← Quay lại trang sách

⚝ 9 ⚝

Họ bay qua những dãy núi, nhưng chiếc máy bay nhỏ di chuyển rất ổn định. Người phi công có tay lái cực kì vững vàng, đến độ không hề thấy những cú trồi sụt lên xuống, gần như không có cảm giác chuyển động. Họ bay qua hạt Harlan của bang Kentucky, một đô thị xám ngắt buồn tẻ nằm rải rác trên những sườn đồi thấp quanh các dãy núi, rồi qua những cánh đồng hoang vu, mênh mông và sà xuống một thung lũng. Bryce, trong tay là một cốc whisky, ngắm nhìn ánh sáng lập lòe xa xa của một hồ nước, mặt hồ tĩnh lặng lấp lánh như một đồng xu mới cóng đẹp đẽ. Rồi họ sà xuống thấp hơn nữa, không còn nhìn thấy hồ nước, và hạ cánh trên một đường băng bê tông mới xây rộng rãi trên phần đất thung lũng bằng phẳng, giữa những bụi đậu chổi và lớp đất sét đỏ được xới tung, như một biểu đồ Euclid trập trùng được một vị thần có thiên tư hình học vẽ lên đó bằng thứ phấn màu xám.

Bryce bước ra khỏi máy bay, đi vào tiếng ầm ầm cao độ của máy móc xây dựng, vào đám đông hỗn độn những người đàn ông mặc áo sơ mi ka ki, mặt đỏ au vì nhiệt độ nóng bức của mùa Hè, gào lên cộc cằn với nhau, trong công cuộc xây dựng những tòa nhà mà gã không nhận diện được là gì. Có những nhà xưởng để máy, một kiểu lán trại xếp thành dãy, xây trên nền xi măng rộng lớn. Trong chốc lát, rời khỏi sự yên tĩnh và mát mẻ của chiếc máy bay được lắp điều hòa, êm ái - chiếc máy bay tư nhân của Thomas Jerome Newton, được cử đến Louisville đón gã - gã thấy hoang mang, choáng váng bởi sức nóng và tiếng ồn, bởi toàn thể hoạt động sôi sục mà gã chưa được sáng tỏ này.

Một người đàn ông trẻ, diện mạo thô kệch như trong các quảng cáo thuốc lá, bước ra chỗ gã. Người đàn ông ấy đội mũ cối, tay áo xắn cao, để lộ ngồn ngộn những cơ bắp trẻ trung, rám nắng, anh ta giống hệt một người hùng như các anh hùng được khắc họa trong thứ tiểu thuyết cho các cậu con trai, chính thứ tiểu thuyết mà với Bryce gần như chìm vào quên lãng ấy, vào thuở niên thiếu tràn đầy khát vọng mà giờ đây chỉ còn lờ mờ trong kí ức, đã khiến gã tận tụy hiến dâng đời mình cho sự nghiệp kĩ thuật. Một kĩ sư hóa học, một con người của khoa học và của hành động. Gã không cười lại với người đàn ông trẻ tuổi, mà mải nghĩ về vòng bụng của mình, về bộ tóc hoa râm, và về vị rượu whiskey trong miệng, nhưng gã gật đầu tỏ ý đã thấy.

Người đàn ông chìa tay ra. “Ông là giáo sư Bryce?”

Gã bắt lấy cái bàn tay nọ, cứ tưởng sẽ nhận được một cú siết chặt tay màu mè và hài lòng khi được nhận một cái bắt tay hòa nhã. “Không còn là giáo sư nữa. Nhưng tôi đúng là Bryce.”

“Hay. Hay lắm. Tôi là Hopkins. Foreman.” Lối cư xử thân thiện của người đàn ông này thật giống với loài chó, như đang xin xỏ sự tán thành. “Ông nghĩ sao về tất cả mọi thứ ở đây, tiến sĩ Bryce?” Anh ta ra dấu về phía những tòa nhà đang xây lên. Ngay phía bên kia nữa là một tòa tháp cao, hình như là một tháp ăng ten để phát một thứ sóng gì đó.

Bryce hắng giọng. “Tôi không biết nữa.” Gã bắt đầu thắc mắc về thứ người ta đang tiến hành ở đây, nhưng cuối cùng cho rằng việc mình tỏ vẻ không biết sẽ thành ra lúng túng. Tại sao cái tay ngốc béo phì ấy, cái tay Farnsworth ấy, không cho gã biết gã được thuê để làm gì? “Ông Newton có mong ngóng tôi không?” Gã hỏi to, không nhìn người đàn ông.

