hoặc tài liệu đã được chỉnh sửa, nét phấn trên bảng đã mờ, mọi người ai nấy đều ngoáy bút lia lịa, âm thanh ngòi bút ma sát trên trang giấy tựa như tiếng mưa rào ngoài khung cửa, lặng lẽ mà sâu sắc.
Thực ra khoảng thời gian Ngộ Kiến bỏ đi chưa được bao lâu ấy vậy mà mỗi lần hồi tưởng lại như đã qua lâu rồi, những năm tháng còn đi học ấy mỗi lần xuất hiện trong tâm trí đều đi cùng hai từ “đã từng”.
Cô đã từng là một học sinh lớp 12 xao nhãng việc học.
Cô đã từng là một học sinh cá biệt trong trường phổ thông Thiển Xuyên số 1 nổi tiếng toàn quốc.
Định ngữ có thể điền tiếp vào câu còn rất nhiều, mà nay những định ngữ ấy đã biến mất tự bao giờ. Ngộ Kiến của hiện tại là một dân nghèo thuộc tầng lớp dưới trung bình phải bôn ba vì cuộc sống có cả đống ở Bắc Kinh, bởi vậy nhiều khi cô phải cố gắng không nghĩ về chuyện đó. Tuy không nghĩ tới nhưng vẫn có một giấc mơ cô chưa từng quên…
Thanh Điền, rồi có một ngày anh sẽ nhìn thấy đĩa CD của em ở vị trí best seller trên giá.
Giấc mơ này vẫn nhẹ nhàng cuộn mình nơi sâu thẳm đáy lòng cô, nó không hề biến mất mà thậm chí còn ngày càng vững vàng bám chặt ở nơi ấy. Mà nơi ấy, là nơi nào?
Nơi tối tăm nhất trong tâm trí cô, cũng là nơi ấm áp nhất. Ở đó có một bộ rễ khổng lồ không thể nhổ đi. Những nhánh rễ ấy ngày một chắc khỏe, chúng bắt nguồn từ nơi ấy rồi lan tới tâm nhĩ, tâm thất, đến lá phổi, lồng ngực rồi bao phủ cả khoang ngực, bởi vậy mỗi lần hô hấp, mỗi nhịp tim đập đều mang tới những cơn đau mơ hồ.
“Này Ngộ Kiến.” Bỗng một tiếng gọi vang lên, Đoạn Kiều vẫn nằm nhoài lên bàn không chịu dậy, “Nơi cậu sống trước kia hay có tuyết không?”
“Có chứ, mỗi khi mùa đông đến, Thiển Xuyên lại ngập trong tuyết.”
“À thảo nào.” Đoạn Kiều kéo ghế tới bên cửa sổ sát đất, áp mặt vào khung cửa kính và nói: “Ở Vĩnh Ninh quê tớ mùa đông không có tuyết đâu, thế nên lúc mới tới Bắc Kinh thấy tuyết tớ thích lắm, thế nhưng bạn học lại cười tớ, chê tớ là một đứa nhà quê chẳng biết gì.”
Đoạn Kiều ngây người nhìn màn tuyết rơi, mặt kính phản chiếu gương mặt trẻ tuổi mà sắc bén nhưng lại mang theo chút thẫn thờ, như một cái xác mất hồn dạo bước trong màn tuyết kín đặc. Một người thường ngày rạng rỡ như ánh nắng nhưng khoảnh khắc này lại thật khiến người khác thương cảm.
Có lẽ điều khiến Đoạn Kiều buồn chính là giọng điệu mang tính xúc phạm kia. Ngộ Kiến đã quá quen với giọng điệu đó, bởi từ bé đến lớn không biết đã bao lần cô phải nghe những lời như thế.
Đồ nhà quê.
Con nhóc đáng thương chẳng ai cần.
Tao sẽ bảo bố tao đánh mày, bố tao là siêu anh hùng mạnh nhất thế giới!
Ngộ Kiến là con quỷ không có mẹ, mà chúng ta ai cũng có mẹ hết.
…
Và còn rất nhiều rất nhiều những lời như vậy rải rác khắp ngóc ngách của tuổi trẻ. Nó hấp thụ dưỡng chất của năm tháng, trở thành một gốc cây cao lớn sum suê phủ bóng râm mênh mang trên trang giấy trắng, nuốt chửng trái tim yếu đuối thời ấu thơ.
