⚝ 4 ⚝
Người ta đi lên đi xuống các vỉa hè, hòa vào những đám đông không ngừng chuyển động, thay đổi, trên mình mặc những trang phục mùa Xuân. Khắp chốn toàn các phụ nữ trẻ trung, đi giày cao gót nện lên đất kêu rầm rập (y có thể nghe được âm thanh ấy, thậm chí từ trong xe), nhiều người phục sức hào nhoáng, quần áo rực rỡ phi thường trong ánh ban mai chói chang. Y thích thú ngắm nghía khung cảnh đầy người và màu sắc ấy - dù những thứ nọ làm nhói đôi mắt vẫn nhạy cảm quá mức của y và bảo người tài xế lái chậm rãi xuống Đại lộ Công viên. Đó là một ngày đẹp trời, một trong những ngày thật sự quang đãng đầu tiên trong mùa Xuân thứ hai mà y đến trái đất này. Y mỉm cười, ngả lưng lên những tấm đệm tựa được thiết kế đặc biệt và chiếc xe đi vào khu trung tâm với một tốc độ chậm rãi, vững vàng. Người tài xế Arthur lái rất thiện nghệ, anh ta được chọn vì tay lái êm ả, có khả năng giữ vững tốc độ, tránh những cú giật đột ngột trong lúc xe chạy.
Họ rẽ ngoặt sang Đại lộ số Năm ở khu trung tâm, đỗ lại trước tòa nhà văn phòng cũ của Farnsworth, mà giờ đây ở một bên lối vào trưng tấm biển đồng có các chữ đắp nổi khiêm cung: Tập đoàn World Enterprises . Newton chỉnh lại cặp kính râm sang sắc độ tối hơn, để bảo vệ mắt y khỏi ánh nắng bên ngoài và thận trọng bước ra khỏi chiếc limousine. Y đứng ở vỉa hè, duỗi người, cảm nhận ánh mặt trời chiếu lên gương mặt y... ấm áp nhu hòa với những nhân loại xung quanh y, nóng bức một cách dễ chịu với riêng y.
Arthur thò đầu ra khỏi cửa sổ xe và hỏi: “Tôi đợi ông chứ, thưa ông Newton?”
Y duỗi người lần nữa, tận hưởng ánh nắng, tận hưởng bầu không khí. Y đã không rời căn hộ của mình hơn một tháng nay. “Không. Tôi sẽ gọi cho anh, Arthur ạ. Nhưng tôi nghĩ là sẽ không cần tới anh cho đến tối, anh có thể ra rạp xem phim nếu thích.”
Y bước vào, đi dọc hành lang chính, qua những dãy thang máy, tới chỗ chiếc thang máy đặc biệt ở cuối sảnh, nơi một người phục vụ đang chờ y. Anh ta đứng nghiêm, bộ đồng phục thẳng thớm không chê vào đâu được. Newton thầm mỉm cười, y có thể hình dung ra cảnh xôn xao, náo động do những mệnh lệnh mà ngày hôm trước hẳn vừa truyền xuống, sau khi y gọi điện và thông báo sẽ ghé qua vào buổi sáng hôm sau. Y đã không đến văn phòng trong ba tháng nay. Y hiếm khi rời khỏi căn hộ của mình. Anh chàng phục vụ thang máy, một cách căng thẳng và đã tập sẵn, nói với y: “Xin chào buổi sáng. Ông Newton.” Y mỉm cười với anh ta và bước vào trong.
Thang máy đưa y chậm rãi và êm ái lên tới tầng bảy, nơi trước kia là văn phòng luật của Farnsworth. Farnsworth đã đợi sẵn trước cửa. Tay luật sư ăn vận như một nhà độc tài trong bộ com lê bằng lụa xám, một viên đá quí đỏ rực lấp lánh trên ngón tay đeo nhẫn múp míp, móng tay được cắt tỉa hoàn hảo. “Trông ông khỏe khoắn đấy, ông Newton.” Ông ta vừa nói vừa bắt lấy bàn tay y đang chìa ra bằng một lối cẩn trọng, nhẹ nhàng. Farnsworth là một kẻ tinh ý, ông ta đã chú ý ngay tức thì, mỗi lần bị người khác chạm vào một cách thô lỗ Newton đều co rụt lại.
“Cảm ơn, Oliver. Tôi đang cảm thấy đặc biệt khỏe khoắn.”
Farnsworth đưa y đi xuôi một hành lang, qua các văn phòng và vào một dãy phòng thông nhau với tấm biển đề “Tập đoàn W. E.” Họ đi ngang qua một nhóm thư kí, những người nọ tức thì yên lặng một cách kính cẩn khi trông thấy họ tới gần, và bước vào văn phòng của Farnsworth, với dòng chữ bằng đồng nhỏ đính trên cửa: O. V. Farnsworth, Chủ tịch.