“Chắc rồi. Chắc rồi.” Đột nhiên tỏ vẻ năng nổ, người đàn ông trẻ kéo gã đi một vòng, tới phía bên kia chiếc máy bay. Ở đó có một chiếc xe nhỏ, đậu sẵn trên một đường ray đơn lấp lóe ánh nắng, chạy uốn lượn vào giữa những ngọn đồi bên sườn thung lũng như một nét chì mỏng màu bạc, mà trước đó bị che khuất. Hopkins đẩy cửa ra sau, bên trong là nội thất bọc da bóng láng và không gian tối mờ dễ chịu. “Xe này sẽ đưa ông lên nhà trong năm phút.”

“Nhà nào? Cách đây bao xa?”

“Khoảng bốn dặm. Tôi sẽ gọi báo trước và Brinnarde sẽ đón ông. Brinnarde là thư kí của ông Newton, ông ấy có lẽ sẽ là người tiếp ông.”

Bryce phân vân trước khi vào xe. “Tôi sẽ không gặp ông Newton sao?” Ý nghĩ ấy khiến gã thất vọng, sau hai năm vừa qua, gã vẫn không gặp được con người đã sáng chế ra Worldcolor, điều hành các nhà máy lọc dầu lớn nhất Texas, phát triển truyền hình 3D, âm bản phim có thể tái sử dụng, kĩ thuật tự tinh chỉnh trong qui trình in chuyển màu... Con người có thể xem là thiên tài sáng chế độc nhất vô nhị trên thế giới hoặc là một sinh vật ngoài hành tinh.

Người đàn ông trẻ cau mày. “Tôi e là không. Tôi đã ở đây sáu tháng và tôi chưa bao giờ giáp mặt ông ấy, chỉ trông thấy ông ấy ngồi sau cửa sổ chiếc xe mà ông sắp bước lên đây. Khoảng một lần một tuần ông ấy xuống dưới này bằng xe đó, để thị sát, tôi đoán vậy. Nhưng ông ấy không bao giờ ra khỏi xe, và bên trong thì quá tối đến độ không thấy rõ mặt, chỉ thấy bóng ông ấy nhìn ra ngoài mà thôi.”

Bryce bước vào, yên vị trong xe. “Ông ấy không bao giờ ra ngoài sao?” Gã hất cằm về phía chiếc máy bay, ở đó một nhóm thợ cơ khí, đột ngột hiện ra từ đâu không biết, đang bắt đầu kiểm tra động cơ. “Để bay... đi đâu đó?”

Hopkins nhe răng cười, một cách ngớ ngẩn, Bryce thấy thế. “Chỉ ban đêm thôi, và ta không thể thấy ông ấy lúc đó. Dù vậy, ông ấy là một người cao ráo và gầy gò. Người phi công kể với tôi như vậy, nhưng chỉ vậy không hơn. Tay phi công ấy không phải kẻ thích tán chuyện cho lắm.”

“Tôi hiểu.” Gã chạm lên chiếc nút ở cửa và cửa trượt đóng lại, không tiếng động. Trong lúc cửa đóng, Hopkins nói: “Chúc ông may mắn!” Gã vội đáp “Cảm ơn anh” nhưng không biết giọng gã có bị cánh cửa đóng lại ngắt mất không.

Giống chiếc máy bay, chiếc xe được cách âm và rất mát mẻ. Cũng giống chiếc máy bay, xe bắt đầu chuyển động và gia tốc khẽ như không, tốc độ gia tăng êm ái đến nỗi gần như không cảm giác được xe chuyển động. Gã tăng độ trong suốt của cửa sổ bằng cách xoay chiếc núm bạc nhỏ rõ là dành cho mục đích này và ngắm những lán trại xây dựng bằng nhôm toát lên vẻ mỏng manh, và những tốp công nhân... Một cảnh tượng bất thường và đẹp mắt, gã nghĩ bụng, trong thời đại của những phân xưởng tự động và những ngày làm việc sáu tiếng đồng hồ. Những người đàn ông trông có vẻ hăm hở, làm việc nhiệt tình, mồ hôi tuôn chảy dưới ánh nắng Kentucky. Đầu gã nảy ra ý nghĩ rằng họ ắt phải được trả công rất hậu hĩnh để tới chốn hoang vu này, xa xôi cách trở với những bãi golf, những sòng bạc lớn và những thú giải khuây khác của dân lao động. Gã trông thấy một người đàn ông trẻ - rất nhiều trong số họ có vẻ trẻ - ngồi trên nóc chiếc xe xúc đất to tướng, cười toe toét thích chí xúc một đống bùn đất lớn. Trong một chốc Bryce thấy ghen tị với anh ta vì công việc ấy và vì sự quả quyết mù quáng, non trẻ của anh ta, để mà ung dung tự tại dưới mặt trời nóng bức.

