⚝ 10 ⚝
Suốt vài tháng tiếp theo Bryce bận rộn hơn bao giờ hết trong đời mình. Từ khoảnh khắc Brinnarde đưa gã rời dinh thự to lớn tới các phòng thí nghiệm nghiên cứu, xa xa phía bên kia hồ nước, bằng sự sốt sắng và nhiệt tình mà nhìn chung hoàn toàn xa lạ với mình, gã đã lao vào vô số những công việc mà Newton định sẵn. Các hợp kim chờ gã chọn lựa và phát triển, những thí nghiệm bất tận cần được tiến hành, những tiêu chuẩn lí tưởng đến siêu thực về độ chịu nhiệt và chịu axit phải đáp ứng trong các thứ chất dẻo, kim loại, nhựa resin và gốm sứ. Công việc này phù hợp lí tưởng với chuyên môn của gã, và gã đã điều chỉnh bản thân để quen việc thật chóng vánh. Gã quản lí một đội mười bốn người, một công xưởng bằng nhôm khổng lồ, bên trong là một phòng thí nghiệm cho gã tiến hành công việc, một ngân sách gần như vô hạn, một ngôi nhà riêng nhỏ có bốn phòng và được tự do bay tới Louisville, Chicago, hoặc New York, điều gã chưa từng trải nghiệm trước đây. Dĩ nhiên là có những mối bực bội và những chuyện lộn xộn, đặc biệt là trong việc cung cấp kịp thời những vật liệu và dụng cụ cần thiết, đôi khi là những ác cảm vặt vãnh giữa các trợ lí của gã. Dù vậy những chuyện trái ý này không bao giờ đủ lớn để trì hoãn công việc, chỉ là vài rắc rối nho nhỏ thường tình. Gã cảm thấy nếu không hạnh phúc thì cũng quá bận rộn để mà bất hạnh. Gã miệt mài, say sưa, theo một lối mà gã chưa bao giờ biết đến khi là giảng viên. Gã nhận thức rằng phần lớn đời gã phụ thuộc vào công việc của gã. Gã biết rằng bản thân đã cắt đứt hoàn toàn với việc giảng dạy, như gã đã cắt đứt nhiều năm trước đây với công việc trong bộ máy chính quyền. Rõ là gã bắt buộc phải tin tưởng vào công việc hiện tại. Gã đã quá già để thất bại lần nữa, để tiếp tục chìm vào nỗi thất vọng, gã sẽ không bao giờ có thể hồi phục nữa. Trong một chuỗi các sự kiện, bắt đầu với cuộn pháo súng và dựa trên một mối ngờ vực đậm mùi tiểu thuyết khoa học viễn tưởng ngớ ngẩn, gã đã may mắn vớ được một công việc mà nhiều người ao ước. Gã hay thấy chính mình làm việc tới tận đêm khuya, chìm đắm trong công việc và không còn uống rượu vào các buổi sáng. Có những thời hạn cần phải đáp ứng, những thiết kế phải sẵn sàng để đưa vào chế tạo theo lịch, và gã không lo âu về những thứ này. Gã luôn đi trước thời hạn đề ra. Thỉnh thoảng, khi nghĩ rằng công việc gã đang làm là nghiên cứu ứng dụng chứ không thật sự là nghiên cứu nền tảng, gã có chút gì băn khoăn. Thế nhưng giờ đây gã đã có đôi chút già cỗi, đôi chút vỡ mộng để lo âu về những thứ gọi là thanh danh, liêm chính. Có lẽ chỉ tồn tại một câu hỏi đạo đức thật sự là liệu công sức nghiên cứu của gã có đổ vào một thứ vũ khí mới, một phương tiện mới để hủy diệt con người hoặc tàn phá các đô thị hay không. Và câu trả lời cho điều đó là không. Họ đang xây dựng một phương tiện để mang các thiết bị bay quanh thái dương hệ, và rằng thứ ấy, nếu không đáng giá gì, ít ra cũng vô hại.
