← Quay lại trang sách

⚝ 8 ⚝

Y lại bắt đầu uống bí tỉ trong suốt tháng thứ hai bị giam giữ mà hoàn toàn không hiểu nổi nguyên cớ. Chắc hẳn không phải do cô đơn vì giờ y đã tự thú với chính mình, như đã từng với Bryce, rằng y thầm mong mỏi tìm người bầu bạn. Y cũng không còn thấy căng thẳng dữ dội vì đã lao động cật lực nhiều năm trời nữa, hiện tại những vấn đề đã trở nên đơn giản hơn và trách nhiệm hầu như không còn tồn tại nữa. Y chỉ còn một vấn đề trọng đại duy nhất có thể lấy ra làm cớ cho việc rượu chè, đó là liệu y có nên tiếp tục kế hoạch này hay không, liệu chính phủ có bao giờ chấp nhận cho y làm như thế. Tuy nhiên, y không mấy khi tự làm khó mình, say rượu hay tỉnh táo thì cũng như nhau, bởi lẽ khả năng y có lựa chọn nào khác trong vấn đề này dường như quá xa vời.

Y vẫn đọc cực kì nhiều và bắt đầu hứng thú với dòng văn học thể nghiệm, đặc biệt là thơ có niêm luật nghiêm ngặt đăng trên những tờ tạp chí nhỏ, các thể loại thơ như sestina 28 , villanelle 29 , ballade 30 mặc dù có phần yếu về ý tưởng và nội hàm, nhưng lại thường hấp dẫn về mặt ngôn ngữ. Y thậm chí còn thử tự làm một bài thơ thuộc thể loại sonnet 31 của Ý theo phong cách Alexandrine, nhưng rồi tự nhận thấy điều đáng buồn là y chẳng có chút năng khiếu làm thơ nào vì viết đến dòng thứ tám là đã rất vật vã. Y nghĩ rằng một lúc nào đó y sẽ thử làm thơ lại ở Anthea.

Y cũng đọc nhiều sách về lĩnh vực khoa học và lịch sử. Những người giam cầm y rất hào phóng cấp cho y sách vở, rượu gin. Y chưa bao giờ phải chờ đến nỗi nhíu mày hay đợi hơn một ngày vì họ luôn đem đến cho y bất cứ thứ gì y yêu cầu. Đám quản gia làm công việc lo cho y ăn, dọn chỗ y ở. Họ phục vụ y điêu luyện đến đáng ngưỡng mộ. Có một lần, để thử mức độ phục vụ của họ, y đòi bản dịch tiếng Ả Rập của tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió , và vị quản gia chẳng chút nao núng, đã đem đến cho y cuốn sách này trong vòng năm tiếng đồng hồ. Vì y không biết tiếng Ả Rập và cũng chẳng chuộng đọc tiểu thuyết nên đã dùng nó làm sách chặn trên một cái kệ. Nó nặng trịch.

Y chỉ căm ghét tột độ việc bị giam cầm mỗi khi thỉnh thoảng lại nhớ cảm giác ở bên ngoài, và mỗi khi muốn gặp Betty Jo hoặc Nathan Bryce, hai người duy nhất trên hành tinh này mà y có thể xem là bạn. Y cũng có chút gì đó nhớ nhung về Anthea - y có vợ con ở Anthea - nhưng cảm giác ấy thật mơ hồ. Y không còn nghĩ về quê nhà quá đỗi thường xuyên nữa. Căn tính của y đã biến mất.

Đến cuối tháng thứ hai, họ dường như đã hoàn thành hết những bài kiểm tra thể chất, còn đọng lại trong y là một vài kí ức khó chịu và cơn đau lưng nhè nhẹ cứ tái đi tái lại. Những cuộc thẩm vấn đến thời điểm này cứ lặp lại theo một mô thức nhàm chán. Rõ ràng là họ đã hết chuyện để hỏi. Thế mà chẳng có ai đặt cho y những câu hỏi hiển nhiên nhất, không một ai hỏi rằng liệu có phải y đến từ hành tinh khác không. Y đoan chắc rằng đến lúc này họ đã nghi ngờ điều đó, nhưng lại chẳng có ai hỏi trực tiếp. Có phải họ sợ bị chê cười, hay đây chỉ là một phần trong chiến thuật tâm lí nào đó tinh vi hơn? Có những lúc suýt nữa là y kể họ nghe toàn bộ sự thật mà đằng nào thì họ chắc cũng chẳng tin. Hoặc là y cứ khăng khăng mình từ sao Hỏa hay sao Kim tới cho đến khi họ kết luận rằng y đã hóa điên. Nhưng họ không thể ngốc đến như thế.