Một chốc sau xe đưa gã rời xa công trường xây dựng và len lỏi qua những ngọn đồi rậm rạp cành lá. Giờ đây xe di chuyển quá nhanh đến độ cây cối trong tầm gần hóa thành vệt nhòe trộn lẫn giữa ánh nắng và đám lá xanh, giữa ánh sáng và bóng râm. Gã ngả lưng lên những tấm đệm êm ái phi thường, cố gắng thả lỏng. Nhưng gã quá phấn khích, quá hồi hộp trước sự việc diễn ra chóng vánh và toàn thể nỗi kích động gây nên bởi một nơi chốn mới mẻ, xa lạ. Quá sung sướng, khi giờ đây được rời xa Iowa, rời xa những sinh viên đại học, những tay trí thức mặt râu, những kẻ như Canutti. Gã nhìn ra hướng cửa sổ, ngắm nghía khung cảnh vụt qua càng lúc càng nhanh của ánh sáng, bóng tối, ánh sáng, những bóng râm tối sẫm và xanh nhạt, và rồi, đột nhiên phía trước gã, khi chiếc xe lướt lên một sườn dốc, gã trông thấy hồ nước sáng lên lập lòe, trải dài trong thung lũng như một tấm kim loại màu xám xanh kì thú, một chiếc đĩa khổng lồ chìm trong cảnh tịch mịch. Ngay bên kia hồ nước nhô lên, trong bóng núi, một dinh thự cổ xưa to lớn, màu trắng với cổng vòm có hàng cột trắng và những cửa sổ lớn có cánh chớp, lặng lẽ tọa lạc bên bờ hồ mênh mông, một cách vững vàng, ngay chân một ngọn núi. Rồi ngôi nhà và hồ nước, nhìn từ xa, biến mất sau một ngọn đồi khác khi đường ray sà xuống dưới, và gã nhận ra chiếc xe đang bắt đầu giảm tốc. Một phút sau ngôi nhà và hồ nước lại hiện ra, chiếc xe nghiêng mình duyên dáng theo khúc cong của đường ray, nhẹ nhàng lượn dọc bờ hồ và gã trông thấy một người đàn ông đứng ở bên nhà, đợi gã. Chiếc xe dừng lại một cách êm ái và Bryce hít vào một hơi sâu, chạm vào tay nắm cửa, nhìn cánh cửa khung gỗ trượt mở không tiếng động rồi bước ra ngoài, vào trong bóng núi và mùi hương của những cây bách, trong tiếng nước khẽ khàng gần như không nghe thấy vỗ vào bờ hồ. Người đàn ông kia nhỏ thó, da ngăm, với đôi mắt linh động và bộ ria mép. Anh ta bước lên phía trước, mỉm cười lịch sự. “Tiến sĩ Bryce?” Anh ta nói giọng Pháp.

Đột nhiên cảm thấy hồ hởi, gã trả lời: “ Monsieur Brinnarde? ” (Ngài Brinnarde?) đoạn chìa tay cho người đàn ông nọ. “ Enchanté. ”(Hân hạnh được gặp.)

Người đàn ông bắt lấy tay gã, cặp lông mày khẽ nhướn. “ Soyez le bienvenu, Monsieur le Docteur. Monsieur Newton vous attend. Alors... ” (Chào mừng ông, thưa ngài tiến sĩ. Ông Newton đang đợi ngài. Vậy...)

Bryce như ngừng thở. “Ngài Newton sẽ tiếp tôi ư?”

“Phải. Tôi sẽ dẫn đường cho ngài.”