Một phần công việc thường nhật của gã là rà soát xem công việc tiến triển đến đâu so với hồ sơ thông số kĩ thuật của Newton mà gã nhận từ Brinnarde. Những tài liệu này, mà trong đầu gã gọi là “bản đặc tả của bậc thầy hàn chì”, bao gồm một lượng lớn các bản thông số kĩ thuật cho hàng trăm bộ phận nhỏ của qui trình đông lạnh, kiểm soát nhiên liệu và các hệ thống định hướng. Chúng đòi hỏi những con số đo lường đích xác về tính dẫn nhiệt, điện trở, tính bền vững hóa học, khối lượng, nhiệt độ cháy, và những thứ tương tự. Việc của Bryce là tìm kiếm vật liệu tối ưu, hoặc nếu không thì tìm kiếm lựa chọn tốt thứ hai. Đa phần việc này khá dễ dàng, quá đơn giản đến độ gã không kiềm được thắc mắc về sự ngờ nghệch ở mảng vật liệu của Newton. Tuy nhiên, vài trường hợp thì bản thông số kĩ thuật không tương thích với bất kì chất nào. Gã buộc phải thảo luận với các kĩ sư phụ trách dự án và xoay xở cho ra giải pháp thỏa hiệp tốt nhất. Sau đó giải pháp được chuyển cho Brinnarde và Newton sẽ quyết định. Các kĩ sư phụ trách dự án kể với gã là họ đã gặp loại vấn đề này trong suốt sáu tháng tiến hành dự án. Newton là một thiên tài về thiết kế, toàn bộ mô hình này là thứ tinh vi nhất họ từng thấy và bao gồm cả nghìn sáng kiến khiến người ta sửng sốt. Thế nhưng nó cũng phát sinh hàng trăm giải pháp thỏa hiệp và việc xây dựng con tàu vũ trụ sẽ không thể khởi sự trong một năm nữa. Toàn bộ dự án được lên kế hoạch để hoàn thành trong vòng sáu năm, tới năm 1990, và mọi người dường như nghi ngại về tiến độ. Nhưng sự phỏng đoán nọ không khiến Bryce bận tâm nhiều nhặn gì lắm. Mặc cho sự khả nghi trong cuộc trò chuyện giữa gã với Newton, gã cực kì tự tin về tài năng khoa học của con người lạ lùng ấy.
Thế rồi, vào một buổi tối mát mẻ ba tháng sau khi đặt chân đến Kentucky, Bryce có một khám phá. Đó là lúc gần nửa đêm và gã ở một mình trong văn phòng riêng tại một đầu của tòa nhà thí nghiệm. Gã đang mệt mỏi kiểm tra một loạt các bản thông số kĩ thuật, không mặn mà gì việc về nhà bởi lẽ buổi tối thật dễ chịu. Gã thích sự tĩnh lặng ở phòng thí nghiệm. Gã đang lơ đãng nhìn vào một trong các bản thông số của Newton. Đó là một lược đồ về hệ thống làm mát để loại trừ sự hồi nhiệt. Gã đang lần theo mối liên hệ giữa các bộ phận thì một sự lạ lùng mờ mịt về các phép đo lường và ước tính bắt đầu ngờ ngợ quấy nhiễu gã. Trong vài phút gã lấy răng nhay phần đuôi cây bút chì, thoạt tiên nhìn vào những biểu đồ được bố trí gọn gàng rồi nhìn ra cửa sổ đối diện hồ nước. Các con số không có gì sai nhưng có gì đó về chúng khiến gã phải để ý. Gã đã nhận thấy điều đó trước đây, trong tiềm thức, nhưng luôn không thể chỉ ra được chỗ nào không hợp lí. Bên ngoài, vầng trăng khuyết hiện rõ, lơ lửng soi bóng xuống mặt hồ đen ngòm và những loài trùng bọ ẩn mình rả rích xa vắng. Mọi thứ toát lên vẻ lạ lẫm như một khung cảnh trên cung trăng. Gã nhìn lại tờ giấy trên bàn làm việc phía trước mình. Nhóm số