← Quay lại trang sách

Đêm xuân năm Hổ này, nằm ngẫm thêm về bầy hổ Mỹ

Thế là, từ ngày ta bình được cái giặc cối xay B.52 Hoa Kỳ, đã gọn lọt hai Tết yên lành tĩnh tại. Và sau Tết, từ vĩ tuyến 23 tới vĩ tuyến 17, mùa xuân đúng hẹn lại trở về với Hà Nội và khắp các tỉnh thành toàn miền Bắc bình yên. Gốc già cành cũ thương tật vì bom chiến lược cũng trở lại đâm lộc dần dần. Ở nhiều lề phố, loáng thoáng người cầm mai, cầm xẻng đào những hố lẻ. Có người sửng sốt hỏi, thì người đào hố một – từng dãy hố một – tủm tỉm trả lời là “không, không, đã có gì đâu; mà đây chỉ là đào hố mới để thêm cây bóng mát cho Thủ đô. Mùa xuân trồng cây là rất hợp”. Những gốc gạo độc lập khắp các khối mọi khu trong khu ngoài ven thành đều đã bừng bừng đỏ ối chân trời mà gợi lại pháo Tết chiến thắng của người Hà Nội tung lên giời không biết tiếc tiền không tiếc tay. Hành hương chùa nhang lễ Phật đầu năm cầu lành, các cụ già dắt cháu đi trảy hội năm nay thật là đông vui. Bèn có ngay những người đảo lại một câu thơ thời sự: “Trảy hội vui như là đi đánh Mỹ”. Hai năm nay, đêm cũng như ngày, bầu trời không tiếng bay xóa sao xé mây, bầu trời không rủn rền nhịp còi chống Mỹ. Sau mỗi đêm xuân sớm ngày ra, gặp lại nhau, thay một câu chào mở đầu ngày mới, thường nhiều người hay phàn nàn với mình rằng “đã lâu nay không ngủ được cho đẫy giấc”. Mình cũng nhớ ra là lâu nay mình cũng ngủ không trọn giấc, nhất là trong những đêm xuân sau Tết năm Hổ này. Ngoài ta đã phục hồi hai năm bình yên cho bốn mùa đất Bắc, nhưng mùa xuân chưa trở về cho gốc rừng, cho lúa ruộng, cho lá vườn các tỉnh đàng trong. Xuân ấm mà không ngủ yên, hòa bình chỉ mới ở một nửa toàn cõi, thật là không ngoa ngoắt chút nào khi những người bình thường chúng ta nói rằng đêm xuân này sau chiến thắng mới đây nhất, ta vẫn ngủ có một mắt thôi như ngày nào. Anh M. – người mà tôi tin cậy về nhỡn lực chính trị – liền nhấn thêm, với một giọng đằm đằm: “Cảnh giác với Mỹ, không lo thừa, mà rất nên sẵn sàng cho đủ, phải không anh!”. Đêm mất ngủ thì làm gì? Chỉ còn có đọc sách (dù cho nhà mình có bị mất điện) và đó là cách “trác táng” duy nhất nếu không là cách sang trọng nhất của kẻ sĩ và của bất cứ ai có lòng với đất nước chưa hoàn toàn hồi xuân, – trong kia vẫn còn mất máu, ngoài này vẫn vã mồ hôi trộm.

Một đêm thức đọc đủ các thứ, tôi đọc thế nào mà lại đọc ngay vào một đoạn về cái quỹ đen của bộ chiến tranh Hoa Kỳ, cùng những dự toán của Mỹ năm 1974 này sẽ chi bao nhiêu tiền về việc ném bom tại Đông Nam Á, kể cả việc xuất kích của B.52 chiến lược. Theo tin của Nhật báo “Thế giới” mách, thì quỹ 1974 sẽ chi cho không quân Hoa Kỳ hoạt động tại Đông Nam Á (kể cả Đông Dương là trọng điểm chứ gì?) một số tiền là 275 triệu đô la. Và không lực Hoa Kỳ đã dự trù 276.963 giờ bay. Thêm vào đó, lại còn 750.000 giờ bay riêng của những phi đội Thiệu Sài Gòn (mà nếu Mỹ không pẩy-xìn thì cha thằng nào sẽ trả?). Về đám tướng tá Thiệu cu li cu leo Mỹ quấy phá Hiệp định Paris tại miền Nam, ngân quỹ Hoa Kỳ 1974 cũng cho Thiệu 277 triệu đô la riêng về tiết mục đạn dược. Một đại diện hành chính Hoa Kỳ gợi ý là cũng nên lo tính trước cả cho quỹ chiến tranh Việt Nam năm 1975 tới, thì thượng nghị sĩ Symington vặn lại: “Có thật là chúng ta rút khỏi Đông Dương không?”. Ấy, Ních Xơn không ngớt dàn ra mặt bài hòa bình, mà luôn luôn nó cứ lòi cái tẩy chiến tranh của chúng như thế đó.