Bên trong ngôi nhà, ba con mèo chào đón gã, con nào con nấy nhìn chằm chằm gã từ dưới sàn nhà nơi chúng đang đùa nghịch. Chúng có vẻ là lũ mèo hoang thông thường nhưng được nuôi béo tốt và ra điều khinh miệt trước sự xuất hiện của gã. Gã không thích lũ mèo. Người đàn ông Pháp lặng lẽ dẫn đường cho gã qua phòng khách và lên một cầu thang được trải thảm dày. Có những tranh ảnh trên các bức tường... các họa phẩm hoạt cảnh trông có vẻ đắt tiền, kì dị mà gã không nhận ra được tác giả là ai. Cầu thang rất rộng rãi, uốn lượn. Gã chú ý thấy nó được lắp một thứ ghế chạy động cơ, lúc này đang gấp lại, có thể chạy lên chạy xuống dọc lan can. Lẽ nào Newton là người tàn tật? Trong nhà như thể không có ai khác ngoài hai người họ, và lũ mèo. Gã liếc lại phía sau, chúng vẫn nhìn gã chằm chằm, mắt mở to, đầy thọc mạch và xấc xược.

Ở trên đầu cầu thang là một hành lang và cuối hành lang là một cánh cửa, hiển nhiên dẫn vào phòng Newton. Cửa mở và một người đàn bà có da có thịt với đôi mắt ảm đạm bước ra, trên người đeo tạp dề. Cô ta bước lại chỗ họ, chớp mắt với gã và cất tiếng. “Chắc ông đây là giáo sư Bryce.” Giọng cô niềm nở và lào khào, nghe trầm thấp, mang khẩu âm của những vùng hẻo lánh.

Gã gật đầu và cô ta dẫn gã đến cửa. Gã bước vào một mình, bất thần nhận thấy chính mình đang thở nhanh và hai chân chao đảo.

Căn phòng rộng lớn và không khí trong phòng lạnh lẽo. Ánh sáng nhờ nhờ tỏa ra từ một ô cửa sổ lớn, một cửa sổ lồi hơi đục trông xuống hồ. Đồ nội thất được bài trí khắp nơi, theo một bố cục màu sắc khó hiểu - những chiếc trường kỉ nặng nề, một chiếc bàn ăn, mấy chiếc bàn viết, tất cả hiện lên với những sắc xanh lam và xám và thứ màu cam xỉn khi mắt gã đã quen với ánh sáng lờ mờ ngả vàng. Hai bức tranh đối diện gã trên mặt tường phía sau, một bức là tranh khắc hình một con chim lớn, một con diệc hoặc sếu Mĩ, bức còn lại là một họa phẩm trừu tượng táo bạo sáng tác bởi ai đó như là Klee 17 . Có lẽ là tranh của Klee. Hai họa phẩm không hề hợp nhau. Ở góc phòng là một lồng chim lớn, với một con vẹt có lông hai sắc đỏ và tía, hình như đang ngủ. Và giờ đây bước chậm rãi về phía gã, chống gậy, là một người đàn ông cao, gầy, với những đường nét mơ hồ. “Giáo sư Bryce?” Giọng ông ta trong, pha ít khẩu âm, nghe lọt tai.

“Vâng. Ông là... ông Newton?”

“Phải. Ta ngồi xuống và nói chuyện một lúc chứ?”

Gã ngồi xuống và họ trò chuyện trong vài phút. Newton vui vẻ, mềm mỏng, cung cách có đôi chút cẩn trọng quá mức, nhưng không phải kiểu ra vẻ phách lối hay hợm hĩnh. Ông ta có phẩm giá một cách tự nhiên, và thảo luận về bức tranh mà Bryce nhắc đến - đó quả là tranh của Klee - đầy thích thú và trí tuệ. Giữa lúc nói, ông ta đứng dậy một lúc để chỉ vào một chi tiết trên tranh và lần đầu tiên Bryce nhìn rõ được gương mặt người đàn ông ấy. Đó là một bộ mặt thanh tú, những đường nét duyên dáng, gần như nữ tính, với nét mặt lạ lùng. Ngay lập tức cái ý nghĩ, cái ý nghĩ ngớ ngẩn mà gã đã đùa cợt trong suốt một năm trời, trỗi lên mạnh mẽ trong đầu gã. Trong một chốc, ngắm nhìn người đàn ông cao ráo, lạ lùng ấy giơ ngón tay thon dài về phía bức họa theo lối nghịch dị, với đường nét hỗn loạn trong ánh sáng tù mù, ý nghĩ ấy dường như không còn ngớ ngẩn một chút nào nữa. Tuy nhiên, đó đúng là một chuyện ngớ ngẩn, và khi Newton quay lại với gã, mỉm cười, và nói: “Tôi nghĩ hai ta nên uống chút gì, giáo sư Bryce ạ”, ảo tưởng ấy tan biến hoàn toàn và lí trí đã trở lại với Bryce. Trên đời có những kẻ với bề ngoài dị hợm hơn người đàn ông này và trước đây cũng từng có những nhà phát minh sáng chói.