Thế rồi đến một buổi chiều, họ đột nhiên thay đổi cách tiếp cận. Ban đầu y khá ngạc nhiên nhưng cuối cùng lại thở phào nhẹ nhõm.

Cuộc thẩm vấn khai mào theo lối thường lệ. Người thẩm vấn y là ông Bowen vốn đã làm công việc này từ lúc bắt đầu đều giờ, đều đặn mỗi tuần ít nhất một lần. Dù chẳng có ai trong số viên chức ở đây tiết lộ thân phận với y, nhưng Bowen luôn gây cho Newton ấn tượng rằng ông ta là một nhân vật quan trọng hơn những người còn lại. Thư kí của ông dường như làm việc năng suất hơn một chút, đồ ông mặc dường như đắt tiền hơn một chút, dưới đôi mắt ông dường như cũng có quầng thâm rõ hơn một chút. Có lẽ ông là thứ trưởng hoặc một người nào đó trong CIA. Ông rõ ràng cũng là một người khá thông minh.

Khi vừa đến, ông thân tình chào hỏi Newton rồi ngồi yên vị trên một chiếc ghế bành và đốt thuốc. Newton không thích mùi thuốc lá nhưng đã từ lâu rồi y không còn muốn kháng cự họ. Bên cạnh đó, căn phòng này cũng đã được điều hòa nhiệt độ. Tay thư kí lúc này đang ngồi lên chiếc bàn của Newton. May mắn là hắn không hút thuốc. Newton chào hỏi cả hai theo phép lịch sự vừa phải. Tuy nhiên, y không ngồi hẳn dậy để chào hỏi khi họ bước vào phòng. Y nhận ra rằng trong tất cả chuỗi hành động này có tiềm ẩn kiểu trò chơi mèo vờn chuột tầm thường, nhưng y không căm ghét việc tham gia trò chơi.

Bowen vội vã vào thẳng chủ đề như thường lệ. Ông ta nói: “Ông Newton ơi, tôi phải thú nhận rằng ông vẫn còn khiến chúng tôi hoang mang hơn bao giờ hết. Chúng tôi vẫn không biết ông là ai hay ông từ đâu đến.”

Newton nhìn thẳng mặt ông ta. “Tôi là Thomas Jerome Newton, ở Idle Creek, bang Kentucky. Tôi khác thường về mặt thể chất. Ông đã thấy hồ sơ khai sinh của tôi ở tòa án Hạt Bassett rồi mà. Tôi sinh ở đó năm 1918.”

“Như vậy thì ông phải bảy mươi tuổi rồi. Nhưng ông lại trông cứ như bốn mươi.”

Newton nhún vai. “Thì tôi đã nói tôi lập dị rồi mà. Một dị nhân. Có thể là thuộc một chủng mới. Nhưng tôi không nghĩ điều này có gì là bất hợp pháp cả, đúng không nào?” Y đã từng nói tất cả những ý này nhưng cũng chẳng bận tâm nhiều nếu có phải lặp lại toàn bộ.

“Không có gì bất hợp pháp cả. Nhưng chúng tôi cho rằng giấy tờ khai sinh của ông đã bị giả mạo. Và như thế thì bất hợp pháp.”

“Ông có thể chứng minh được không?”

“Có lẽ là không. Ông đã làm tốt lắm, ông Newton. Nếu ông đã có thể sáng chế ra phim chụp ảnh màu thì tôi đồ rằng ông cũng có thể giả mạo hồ sơ dễ dàng. Hồ sơ từ năm 1918 vốn khó kiểm chứng. Chẳng ai làm từ thời đó còn sống cả. Và vẫn còn vấn đề là chúng tôi không thể tìm ra ai quen biết ông lúc ông còn nhỏ. Điều kì lạ hơn là chúng tôi cũng không tìm ra được ai quen ông cách đây hơn năm năm.” Bowen dụi điếu thuốc rồi gãi tai như thể tâm trí ông giờ đã trôi dạt ở đâu đó. “Ông kể cho tôi biết lí do tại sao lại như thế được chứ, ông Newton?” Newton thắc mắc vu vơ rằng những người thẩm vấn liệu có được đào tạo trong những ngôi trường đặc biệt để học các thủ thuật, chẳng hạn như gãi tai, hay là họ bắt chước từ phim ảnh.

