← Quay lại trang sách

⚝ 7 ⚝

Y ngẩng lên giữa lúc đang đọc sách, có đôi chút giật mình. Y không hề nhận thấy sự hiện diện của cô ta trong phòng. Cô thường xuyên như thế, xuất hiện một cách đột ngột, và giọng nói lào khào, nghiêm nghị của cô có thể khiến y phiền nhiễu. Nhưng cô là một phụ nữ tốt bụng và hoàn toàn không ngờ vực gì y. Trong bốn tuần, y dần yêu mến cô, như thể cô là một thứ thú cưng hữu dụng. Y chuyển chân sang một tư thế thoải mái hơn trước khi lên tiếng đáp. “Cô sẽ đi nhà thờ chiều nay phải không?” Y nghiêng vai, ngoái đầu nhìn cô ta. Có lẽ cô vừa mới bước vào, mang theo một chiếc túi nhựa màu đỏ, loại túi đựng hàng, cô ôm chiếc túi ấy trước bộ ngực lớn như đang ôm một đứa bé.

Cô ta cười toe toét với y, một nụ cười hơi ngốc nghếch, và y nhận ra rằng cô ắt hẳn đang có chút say, dù lúc này chỉ mới đầu giờ trưa. “Tôi định thế, thưa ông Newton. Tôi nghĩ có lẽ ông muốn đi nhà thờ.” Cô đặt chiếc túi lên bàn, kế bên chiếc máy điều hòa. Chiếc máy ấy y đã mua cho cô trong tuần đầu tiên y ở lại nhà cô. “Tôi mua cho ông ít rượu.”

Y xoay thẳng người lại, trước mặt y là một chiếc thùng gỗ nhỏ mỏng manh, phía trên dằn những quyển truyện tranh cũ, thứ duy nhất mà cô ta đọc. Y thấy phiền hà. Cô ta mua rượu nghĩa là hẳn định uống say vào tối nay và dù kiểm soát được tửu lượng của mình, chuyện cô say xỉn luôn làm y e ngại. Cô vẫn hay nhận xét với vẻ ngạc nhiên đầy tinh nghịch về cân nặng nhẹ bổng và vóc người mảnh khảnh của y, cô rõ ràng vẫn không thể hình dung được sự tổn hại cô có thể gây cho khung xương của y - một khung xương mỏng manh như của loài cầm điểu - nếu nhỡ cô vấp trúng y, ngã đè lên y, hoặc thậm chí chỉ là cho y một cái tát mạnh. Cô có một thân hình đầy đặn, khỏe khoắn và nặng hơn y ít nhất năm chục cân. “Cô thật là có lòng khi mang rượu về, Betty Jo ạ. Rượu lạnh chứ?”

“Ừm, ừm. Lạnh khiếp đấy.” Cô lấy chai ra khỏi túi và y nghe thấy tiếng vỏ chai chạm leng keng vào những chai khác vẫn còn trong giỏ. Cô đưa tay sờ cái chai ấy với vẻ nghiền ngẫm. “Lần này tôi không mua ở hiệu Reichmann. Hôm nay tôi được nhận tiền trợ cấp và tôi mua rượu ngay khi ra khỏi tòa nhà sở phúc lợi. Có một hiệu nhỏ ngay đấy tên là Goldie’s Quickie. Cả mớ tiền phúc lợi trút vào đó.” Cô lấy một chiếc cốc từ hàng cốc ở trên nóc giá sách kiểu cổ sơn đỏ, đặt cốc ấy lên bậu cửa sổ. Rồi, bằng một vẻ thẫn thờ, biếng nhác luôn hiện ra mỗi khi dính tới rượu chè, cô kéo một chai rượu gin khỏi túi, và bấy giờ đứng đó, một tay cầm chai rượu vang, tay kia cầm chai rượu gin, như thể không quyết định được nên đặt chai nào xuống trước. “Họ chất hết rượu trong tủ lạnh loại thường và rượu lạnh ngắt đi. Đáng ra tôi nên mua đằng hiệu Reichmann.” Cuối cùng cô ta đặt chai rượu vang xuống và mở chai rượu gin.

“Không sao. Hâm nóng cũng không lâu.”

“Tôi đặt chai này ở đây, bất kì lúc nào muốn uống ông cứ gọi tôi, được chứ?” Cô rót cho mình nửa cốc rượu gin rồi đi vào căn bếp nhỏ. Y nghe thấy cô ta khua lọ đường loảng xoảng, xọc muỗng vào thứ đường mà cô hay cho vào món rượu gin, rồi cô trở lại rất nhanh, vừa đi vừa uống. “Chết tiệt, mình mê cái món gin!” Cô nói, giọng hài lòng.

“Chắc là tôi không đi nhà thờ được.”