“Tôi rất vui nếu được uống với ông,” gã nói rồi thêm, “Tôi biết ông là người bận rộn.”

“Không ông ạ.” Newton mỉm cười ung dung, bước về phía cửa. “Ít ra là hôm nay thì không. Ông muốn uống gì?”

“Rượu scotch. Nếu ông có món đó.” Nhưng gã ngưng ngang. Gã cho là Newton sẽ có món này. “Rượu scotch và nước lọc.”

Thay vì nhấn nút hoặc rung chuông - trong ngôi nhà này rung chuông sẽ không phải chuyện gì lạ Newton chỉ mở cửa và gọi với ra: “Betty Jo.” Khi cô lên tiếng đáp, y nói: “Mang cho giáo sư Bryce rượu scotch, với nước lọc và đá. Cho tôi rượu đắng và món rượu gin của tôi.” Rồi y đóng cửa và trở lại ghế. “Chỉ dạo gần đây tôi mới ưa món rượu gin.” Y nói. Bryce âm thầm rùng mình khi nghĩ tới món rượu gin uống cùng rượu đắng.

“Chậc, giáo sư Bryce, ông nghĩ sao về công trường của chúng tôi ở đây? Tôi cho là ông đã trông thấy mọi... hoạt động khi ông xuống máy bay?”

Gã dựa vào ghế, thả lỏng, cảm thấy thoải mái hơn hẳn lúc nãy. Newton có vẻ rất lịch thiệp, tỏ ra hứng thú một cách thật tâm để nghe gã phát biểu. “Phải. Trông rất hay. Nhưng nói thật với ông là tôi không biết ông đang xây thứ gì.”

Newton nhìn gã chằm chằm trong một thoáng, rồi bật cười. “Oliver không nói với ông sao, ở New York ấy?”

Bryce lắc đầu.

“Oliver có thể rất kín tiếng. Tôi hiển nhiên không hề muốn ông ấy phải kín tiếng đến vậy.” Y mỉm cười, lần đầu tiên. Bryce ngờ ngợ băn khoăn với nụ cười này, dù gã không biết được chính xác điều gì khiến mình băn khoăn. “Có lẽ đó là lí do ông yêu cầu gặp tôi?”

Hiển nhiên gã không quá đặt nặng việc ấy. “Có lẽ vậy.” Bryce nói. “Nhưng tôi cũng có các lí do khác nữa.”

“Vâng.” Newton định nói gì đó, nhưng ngưng lại khi cánh cửa mở ra và Betty Jo bước vào, mang theo các thứ chai lọ trên một chiếc khay. Bryce quan sát cô ta ở cự li gần. Đó là một người đàn bà trung niên, có chút hương sắc, loại đàn bà mà ta nghĩ sẽ gặp ở một sân khấu kịch chiều hoặc một câu lạc bộ bài cầu 18 . Dẫu vậy, mặt cô ta không vô hồn, ngu tối, mà có một vẻ gì nồng hậu, đôi chút hóm hỉnh hoặc tinh nghịch, quanh đôi mắt cô và trên đôi môi căng mọng. Nhưng cô trông có phần lạc lõng với vai trò người hầu duy nhất hiện diện trong cơ ngơi của vị triệu phú này. Cô chẳng nói gì, chỉ đặt các thức uống xuống, và khi cô đi ngang qua gã trên đường trở ra, gã kinh ngạc vì ngửi thấy hỗn hợp mùi không lẫn đi đâu được trộn giữa rượu và nước hoa trên người cô.

Rượu scotch được khui mới, và gã pha cho chính mình một cốc rượu với đôi chút thích thú và ngạc nhiên. Đây là cách các nhà khoa học triệu phú làm việc chăng? Cứ việc yêu cầu đem rượu lên và một người hầu chớm say sẽ mang vào một phần năm ga-lông rượu? Chắc là đúng vậy rồi. Hai người họ rót rượu trong im lặng và rồi, sau cốc đầu tiên, Newton thình lình nói: “Đó là một phi thuyền thám hiểm không gian.”