Bên trong, văn phòng được bài trí y như trước, với những đồ nội thất kiểu Rococo 12 hỗn tạp, bị lấn át bởi chiếc bàn lớn được chạm khắc theo phong cách nghịch dị của Caffieri 13 . Căn phòng thì, vẫn luôn như thế, tràn ngập âm nhạc... lần này là một bản vĩ cầm. Thứ tiếng ấy thật chối tai với Newton, nhưng y không nói gì.
Một hầu gái mang trà vào, sau khi họ tán gẫu vài phút. Newton đã học cách thưởng thức trà, dù y chỉ uống được món trà âm ấm. Rồi họ bắt đầu nói chuyện công việc, vị thế của họ ở các phiên tòa việc bố trí và tái bố trí các chức giám đốc, các công ty cổ phần mẹ, các giấy nhượng quyền, giấy phép và phí bản quyền phát minh, việc cấp vốn tài chính cho các nhà máy mới, các vụ thu mua lại những nhà máy cũ, các thị trường, chuyện giá cả, và sự biến động về mức độ hứng thú của công chúng với bảy mươi ba sản phẩm tiêu thụ mà họ đã cho ra đời. Ăng ten vô tuyến, linh kiện bán dẫn, phim chụp ảnh và máy dò bức xạ... cùng hơn ba trăm bằng sáng chế họ cho thuê, từ qui trình tinh lọc dầu tới một chất thay thế không độc hại cho thuốc súng dùng trong đồ chơi trẻ em. Newton thấy rất rõ sự kinh ngạc của Farnsworth, thậm chí hơn hẳn bình thường, trước sự tinh thông của y vói những lĩnh vực này, và y tự nhủ đáng ra y nên cố tình mắc những sai lầm ngớ ngẩn về các con số và chi tiết. Tuy vậy, y lấy làm khoái trá, thích thú dùng trí tuệ Anthea của y xử lí các vấn đề, dù y biết lòng kiêu hãnh phù phiếm và rẻ mạt là cội nguồn cho niềm hoan lạc ấy. Giống như thể một trong số những nhân loại này - y luôn nghĩ về họ như “những nhân loại này”, dù y đã đâm ra yêu mến và ngưỡng mộ họ - nhận thấy chính mình đang đương đầu với một bầy tinh tinh tháo vát và cảnh giác. Y mê mẩn họ và nhiễm thói say sưa hư danh mang tính gốc rễ của nhân loại. Y không thể chống cự được niềm vui giản đơn mỗi khi sử dụng trí tuệ ưu việt của mình và trông thấy sự kinh ngạc đến chết điếng của những nhân loại ấy. Dẫu vậy, có thích thú chuyện này đến đâu đi nữa, y vẫn phải nhớ rằng những con người này nguy hiểm hơn lũ tinh tinh. Và đã hàng nghìn năm qua không nhân loại nào trông thấy một người Anthea không ngụy trang.
Họ tiếp tục trò chuyện cho tới khi người hầu gái mang bữa trưa vào, gồm món bánh mì kẹp thịt gà xắt lát với một chai rượu Rhine cho Farnsworth; bánh qui yến mạch với một cốc nước cho Newton. Yến mạch, y đã phát hiện ra, là một trong những thực phẩm dễ tiêu hóa nhất cho hệ tiêu hóa đặc biệt của y, và y thường xuyên ăn món ấy. Họ bàn bạc tiếp về mô hình kinh doanh phức hợp bỏ vốn để mở rộng và đa dạng hóa các xí nghiệp. Newton dần trở nên hào hứng với phần này của trò chơi vì niềm vui thú mà nó mang lại. Y đã buộc phải học hỏi lĩnh vực này từ điểm xuất phát, có nhiều thứ về xã hội này và hành tinh này không thể nào học được bằng cách xem truyền hình, và y nhận thấy bản thân mình có thiên phú cho việc ấy, có lẽ được kế thừa từ các tổ tiên cổ đại vào những ngày xa xưa, cường thịnh, cái thời kì vàng son của văn minh Anthea khởi thủy. Đó là thời kì trái đất này đang ở kỉ băng hà thứ hai... thời kì của chiến tranh và chủ nghĩa tư bản hà khắc. Y thích thú chơi đùa với những chiếc bàn tính và các con số tài chính, dù y không mấy hứng thú với thứ năng lực ấy và tính cả việc y đã gia nhập ván bài với cỗ bài được sắp xếp nghiêng về phía y: Mười nghìn năm thành tựu kĩ thuật điện tử, hóa học và quang học của Anthea. Nhưng y chưa bao giờ quên lãng một giây phút nào vì điều gì mà y đến trái đất này. Ý nghĩ ấy luôn ở cùng y, không thể nào lảng tránh, như cơn đau nhức mơ hồ tồn tại trong cơ bắp đã được rèn luyện tăng cường nhưng vẫn luôn kiệt lực của y, như sự xa lạ khôn kham, bất kể có trở nên quen thuộc đến đâu đi nữa, của hành tinh vô thường và khổng lồ này.