Cô ta trông có vẻ chán nản thật sự. Cô bước sang và ngượng nghịu ngồi xuống chiếc ghế bọc vải hoa cũ kĩ đối diện y, một tay cô gắng kéo chiếc váy in họa tiết qua khỏi đầu gối, tay kia cầm chiếc cốc. “Tiếc thật. Nhà thờ ấy tốt lắm, toàn người sang quí. Ông sẽ không thấy lạ lẫm ở đó.” Lần đầu tiên y để ý thấy tay cô ta đeo một chiếc nhẫn hột xoàn. Có lẽ cô mua nó bằng tiền của y. Y không thấy phật ý gì chuyện đó, hiển nhiên cô có được tiền ấy vì đã bỏ công săn sóc y. Mặc cho những thói quen và lối nói chuyện của cô, cô chăm nom người bệnh rất giỏi. Và cô không tọc mạch gì chuyện của y.

Không muốn nói thêm chuyện nhà thờ, y giữ im lặng trong khi cô ta ngả người thoải mái trên ghế và bắt đầu nghiêm túc uống món rượu gin của mình. Cô là kiểu con chiên nhiệt thành nhưng vô kỉ luật mà các phóng viên truyền hình sẽ gọi là ngoan đạo sâu sắc - cô khăng khăng rằng tôn giáo của cô là một nguồn sức mạnh lớn lao. Bao gồm việc thường xuyên tham dự các buổi giảng trưa Chủ Nhật về sức hút cá nhân và những buổi giảng chiều thứ Tư về con người thành đạt trong kinh doanh nhờ cầu nguyện. Đức tin của tôn giáo ấy dựa trên tín ngưỡng rằng bất kể chuyện gì xảy ra, mọi thứ rồi sẽ tốt đẹp, đạo lí ở đây là mỗi người phải tự quyết định cái gì là đúng đắn cho chính mình. Betty Jo có lẽ đã quyết định chọn rượu gin và tiền trợ cấp, như rất nhiều người khác.

Trong mấy tuần sống cùng người phụ nữ này, y đã học được rất nhiều về một khía cạnh của xã hội Mĩ mà những chương trình truyền hình không hề cung cấp chút nào. Y được biết về sự thịnh vượng chung đang không ngừng lớn mạnh, như hoa của một cây cần sa khổng lồ, ương ngạnh đến khó tin, trong bốn mươi năm kể từ khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc, và y được biết làm thế nào sự thịnh vượng này được phân phối và bị dùng cạn bởi gần như toàn bộ tầng lớp trung lưu mà cứ mỗi năm trôi qua, bỏ thêm thời gian vào công việc ít sáng tạo hơn và kiếm về nhiều tiền hơn cho sự thịnh vượng ấy. Đó chính là tầng lớp trung lưu sống cực kì tiện nghi và ăn diện thừa mứa mà hầu hết các chương trình truyền hình xoay quanh, để rồi người ta dễ dàng hình thành ý niệm rằng tất cả dân Mĩ đều trẻ trung, rám nắng, ánh mắt sắc sảo và đầy hoài bão. Nhờ gặp Betty Jo, y được biết rằng có một tầng lớp xã hội đông đảo bên dưới hoàn toàn không bị tác động bởi hình mẫu của tầng lớp trung lưu này, rằng có một đám đông khổng lồ, bàng quan hầu như không sở hữu bất kì tham vọng hay phẩm giá nào cả. Y đã đọc về lịch sử đủ để biết rằng những người như Betty Jo có lẽ từng là giai cấp công nhân bần cùng, nhưng giờ đây họ là giai cấp sung túc trong xã hội công nghiệp này, sống nhàn tản trong những tòa nhà do chính quyền xây dựng... Betty Jo thuê một căn hộ ba phòng trong khu nhà ở bằng gạch cũ kĩ, to lớn, giờ suýt soát một khu ổ chuột. Cô sống bằng những tấm séc từ cơ man các tổ chức phúc lợi: Phúc lợi Liên bang, Phúc lợi Quốc gia, Cứu tế Khẩn cấp, Trợ cấp Tình thương. Xã hội Mĩ giàu có quá đỗi đến nỗi có thể chu cấp cho tám hay mười triệu thành viên trong tầng lớp của Betty Jo một đời sống an nhàn tồi tàn với đồ thùng và rượu gin nơi các đô thị, trong khi phần đông dân chúng thảnh thơi phơi nắng để có bầu má rám hồng hào ở những hồ bơi ngoại ô và chạy theo những xu hướng tân thời về quần áo, phương pháp nuôi dạy trẻ, các món rượu pha chế và việc nội trợ, tham gia những trò chơi vô tận có yếu tố tôn giáo, phân tâm học và “cân bằng niềm vui cuộc sống”. Ngoại trừ Farnsworth, kẻ vẫn thuộc về một tầng lớp khác, hiếm hoi hơn, một tầng lớp giàu có thật sự, tất cả những người Newton đã gặp đều ở tầng lớp trung lưu này. Toàn bộ họ toát lên một vẻ tương đồng và nếu ta bắt gặp họ ở hoàn cảnh tự nhiên, khi bàn tay họ không chìa ra một cách thân ái hoặc bộ mặt không hiện lên vẻ giả dối thông thường đầy phô trương và ấu trĩ, họ sẽ có gì hơi bồn chồn, mất mát. Dường như Newton thấy rằng Betty Jo, với món rượu gin của cô, sự nhàn rỗi của cô, những con mèo của cô, và những đồ nội thất hàng thùng của cô, có phần tốt đẹp hơn tầng lớp xã hội ấy.