Bryce chớp mắt, không hiểu được người đàn ông ấy nói gì. “Sao cơ?”

“Thứ chúng ta đang xây dựng ở đây là một phi thuyền thám hiểm không gian.”

“Ồ?” Gã ngạc nhiên, nhưng không nhiều nhặn mấy. Tàu thám hiểm không gian, không người lái, kiểu này hoặc kiểu kia thường thấy... Ngay cả khối Cuba cũng đã chế tạo một chiếc cách đây vài tháng.

“Vậy ông sẽ cần tôi thực hiện phần kim khí cho khung tàu?”

“Không.” Newton chậm rãi nhấm nháp món rượu của y, và nhìn ra cửa sổ như thể đang nghĩ ngợi về thứ gì khác. “Phần khung đã lên kế hoạch ổn thỏa rồi. Tôi muốn ông nghiên cứu các hệ thống chứa nhiên liệu... để tìm các vật liệu có thể chứa một số loại hóa chất, như các chất đốt, chất thải và những thứ tương tự.” Y quay lại với Bryce, mỉm cười lần nữa, và Bryce nhận ra nụ cười này khiến gã ngờ ngợ băn khoăn bởi nó toát lên chút gì mỏi mệt thật khó hiểu. “Tôi e là tôi biết rất ít về vật liệu... Nhiệt học, tính chịu axit và các ứng lực. Oliver đã nhận xét ông là một trong những người xuất sắc nhất ở lĩnh vực này.”

“Farnsworth có lẽ đánh giá tôi quá cao, nhưng tôi cũng xem như thông thạo việc này.”

Chủ đề trò chuyện dường như đã kết thúc và họ im lặng trong chốc lát. Từ khoảnh khắc Newton đề cập đến chiếc tàu thám hiểm vũ trụ thì mối ngờ vực cũ liền trở lại, hiển nhiên thôi. Nhưng cùng với mối ngờ vực ấy là sự bác bỏ cũng hiển nhiên. Nếu Newton, vì một sự phi lí điên rồ nào đó, đến từ một hành tinh khác, ông ta và đồng loại hẳn sẽ không chế tạo phi thuyền vũ trụ làm gì. Họ tất đã có sẵn thứ ấy rồi. Gã tự cười chính mình, tự nhạo bài diễn thuyết ở trình độ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng rẻ tiền trong đầu gã. Nếu Newton đến từ Sao Hỏa hoặc Sao Kim, có lẽ ông ta nên, và có quyền, mang đến trái đất những vũ khí bắn tia hồng ngoại để rán chín New York hoặc lên kế hoạch nghiền nát Chicago, hoặc bắt các cô gái trẻ tới những căn cứ ngầm dưới đất để thực hiện những nghi thức hiến tế siêu nhiên. Betty Jo ư? Giờ đây gã thấy mình thật giàu trí tưởng tượng, với món rượu whisky và tình trạng kiệt sức, gã gần như muốn cười to vào ý nghĩ ấy: Betty Jo, trên một tấm áp phích phim, với Newton đội mũ bảo hộ bằng nhựa, uy hiếp cô ta bằng một khẩu súng bắn tia, một khẩu súng bạc, kềnh càng với những khe bức xạ nhiệt cồng kềnh bắn ra những tia sáng hình zíc zắc. Newton vẫn đang lơ đãng nhìn ra cửa sổ. Y đã uống xong cốc rượu gin thứ nhất và đang rót cho bản thân một cốc khác. Một cư dân Sao Hỏa chìm trong rượu chè ư? Một sinh vật ngoài hành tinh uống rượu gin và rượu đắng ư?

Trước đó Newton đã lên tiếng bất chợt, nhưng không hề khiếm nhã, và một lần nữa y quay đầu, thình lình hỏi. “Sao ông lại muốn gặp tôi hả ông Bryce?” Giọng y không phải kiểu hạch sách, mà chỉ là hiếu kì.

Câu hỏi này khiến gã bất ngờ, và gã ngập ngừng, tự rót lấy một cốc rượu khác để khỏa lấp sự ngập ngừng ấy. Rồi gã nói. “Tôi lấy làm ấn tượng với thành tựu của ông. Các thứ phim chụp ảnh... màu, tia X... và những sáng kiến trong các đồ điện tử của ông. Tôi nghĩ đó là... những ý tưởng độc đáo nhất mà tôi được thấy trong những năm qua.”