Y thích thú với Farnsworth. Y thích thú với dăm ba nhân loại mà y gặp. Y không quen biết một phụ nữ nào, bởi lẽ y sợ họ, vì những lí do mà chính y cũng không thể hiểu nổi. Y thấy ưu phiền, đôi lúc, rằng vì tính an toàn mà y không thể liều lĩnh tiếp cận những nhân loại ấy sâu hơn. Farnsworth dù là kẻ đam mê hưởng thụ, một người sắc sảo, một tay chơi đầy tham vọng trong ván bài tiền bạc, một nhân loại mà thỉnh thoảng y phải dè chừng, một nhân loại có lẽ là nguy hiểm, nhưng là một nhân loại với trí óc có nhiều điểm tinh tế và khó lòng nắm bắt. Ông ta đã không nhận khoản doanh thu khổng lồ - khoản doanh thu mà Newton đã tăng gấp ba cho ông ta - duy chỉ vì danh dự.
Khi đã giải thích đủ rõ với Farnsworth những gì cần thực hiện, y ngả lưng ra ghế trong chốc lát, nghỉ ngơi, và nói: “Oliver, giờ thì ta bắt đầu... tích lũy được vốn rồi, có một thứ khác tôi muốn tiến hành. Tôi đã nói với ông trước đây, về một dự án nghiên cứu...”
Farnsworth không có vẻ gì ngạc nhiên. Mặt khác, có lẽ ông ta đã trông đợi một chủ đề quan trọng hơn cho cuộc viếng thăm này. “Vâng, thưa ông Newton?”
Y mỉm cười hòa nhã. “Là một loại nhiệm vụ khác, Oliver ạ. Và tôi e là một việc đắt đỏ. Tôi cho là ông sẽ phải làm một số việc để thiết lập... dự toán tài chính của dự án ấy, dù thế nào đi nữa.” Y nhìn ra cửa sổ trong chốc lát, nhìn ra dãy cửa hiệu xám không trầm lắng của Đại lộ số Năm, và nhìn những hàng cây. “Đây là một việc phi lợi nhuận, và tôi nghĩ tốt nhất là ta thiết lập một viện nghiên cứu.”
“Một viện nghiên cứu ư?” Tay luật sư mím môi.
“Phải.” Y quay lưng lại với Farnsworth. “Phải, tôi nghĩ ta sẽ thực hiện sáp nhập ở Kentucky, với toàn bộ vốn mà tôi có thể gom được. Sẽ vào khoảng bốn mươi triệu đô la, tôi nghĩ thế... nếu ta có được hỗ trợ từ phía nhà băng.”
Hai lông mày của Farnsworth nhướn cao. “Bốn mươi triệu. Ông không đáng giá được phân nửa số ấy, ông Newton ạ. Trong sáu tháng nữa thì có thể, nhưng chúng ta chỉ mới bắt đầu...”
“Phải. Tôi biết. Nhưng tôi định sẽ nhượng lại cổ phần của tôi ở Worldcolor cho hãng Eastman Kodak, toàn bộ. Ông có thể, dĩ nhiên, giữ cổ phần của ông, nếu ông muốn. Eastman sẽ tiếp quản mọi thứ hiệu quả, tôi hình dung thế. Họ có tiềm lực cao để tiếp nhận... và sở hữu điều kiện mà ta không cạnh tranh nổi trong thị trường phim chụp ảnh màu sau năm năm nữa.”
Giờ thì Farnsworth đỏ ửng cả mặt. “Như vậy có khác gì bán quyền lợi trọn đời trong ngân khố Hoa Kì chứ?”
“Có thể lắm. Nhưng tôi cần tiền vốn, và chính ông cũng nhận thức được luôn tồn tại nguy cơ nhiễu nhương về các tố tụng chống độc quyền trong những bằng sáng chế này. Và Kodak có khả năng thâm nhập thị trường thế giới tốt hơn chúng ta. Thực chất, chúng ta đang giúp cho chính mình tránh khỏi vô số phiền hà.”
Farnsworth lắc đầu, có chút nguôi đi. “Nếu tôi có bằng sáng chế cho Kinh Thánh, tôi sẽ không bán cho nhà xuất bản Random House. Nhưng tôi cho là ông biết ông đang làm gì. Lúc nào ông cũng rất rõ ràng việc ấy.”