Cô từng tham gia một hội nhóm, với vài “người bạn gái” ở các căn hộ khác trong tòa nhà này. Những lúc ấy y nằm trong phòng ngủ, không thấy được gì, nhưng vẫn có thể nghe được họ hát những bài thánh ca quen thuộc như Vầng đá muôn đời và Phúc âm muôn thuở , uống rượu gin đến say mèm và đắm mình vào cảm xúc ủy mị, và y thấy dường như trong trạng thái sa ngã cảm xúc ấy họ mãn nguyện hơn nhiều so với niềm thỏa mãn mà tầng lớp trung lưu đạt được bằng những buổi tiệc nướng kiểu La Mã, hồ bơi chìm ngập rượu chè lúc nửa đêm và những cuộc làm tình chóng vánh. Nhưng ngay cả Betty Jo cũng không thật tâm với những bài thánh ca ngây ngô nọ, bởi lẽ sau khi những phụ nữ khác đã rời đi, trong trạng thái say mèm, về lại căn hộ ba phòng của họ, cô lại nằm lên giường, cạnh bên y, khúc khích kể với y sự ngớ ngẩn của lễ Rửa tội, của việc hát Thánh ca, của giáo lí Phục hưng mà gia đình cô, những người gốc Kentucky, đã dùng để dạy dỗ cô lớn lên và làm thế nào cô đã “trưởng thành và bỏ ngoài tai tất cả, dù thỉnh thoảng cũng có chút gì đáng yêu khi hát lên những bài ca ấy”. Newton không đưa ra nhận xét gì, nhưng y không kiềm được thắc mắc. Y đã xem nhiều lần chương trình “Giờ phấn hưng xưa” 14 , bằng các cuốn băng cũ ở Anthea, và y đã xem một giờ phấn hưng “nay” ở nhà thờ “đã tiếp cận Thiên Chúa đầy sáng tạo,” mà trong đó người ta chỉ dùng một cây phong cầm điện chơi các bản waltz của Strauss 15 và các đoạn trong khúc mở đầu vở Thi nhân và nông dân 16 . Y không chắc liệu những người này có hoàn toàn tỉnh táo trong quá trình dựng nên thứ hiện thân lạ lùng ấy không, một thứ mà ở Anthea hoàn toàn không có - tuy thế đó là thứ mà những cư dân Anthea, trong những chuyến viếng thăm xa xưa tới hành tinh này, ắt đã gây nên - thứ hệ thống đặc thù của những khởi đề và lời hứa hẹn được gọi là tôn giáo. Dẫu vậy, y không hiểu quan niệm ấy cho lắm. Dân Anthea tin rằng, chắc chắn, có các vị thần trong vũ trụ này, hoặc những tạo vật có thể gọi là các vị thần, nhưng đó không phải là việc quan trọng gì với họ, không quan trọng như nó thật sự quan trọng với hầu hết nhân loại. Tuy vậy, niềm tin lâu đời của nhân loại vào tội lỗi và cứu chuộc có ý nghĩa với y. Và y, như toàn thể dân Anthea, hoàn toàn quen thuộc với cảm giác tội lỗi và mong muốn chuộc lỗi. Nhưng giờ đây nhân loại dường như đang xây lên những công trình yếu ớt, lung lay của thứ niềm tin nửa vời và tính ủy mị để thay vào chỗ những tôn giáo của họ, và y không biết phải hiểu sao về chuyện đó, y thật sự không thể hiểu tại sao Betty Jo lại quá bận tâm đến thứ sức mạnh tưởng tượng mà cô nhận được qua những bài giảng hằng tuần từ ngôi nhà thờ giả trá của cô, một thứ sức mạnh có vẻ ít chắc chắn hơn và rắc rối hơn sức mạnh mà cô nhận được từ món rượu gin của mình.

Sau một lúc y hỏi xin cô ta một cốc rượu vang. Cô sốt sắng làm việc ấy cho y, đưa cho y chiếc cốc rượu nhỏ bằng pha lê mà cô đã đặc biệt mua cho riêng y và rót rượu ra từ chai một cách điệu nghệ. Y uống cạn khá nhanh. Y đã học được cách thưởng thức chất cồn một cách đáng kể, trong suốt quá trình hồi phục ở đây.

“Chậc!” Y nói, khi cô đang rót cốc thứ hai cho mình, “Tôi hi vọng sẽ có thể rời đi vào tuần sau.”

Cô ngập ngừng một chốc, sau đó rót cho xong chỗ rượu. “Sao thế hả, Tommy?” Đôi lúc say cô gọi y là Tommy. “Có gì đâu mà vội vã.”