“Cảm ơn ông.” Lúc này Newton dường như hứng thú hơn. “Tôi cứ nghĩ rất ít ai biết rằng tôi... phụ trách những thứ ấy.”

Có gì đó trong cái lối nói chuyện thản nhiên, chán chường của Newton khiến gã thấy hơi hổ thẹn về bản thân, hổ thẹn về sự tọc mạch đã khiến gã lần theo dấu vết của tập đoàn W. E. tới Farnsworth, và bắt ép Farnsworth sắp xếp cuộc gặp riêng này. Gã thấy mình như một đứa trẻ cố gắng gây chú ý với một người cha nuông chiều con và thất bại, thay vào đó chỉ làm phiền nhiễu và gây mỏi mệt cho người đàn ông nọ. Trong một chốc gã nghĩ có lẽ mặt mình đã đỏ lên vì thẹn và thấy may mắn là quả nếu vậy thì nhờ trời cũng khó thấy vì ánh sáng ảm đạm trong phòng.

“Tôi... tôi luôn ngưỡng mộ một bộ óc cừ khôi.” Không biết vì lẽ gì gã đâm ra ngượng nghịu và gã biết, trong lúc thầm nguyền rủa chính mình, gã đang nói chuyện không khác gì một cậu học trò. Nhưng khi Newton trả lời với vẻ khiêm cung và lễ độ, Bryce bị sửng sốt vì lúng túng nhận ra ngay lập tức, rằng người đàn ông kia có lẽ đã ngà say. Gã nghe y nói những lời lẽ mơ hồ, lãnh đạm, xa vắng, trông thấy đôi mắt to của y hiện lên vẻ xao nhãng, mất tập trung, và nhận ra rằng Newton, gần như không thấy rõ được, hoặc là rất say - say một cách điềm tĩnh, bình thản - hoặc là rất đau ốm. Và đột nhiên gã thấy lòng mình dâng lên một sự trìu mến nhiệt thành với người đàn ông gầy gò, cô độc này. Chính gã cũng say rồi hay sao? Liệu Newton có phải cũng là một kẻ chuyên tìm đến men rượu, trong sự tĩnh lặng của buổi sáng, liệu y có đang tìm kiếm... tìm kiếm lí do nào đó khả dĩ để một người tỉnh trí trong một thế giới mất trí thôi say xỉn vào buổi sáng không? Hay đó chỉ là một trong những phút lầm lạc sa đọa của thiên tài, một ý niệm trừu tượng lẻ loi và rồ dại, luồng khí độc trên bầu trời của bậc kì tài điện tử?

“Oliver đã thu xếp với ông chuyện lương rồi chứ? Ông có hài lòng không?”

“Chuyện đó được thu xếp hết sức ổn thỏa.” Gã đứng dậy, nhận ra rằng câu hỏi của Newton đã khép lại buổi gặp mặt. “Tôi hết sức mãn nguyện với mức lương.” Và rồi, trước khi xin phép rời đi, gã nói: “Không biết tôi có thể hỏi ông một điều sau chót không, thưa ông Newton?”

Newton hầu như không nghe gã nói gì, y vẫn còn nhìn ra cửa sổ, những ngón tay mảnh dẻ của y nắm hờ lấy chiếc cốc rỗng, gương mặt y toát lên vẻ hòa nhã, không thấy nếp nhăn nào, vậy mà vẫn rất già nua. “Tất nhiên rồi, giáo sư Bryce.” Y nói, giọng khẽ khàng, gần như là thì thầm.

Gã lại cảm thấy thật lúng túng. Người đàn ông này ôn hòa đến mức vô lí. Gã hắng giọng và chú ý thấy, bên kia phòng, con vẹt đã tỉnh, nó nhìn gã chòng chọc với một vẻ tọc mạch như lũ mèo trước đó. Gã thấy choáng váng và giờ đây biết chắc rằng mình đang đỏ mặt. Gã lắp bắp, “Cũng không có gì thực sự quan trọng, tôi cho là thế. Tôi sẽ... tôi sẽ hỏi ông lần khác vậy.”

Newton nhìn gã như thể y không nghe gã nói gì, và vẫn đang chờ nghe. Y nói: “Nhất định rồi. Lần khác.”

Bryce xin lượng thứ, rời phòng và bước đi, mắt nheo lại, sang không gian rực rỡ ánh sáng. Khi gã xuống lầu trở lại thì lũ mèo đã mất hút.