“Thế nhưng mà…” Giọng Đoạn Kiều chợt thay đổi, ánh sáng dìu dịu hắt lên gương mặt ánh trên tấm kính, sắc mặt cậu khẽ đổi, tựa như sắp tung cánh bay cao: “Tớ chưa từng nhụt chí! Rồi sẽ có một ngày những tòa nhà tớ thiết kế sẽ xuất hiện ở những nơi bắt mắt nhất Bắc Kinh. Tớ sẽ kiến tạo nên một kiến trúc mang tính biểu tượng của nơi đây, để mỗi một người đi ngang qua đều phải ngẩng đầu trầm trồ, họ sẽ nói ‘Nhìn đi, người thiết kế nên kiến trúc này chính là Đoạn Kiều, đó quả là một người phi thường!””
Bỗng có thứ gì đó nở rộ từ nơi u ám nhất trong trái tim Ngộ Kiến.
Thanh Điền, rồi sẽ có một ngày anh sẽ nhìn thấy đĩa CD của em ở vị trí bán chạy nhất trên kệ.
“Tới giờ rồi.” Ngộ Kiến lấy áo khoác trên tường xuống, khóe mắt bỗng nhức nhối. Là do ánh sáng quá gắt, nhưng cô biết nếu không đi ngay thì sẽ chẳng thể dùng lý do đó để giải thích cho những giọt nước mắt lăn dài trên má nữa.
“Tớ về đây, cố gắng lên nhé kiến trúc sư vĩ đại!”
“Ngày nào cũng phải đi dạy…” Đoạn Kiều ngoảnh đầu lại, cười híp mắt, “… đám trẻ con đó mà cậu không thấy mệt à?”
Ngộ Kiến thoáng sững người rồi mới chợt nhớ ra cô nói dối Đoạn Kiều ngày nào cũng đi dạy piano cho bọn trẻ con.
“Cậu giỏi thật đấy, còn trẻ thế đã có thể đi dạy được rồi.” Gương mặt thanh tú tựa làn nước trong cảm thán, “Tớ đây trời sinh đã không có khiếu nghệ thuật, chẳng biết chơi nhạc cụ gì hết.”
Cô đã nói dối Đoạn Kiều rằng mình là sinh viên năm ba, đi làm thêm ở cửa hàng tiện lợi và dạy piano.
“Không đâu, tớ nghe nói kiến trúc chính là dạng âm nhạc đã được hình tượng hóa, sẽ có một ngày khi cậu trở thành kiến trúc sư giỏi nhất thì cậu cũng sẽ trở thành nhà nghệ thuật tài ba nhất. Tớ đi trước đây, sắp muộn rồi.”
Tớ mà nói nữa thì nước mắt sẽ tuôn rơi mất.
Hồ nước trong nội tâm dâng ngày càng cao, đã đạt mức cảnh báo, đèn đỏ, tiếng còi liên thanh vang lên inh ỏi. CẢNH BÁO! CẢNH BÁO!
Ngộ Kiến đặt tay lên nắm cửa kéo mạnh ra, ngay trong khoảnh khắc xông vào bão tuyết gió rét, bỗng một giọng nói dịu dàng mà kiên định vọng tới từ phía sau: “Đợi đã!”
Cô vừa ngoảnh đầu lại bả vai đã được khoác thêm một chiếc áo ấm.
Đợi đã.
Thời gian không đợi em. Là anh đã quên đưa em đi.
Tại sao người nói câu “Đợi đã” ấy lại không phải là anh?
Tại sao người khoác áo ấm cho em trong ngày đông lạnh giá lại không phải là anh?
Tại sao người quả quyết em mặc như vậy quá mỏng manh trong đêm đông ngập tuyết này lại không phải là anh?
Tại sao hương bột giặt trên chiếc áo khoác của nam sinh bỗng xộc vào mũi em lại không thuộc là anh?
Rốt cuộc thời gian đã mang đi bao nhiêu năm tháng không thể đong đếm nổi, để tới khi nhìn lại, màn sương dày đặc đã cắt ngang bầu trời?
Em sẽ không còn vội vã đạp xe tới tìm anh sau giờ tan học nữa, cũng giống như anh sẽ chẳng còn nhắn tin cho em mỗi khi trời trở gió.
Em sẽ chẳng thể nào nhét tay vào túi áo anh mỗi khi tuyết rơi được nữa, cũng như anh sẽ chẳng còn đứng trực trước phòng bếp nuốt nước miếng ừng ực vì ngửi thấy mùi thơm.
Em sẽ không bao giờ đau khổ mỗi khi nhớ tới gương mặt hài hòa của anh nữa, cũng như anh sẽ chẳng còn hoảng hốt chạy thục mạng trên đường lúc đêm khuya vì em bị sốt.