trung tâm là một cấp số của các giá trị nhiệt trong một chuỗi không theo qui luật. Những bản thông số kĩ thuật thử nghiệm của Newton cho một hệ thống ống. Có điều gì đó về chuỗi số này khiến gã bận tâm, nó trông như một dãy số logarit, dù không phải. Nhưng rồi, nó là gì? Tại sao Newton dùng hệ số đặc biệt này cho các giá trị mà không phải những hệ số khác? Chắc là ngẫu nhiên. Dù sao thì cũng không tính được con số chính xác. Chỉ có những điều kiện giả định, tùy theo Bryce để tìm ra những giá trị thực cho vật liệu sẽ đáp ứng gần nhất những bản thông số kĩ thuật này. Gã nhìn chằm chằm vào những con số trên giấy như đang bị thôi miên cho tới khi các con số như chập lại và hòa lẫn trước mắt gã rồi mất đi mọi ý nghĩa, chỉ còn lại những hình dạng. Gã chớp mắt và rồi, với một nỗ lực đầy ý chí, quay đi, một lần nữa nhìn ra cửa sổ, vào màn đêm Kentucky. Mặt trăng đã thay đổi vị trí, giờ đây ẩn hiện sau những ngọn đồi xa khỏi hồ nước. Bên kia mặt hồ đen ngòm, một ánh sáng yếu ớt phát ra từ tầng hai của tòa dinh thự, có lẽ từ thư phòng của Newton, và bên trên kia, những ngôi sao, hằng hà sa số những chấm li ti lập lòe, rắc đầy nền trời đen như những đốm bột huỳnh quang. Đột nhiên, không có duyên cớ gì rõ ràng, một con ễnh uơng bắt đầu kêu ồm ộp bên ngoài cửa sổ khiến Bryce giật mình. Con vật ấy đang ngồi xổm trên mặt đất ẩm ướt đâu đó, mấy phút liền ngân nga những tiếng trầm thấp đầy chủ ý mà không cần được đáp lại, không cần được hưởng ứng. Gã mường tượng cơ thể một phần là bò sát của nó co rúm lại, các chi xếp dưới hàm trong đám cỏ đẫm sương, mát lạnh. Tiếng kêu dường như trong một chốc ngân qua mặt hồ, có âm điệu, và rồi thình lình ngừng bặt, bỏ lại hai tai Bryce hãy còn chưa thỏa mãn, chờ đợi nhịp cuối cùng không bao giờ cất lên. Nhưng lũ trùng bọ đã trở lại trong dàn hợp xướng và gã chán nản quay về tờ giấy trước mặt. Chính lúc này gã trông thấy một cách dễ dàng, trong một giây thấu suốt ngắn ngủi, đôi mắt gã lần theo những con số quen thuộc trong vô thức đã khiến gã bận lòng. Chúng nằm trong dãy số logarit, ắt phải là như vậy. Nhưng không phải dãy số logarit thông thường, không phải cơ số mười, hoặc hai, hoặc số pi... mà trong một dãy số nào đó chưa từng được biết. Gã nhấc cây thước loga trên bàn lên và nỗi chán nản tan biến, gã bắt đầu những phép chia thử và sai...
Sau một tiếng đồng hồ gã đứng dậy, duỗi vai và rời văn phòng, đi bộ xuyên qua dám cỏ ướt tới bờ hồ. Mặt trăng đã ló dạng lần nữa, gã ngắm bóng trăng phản chiếu trên mặt nước trong chốc lát rồi nhìn về phía cửa sổ phòng Newton. Gã nói thành tiếng một cách khẽ khàng câu hỏi đã thành hình trong trí óc hai mươi phút rồi: “Có nhân loại nào tính được chuỗi logarit với cơ số hai mươi?” Ánh sáng nơi cửa sổ phòng Newton, nhợt nhạt còn hơn cả ánh trăng, như đang vô hồn nhìn lại gã, và dưới chân gã nước khẽ vỗ vào bờ, trong một nhịp điệu vô thức mơ hồ, đều đều, yên ả và xa xưa như trái đất này.