Ở Hà Nội nhiều người, bận rộn đủ các thứ, hầu như đã quên đứt đi cái sự tàu bay quân sự, nhất là các thứ quân lực Hoa Kỳ. Mấy ai còn nhớ tới cái bóng đáng yêu của đồng chí cán sự khu phố làm việc công không cho khối phố cứ ngày ngày cầm hòn phấn ghi con số xấu hổ của Mỹ cứ thế mà leo thang dưới bàn tay phấn của người thông tin khối phố. Bảng thông tin thường là mảng lưng ngõ cụt, hoặc một mảnh tường đầu phố. Có những phố mà người ta yêu cái việc thông tin diệt Mỹ, lại còn lấy sơn màu kẻ sẵn cái máy bay Hoa Kỳ tóe khói, trên đó quệt chéo một chữ thập đen cáo phó hộ cho Hoa Kỳ. Rồi chỉ cầm hòn phấn trắng nắn nót viết vào lưng tường ngay bên cạnh bảng báo tử Mỹ ấy cái con số máy bay nó vừa bị hạ trong ngày. Lại sực nhớ tới những ngày Hà Nội ta oanh liệt diệt Mỹ, nhất là quãng mùa đông giá lạnh 1972, Thủ đô ta “luộc nhừ 23 con B.52 Mỹ” – Nói theo cách nghĩ nghề nghiệp của một ông mở hàng ăn món dân tộc. Hồi ấy, nhiều người ốm đứng, sau liền mười hai ngày đêm hao sức và mất ngủ, lại còn gọi là một vụ nấu cao hổ cốt quy mô, nấu liền một mẻ những 23 bộ xương hổ Mỹ mà lại là kềnh B.52 nữa kia! Ngay sau cái mẻ cao khổng lồ hàng tấn cao Mỹ ấy, Thủ đô ta hồi sức ngay, và cả nước từ Bắc chí Nam khỏe hẳn ra, mà anh em ta khắp bốn bể năm châu đều hể hả ra mặt ra lời. Đứng về kỹ thuật nấu chưng cao hổ cốt, từ ngày có Đông y ở Đông Á, thật tình mà nói cũng chưa bao giờ phải nấu cao tử công phu đến mức ấy; lò đun cháy xình xịch gần hai tuần liền tay đốt lửa đêm ngày, và đêm đêm đứng sơ tán quanh Thủ đô một đường bán kính vài chục ngàn mét mà vọng về chân giời Thủ đô thì lúc nào cũng thấy lò cao Hà Nội phụt lên một vầng cháy lửa đun nấu cháy rền đến người ở xa cũng phải sốt ruột thay. Gần đây, bộ quốc phòng Mỹ hăm dọa một cách láo xược là dám ném bom lại Đông Dương, một số ông bà mở hàng dồi chả rựa mận của suốt một tuyến thịt chó từ Hàng Bè, Mã Mây, Ô Quan Chưởng, kéo qua Cống chéo Hàng Lược lên tới chợ Châu Long, tất cả đều nói buông thõng: “Nó lại muốn ta nấu cao hổ cốt nó đấy”. Cũng như nhìn thấy con chó nhà ai sủa sằng cắn bậy, họ thường nẹt con chó trở chứng: “Ý chừng chú mày lại muốn giềng mẻ đấy phỏng!”.