Thanh Điền, không phải em đau lòng vì sự chia ly của chúng ta, em đau là vì hai con người đã từng gắn bó với nhau suốt bao năm lúc chia tay lại chẳng thể nói lời tạm biệt một cách thật lòng. Ai đó đã nói rằng, những người nói lời tạm biệt một cách thật lòng dù cho có chia xa bao lâu, thì cũng sẽ có một ngày được gặp lại nhau.
Vậy chúng ta chẳng phải sẽ mãi chẳng thể trùng phùng được ư?
Liệu anh có còn đứng ngoài cổng trường đợi em tan học?
Liệu anh còn có thể đứng trên cầu thang ngẩng đầu đỏ mặt nhìn em như ngày hè tổng kết năm lớp 8?
--- Năm 1998, Ngộ Kiến
Cô vẫn luôn tự bảo mình không được khóc, dù có phải chịu cái rét buốt xương để giọt nước mắt không kết băng trên gò má cũng được, cô không được khóc. Ngộ Kiến luôn tự nhủ những trận tuyết rợp trời này, những đợt khí lạnh không thể chống cự này rồi cũng sẽ trôi qua, phía trước chính là căn phòng nhỏ, tuy không có ai đợi nhưng vẫn còn bầu không khí ấm áp và cả chậu cây xanh quanh năm đặt trên bệ cửa sổ nữa.
Ngộ Kiến rảo bước lên cầu thang, đi một bước nhảy hai bậc rồi lại ba bậc, cô cứ làm vậy hết tầng này tới tầng khác, khi Ngộ Kiến móc chìa khóa mở cửa, một cơn gió lạnh bỗng ùa ra ngoài.
Van lại bị tắc rồi.
Gần đây van lò sưởi rất hay gặp trục trặc, nước nóng bị tắc không thể lên được khiến căn phòng tỏa hơi lạnh ào ạt chẳng khác nào hầm bằng. Ngộ Kiến cởi áo khoác, lấy chiếc kìm trong chiếc hộp đã phủ một lớp bụi dày ở trong góc phòng, rồi quỳ xuống nền xi măng buốt giá sửa van lò sưởi. Mấy hôm trước mới hỏng một lần, sau khi được Ngộ Kiến gõ gõ đập đập vài cái đã trở lại bình thường, giờ lại bị tắc. Ngộ Kiến nghĩ bụng, mẹ nó chứ.
Bao nỗi bi thương và xót ca tích tụ thành từng vũng trong thâm tâm cô, tựa như hồ nước trong cơn mưa bão mùa hè ở trường, bóng phao được các nhóm học môn Địa lý thả trong hồ từ từ dâng cao.
Loay hoay hồi lâu cuối cùng cũng xong, Ngộ Kiến còn chưa kịp khóa van lại thì một dòng nước nóng đã bật ra, dù cô đã né thật nhanh nhưng bàn tay vẫn bị phỏng một mảng lớn.
Đau đến nhói tim.
Ngộ Kiến vặn vòi đưa tay vào dòng nước mùa đông lạnh thấu xương, tựa như đang có vô số cái gai sắc nhọn đâm liên hồi vào tay, đâm sâu vào tận trong máu thịt. Ngộ Kiến đứng thẫn thờ để mặc bàn tay mình đắm trong dòng nước xối xả, xối cho tới khi tay mất cảm giác, xối cho tới khi tay đã trở nên đỏ lựng mới sực tỉnh.
Cô tắt nước, hai hàng lệ chảy dài trên má.
Ngộ Kiến đờ đẫn co người trong chiếc chăn bên góc tường, nhiệt độ phòng càng ngày càng ấm áp theo sự vận hành của lò sưởi. Tấm cửa kính vì nhiệt độ thay đổi quá nhanh mà lập tức bị bao phủ bởi một lớp hơi nước, sau đó tích lại ngày càng nhiều tạo thành những giọt nước lớn, trượt xuống theo dấu vết chồng chéo trên tấm cửa.
Mẹ kiếp! Rốt cuộc cô đang sống những ngày tháng gì thế này!
Cổ họng nghẹn ứ như bị bóp chặt.
Ngộ Kiến nhắm mắt cảm nhận cơn nhức ở đôi mất, bàn tay bị bỏng đã nổi rộp nước nhói đau từng cơn. Trong lồng ngực cô như vọng lại từng tiếng thủy tinh vỡ, tựa như có một hòn đá lớn đã đập vỡ khung cửa kính sát đất, những mảnh kính vỡ bay tán loạn găm vào nơi yếu mềm nhất trái tim cô, từng giọt máu đỏ tí tách rơi.
Rốt cuộc cô đang sống những ngày tháng gì vậy? Dường như việc rời khỏi Thiển Xuyến đã không còn ý nghĩa gì nữa rồi.
Sau khi tới Bắc Kinh, cô được ông chủ giới thiệu cho một người đại diện thuộc công ty âm nhạc nào đó. Thực ra công ty đó cực kỳ có tiếng ở Trung Quốc, tuy Ngộ Kiến không nổi tiếng, cũng chưa được đào tạo âm nhạc bài bản lần nào nhưng họ vẫn đồng ý ký hợp đồng với cô. Người đại diện nói với cô rằng, sở dĩ tôi đồng ý không phải vì kỹ thuật hát của cô tốt mà vì cảm giác do cô đem lại.
Nhưng tương lai lại chẳng thuận lợi như trong tưởng tượng, công ty không để ý nhiều tới Ngộ Kiến, hơn nữa người đại diện của cô còn rất nhiều nghệ sĩ khác nữa, Ngộ Kiến cứ tồn tại trong công ty một cách mờ nhạt như vậy. Khi các ngôi sao lớn bận rộn thay đồ sau sân khấu, Ngộ Kiến và một vài người khác mới có thể lên biểu diễn, thế nhưng đều chỉ hát nhạc của người khác. Trong những dịp có hoạt động lớn như lễ khai trương hay quy mô nhỏ như những buổi trình diễn thời trang, Ngộ Kiến cũng có thể lên hát góp vui.
Sau đó người đại diện giành được cho cô công việc hát tại nhà hàng năm sao cao cấp. Thế nhưng một người đã quen phiêu cùng nhạc rock như cô nay lại phải hát những bài ca lanh lảnh như chim yến, cô luôn thấy xấu hổ và lúng túng. Khi phải mặc những bộ đầm dạ hội cô cũng thấy cực kỳ khó chịu, chính vì lẽ đó nên cô bỏ việc, khi cô bỏ việc cũng là lúc người đại diện bỏ rơi cô.
Cô nhớ người đại diện từng nói với cô rằng: “Chẳng có người mới nào được quyền kén cá chọn canh, chính cô đã lựa chọn từ bỏ thì đừng trách tôi.”
Ngộ Kiến vẫn luôn tự hỏi phải chăng mình đã từ bỏ? Chẳng lẽ cô đã thực sự buông tha ước mơ nung nấu bao năm? Cô đã nghĩ rất lâu mà vẫn không hiểu, cũng thấy rất tủi thân, thế nhưng vì bản tính ương bướng từ nhỏ nên tới giờ cô vẫn không chịu thỏa hiệp.
Từ đó trở đi Ngộ Kiến không còn công việc nữa, không còn thông báo, không còn bất kỳ một cơ hội trình diễn nào, cô cắn răng chấp nhận. Nhưng cô cần tiền, tìm mãi Ngộ Kiến mới kiếm được việc ở cửa hàng tiện lợi, có điều vì tiền lương ít nên cô phải nhận cả việc đưa báo trong khu và đi hát đêm ở quá bar dù rằng rất mệt.
Cô bắt đầu bươn chải ở thành phố Bắc Kinh rộng lớn này.
Cô sống ở khu ổ chuột, bất chấp tất cả, theo đuổi danh vọng và tiền tài.
Cô từng tưởng rằng đêm Giáng sinh trên chuyến tàu đi từ Thiển Xuyến tới Bắc Kinh là thời khắc cô đơn nhất cô từng trải qua, nào ngờ khi tới Bắc Kinh rồi mới nhận ra ngày nào cô cũng cô đơn còn hơn thế.
Thế nhưng những từ như “cô đơn”, “quạnh quẽ” sẽ chẳng bao giờ xuất hiện trong từ điển của Ngộ Kiến. Khi bước trên con đường lớn mịt mù khói bụi của Bắc KInh, Ngộ Kiến vẫn kiên định rằng một ngày nào đó cô sẽ trở thành nữ ca sĩ tài năng nhất Trung Quốc. Bầu trời dù có u ám nhưng rồi sẽ chuyển xanh. Mây vẫn ung dung trôi như bao ngày. Năm tháng rồi sẽ hóa thành con bướm Yến Vĩ lỗng lẫy, rải lớp lớp bột phấn lấp lánh xuống nhân gian.
Khách sạn nơi Lập Hạ ở là một căn nhà cổ trên một con phố lâu đời tại Thượng Hải, vừa hay lại gần ngay nơi cuộc thi tổ chức. Con đường này mang phong cách kiến trúc ngoại lai, những ngôi biệt thự cổ có lan can bằng sắt, những nhành dây leo bám chằng chịt tr