Quân tướng của Thiệu làm cu li thuê cho bộ máy chiến tranh Mỹ. Thiệu cùng tướng và tá đúng là một lũ hổ giấy của Mỹ. Nếu không có quan thầy Mỹ lộn sòng vào đội ngũ, thì cái đám giấy vẽ rằn ri đó dễ cháy vèo từ lâu rồi. Càng ngày càng rõ cảnh loạn rừng phương Nam là do hổ Hoa Kỳ gây ra. Đó là những con hổ tranh Hoa Kỳ đội lốt người, nói tiếng chiến tranh mà lại khoác áo hòa bình. Cha cha, còn có nơi nào mà lãnh sự quán Hoa Kỳ mọc ra nhiều như vậy ở vùng da báo Thiệu không! Và từ ngày tiến sĩ thái sư Kítxinggiơ đẻ ra cái trật phẩm “cố vấn” trong ngạch quan lại võ biền Mỹ, thì cái sự giết người của tử thần Hoa Kỳ càng phát triển thêm cái “hệ cố vấn”. Cố vấn dân sự [3] của Thiệu Sài Gòn là gì nếu không là lũ lính đánh thuê mới của Mỹ đầu tư – một cách khôn nhưng chưa ngoan – vào thời cuộc phương Nam? Hai vạn rưởi tên (cố vấn Mỹ) ấy cài vào các đốm da báo Thiệu, thì còn bao lâu nữa hòa bình Việt Nam mới hửng sáng ở rừng ruộng vườn phương Nam? Ở ngoài ta đã vắng hẳn đi cái bóng cần cù dễ thương của anh cán bộ khối phố ghi lên mặt tường Hà Nội con số leo thang chết của máy bay Mỹ cháy rụng, nhưng ở phương Nam, từ sau Hiệp định Paris và Hiệp định bị Mỹ – Thiệu xúc phạm võ trang, thì các khu vực đàng trong lại đang liên tiếp ghi số tàu bay Thiệu (tức là Mỹ) bị quân dân Giải phóng bắn rơi. Con số tàu bay Mỹ – Thiệu bị hạ cháy cũng đang leo thang lần lần và trong một lúc nào gần đây sẽ vượt con số tròn 100 hổ Mỹ sóng soài.

Năm Hổ thường vẫn là năm dữ rừng động rừng – theo lời các cụ sơn tràng và thợ săn. Nhưng nó cũng là năm làm ăn của những người làm nghề nấu cao dã thú để tăng thêm gân sức cho mọi người muốn được làm ăn trong yên bình.

Nhà nghiên cứu về hổ là Christian Zuber, trong báo “Paris Match” có nói tới các giống hổ, như hổ Nam Dương, hổ Á Phu Hãn, hổ Ấn Độ, hổ Tân Cương, hổ Tây Bá Lợi Á. Riêng hổ ở ta, ông nói là còn độ 1.600 đến tới 2.000 con, nằm rải rác từ dọc Trường Sơn tới vùng Cửu Long Nam Bộ. Tôi xin gợi ý thêm cho nhà nghiên cứu tư sản về hổ đó là ông quên mất cái giống hổ Hoa Kỳ. Con số hổ Hoa Kỳ ở các nơi tôi không rõ, nhưng ở Việt Nam nó đông hàng bầy. Đông tới 24.000 con (những thứ “cố vấn dân sự” Mỹ ở miền Nam, mà không gọi nó là hổ đói Hoa Kỳ thì bảo tôi gọi nó là con chó sao!). Muốn thấy mà thống kê đủ tên hổ, xin mời ông cứ về các vùng da báo Thiệu. Có lần ông bí thư tỉnh Lai Châu (Tây Bắc miền Bắc) nói với tôi rằng rừng Lai Châu giờ nhiều voi Lào chạy về cứ hàng đàn, đàn voi tránh tiếng súng trận đất Lào. Nhưng hổ thì không thế. Những lúc Quân giải phóng trừng trị quân Thiệu ngụy lấn sang đất giải phóng, thì nghe súng nổ rền là hổ xông tới, nằm mai phục chờ yên tiếng nổ thì tới cướp thây ngụy. Việc đó, nhiều chiến sĩ nhiều vùng giải phóng đã chứng kiến.

Hoa Kỳ gần đây thường lu loa rằng đã “phủi tay khỏi miền Nam” nhưng quả tang là nó đang ném đá giấu tay, nó kéo dài chiến tranh gọi là có mức độ (?). Người dân Sài Gòn bình thường và lương thiện, qua miệng người dân biểu thức thời, đã phải nổi đóa lên về tình trạng “phi hòa phi chiến” đó gây ra do hổ Mỹ ngày càng viện trợ các thứ võ khí, các thứ cố vấn dân sự cho con báo Thiệu muốn trổ thêm đốm da báo (thực ra là miếng da lừa) của Thiệu.

Mùa xuân năm ngoái, tại sân bay Gia Lâm, liên tiếp mấy đợt thả giặc Mỹ lái máy bay – mà theo Hiệp định Paris ta gọi là “nhân viên quân sự Hoa Kỳ”. Đợt thả cuối cùng, diễn ra cùng lúc với việc ở sân bay Tân Sơn Nhất Sài Gòn tên lính Mỹ cuối cùng ở các đơn vị bộ binh Hoa Kỳ cuốn cờ vĩnh biệt đất nước phương Nam mà cút ra biển Đông, trở về bên bờ kia cái “ao ếch” Thái Bình Dương. Đàng Ngoài thả tù. Đàng Trong nó cuốn cờ cuốn gói, mình không giỏi mà được vậy sao! Nhưng tôi vẫn là một chú khờ khi ký sự về sự cố lịch sử đó, tôi đã tiêu đề lên đầu bài: “Đất cùng trời toàn cõi ta, từ nay sạch bóng nó”. Nghe nói ký sự đó rồi sẽ được in vào một cuốn mang tên mình, tôi vội vã chữa lại cái nhan đề, thêm vào mấy từ, để gọi là chữa cái lỗi chủ quan ở mình. Nó đã hết đâu! Bóng nó vẫn còn làm cớm lúa và cây miền Nam. Nó còn phá rừng và ăn thịt người mình trong ấy. Nay biết dại và không giấu khờ, tôi chữa cái nhan đề là: “Từ nay COI NHƯ sạch được bóng nó”.

Mùa xuân năm ngoái thả tù Mỹ, mùa xuân năm nay bốc mả Mỹ. Những “nhân viên quân sự Hoa Kỳ” trước đây ta hung táng nơi lưng ngàn bãi biển cánh ruộng, thì nay ta cát táng hộ nó, và trả nó. Nghĩ mà thấy bận tâm hộ thay cho những anh em mình phải giữa mùa xuân dân tộc, đi làm cái việc vất vả, tế nhị một cách khó diễn tả này. Mình bốc lên, nó tới lĩnh tại sân bay. Đợt đầu trao ngày Xít Mác (6-3) hãy biết là 12 bộ hài cốt Mỹ. Chắc những hổ cốt Hoa Kỳ không thể bỏ vào những cái tiểu sành cổ truyền của mình. Xương tay xương chân nó lêu nghêu thế, tiểu nào của ta cho vừa (lúc nó tử thương dù xuống, ta cấp cứu cho, còn phải ghép nối hai bàn mổ cho nó nằm mới vừa kia mà). Vả chăng Mỹ thiếu gì túi nilông và áo quan kẽm cặp chì. Nhưng thôi đó chỉ là chi tiết.

Đêm xuân lại vẫn không ngủ được yên giấc. Trong đêm, lắng kỹ, như nghe được tiếng nhựa sống của tất cả cây ngoài phố nó cựa quậy mà ra lộc. Mà năm nay có vẻ như muốn đâm chồi bốc lộc mạnh hơn mọi xuân cũ. Có vẻ như là để bù đắp cho tất cả cây cỏ phương Nam đang chưa có mùa xuân, đang bị Mỹ – Thiệu tiếp tục tàn hoại mọi cái gì là diệp lục tươi xanh. Đất và Trời phương Nam bị ô nhiễm biết bao năm rồi, nay lại vẫn tiếp tục ô nhiễm Mỹ – Thiệu. Mùi hổ bao giờ cũng hôi khét, hổ Mỹ lại càng nồng mùi, nặng mùi. Hai vạn rưởi con hổ cố vấn Hoa Kỳ đó là gì nếu không là ô nhiễm khét cháy lên. Trời, cái ông dân biểu gì ở Sài Gòn, (hình như là ông Trần Ngọc Giao) nói cái câu đó ở báo Điện Tín, nghe thấy được được đó: “… rằng người Việt Nam cần hòa bình hơn là viện trợ…”. Đúng đó ông à, phấn đấu để cho hòa bình trở lại miền Nam, để giữ lấy hòa bình toàn cõi, không phải là vì khiếp sợ bất cứ ai bất cứ cái gì, mà chính là để giữ lấy cái nhân phẩm người mình ở khắp gầm trời Việt Nam. Ông à, lực của Hoa Kỳ, chiến lực của nó chưa tận đâu, nhưng thế của đấu tranh cho hòa bình đang trên thế tấn công ở toàn thế giới.

Đêm xuân mà thao láo cả hai mắt, lòng khôn xiết vấn vương với cái tính nhị nguyên của sự sống nhỡn tiền. Chiến tranh và hòa bình. Tìm cái thắng bằng chiến, tìm cái thắng bằng hòa, hòa cho được. Nó như có đêm thì có ngày, có ác thì phải có thiện, có đực có cái, sông có bên lở bên bồi. Có hiếu chiến Mỹ thì có đấu tranh giữ vững hòa bình của ta (ta hiểu theo cả Bắc và Nam, và rộng ra cả thiên hạ dưới gầm trời trên mặt đất tinh cầu).

Hà Nội, tiết xuân phân một năm Hổ

(21-3-74)