Y đưa ra câu trả lời giống như trước đây. “Bởi vì tôi là một người khác thường, ông Bowen à. Mẹ tôi hầu như chẳng dám cho ai gặp tôi cả. Như ông cũng đã để ý, tôi không phải là kiểu người phát cáu lên khi bị giam giữ. Vào thời đó, việc giam giữ một đứa trẻ cũng không phải là quá khó. Đặc biệt, vùng đó ở Kentucky lại càng dễ.”

“Ông chưa từng đến trường?”

“Chưa bao giờ.”

“Vậy mà ông lại là người học rộng nhất tôi từng biết.” Và trước khi y kịp đáp lời, ông nói tiếp. “Tất nhiên là tôi biết tâm trí ông cũng không kém phần lập dị.” Bowen ngáp một hơi. Ông ta trông có vẻ rất chán chường.

“Đúng là như thế.”

“Và ông trốn trong tháp ngà ở Kentucky, nơi nào đó ít người biết cho đến tận năm sáu mươi lăm tuổi, còn trước đó thì chưa từng có ai nhìn thấy hay nghe đến danh ông?” Bowen nhìn y, cười mệt mỏi.

Tất nhiên, việc đó nghe có vẻ vô lí nhưng y còn biết làm gì khác hơn. Rõ ràng là chỉ có kẻ ngốc mới tin được chuyện ấy, nhưng y buộc lòng phải có một câu chuyện kiểu như thế. Y có thể chịu nhiều gian khổ hơn để làm một số giấy tờ, hối lộ một vài quan chức để tạo ra quá khứ thuyết phục hơn cho bản thân. Thế nhưng toàn bộ kế hoạch này đã được quyết định từ lâu trước khi y rời Anthea, bởi lẽ làm như thế sẽ mạo hiểm hơn mà cũng không đáng. Ngay cả chuyện tìm một chuyên gia để giả mạo giấy tờ khai sinh cũng đã là một công việc khó khăn và nguy hiểm rồi.

“Đúng vậy,” Y mỉm cười. “Không ai biết tôi cả cho đến khi tôi sáu mươi lăm tuổi, ngoại trừ một vài người họ hàng đã qua đời từ lâu rồi.”

Đột nhiên Bowen thốt ra một điều vẫn còn mới mẻ cho đến lúc này. “Và rồi ông quyết định đem nhẫn đi bán ở khắp các thị trấn?” Giọng ông ta trở nên khó chịu. “Từ những nguyên liệu địa phương, ông đã tự làm ra, tôi cho là khoảng một trăm chiếc nhẫn vàng giống hệt nhau. Và ở tuổi sáu lăm, ông đột nhiên quyết định đem đi bán?”

Đối với y, câu hỏi này bật ra thật bất ngờ. Họ chưa từng đề cập vụ mấy chiếc nhẫn trước đây dù y cứ đinh ninh rằng họ biết rồi. Newton mỉm cười khi nghĩ đến lời giải thích vô lí mà y sắp sửa trình bày. “Đúng vậy.” Y nói.

“Tôi còn đồ rằng ông đã đào vàng ở sân nhà rồi làm ra mấy viên ngọc với bộ dụng cụ kim hoàn, ông còn tự tay khắc chữ bằng kim băng nữa đúng không? Tất cả những việc đó là để ông có thể bán ra mấy chiếc nhẫn với mức giá còn thấp hơn giá trị thật của riêng viên ngọc thôi, cho các cửa hàng trang sức nhỏ.”

Newton không thể kiềm nổi sự phấn khích. “Tôi cũng là người quái đản mà, ông Bowen.”

“Ông không quái đản đến mức đó.” Bowen nói. “Chẳng ai quái đản như thế cả.”

“Vậy thì ông giải thích chuyện đó như thế nào đây?”

Bowen dừng lại châm một điếu thuốc khác. Dù tất cả mọi dáng điệu của ông cho thấy sự bứt rứt, nhưng cử động đôi tay thì vẫn vững vàng hoàn hảo. Rồi ông nói: “Tôi nghĩ là ông đã đem mấy cái nhẫn đó theo trên một chiếc tàu vũ trụ.” Ông chầm chậm nhíu mày. “Tôi đoán như thế thì ông thấy sao?”

Newton không khỏi ngỡ ngàng, nhưng y cố gắng để không biểu hiện ra ngoài. “Thú vị đấy.” Y nói.

“Vâng, hẳn thế. Có chuyện này còn thú vị hơn nữa nếu ông biết là chúng tôi đã tìm ra tàn tích của một con tàu khác thường cách thị trấn ông bán chiếc nhẫn đầu tiên khoảng tám cây số. Có lẽ ông vẫn chưa biết điều này, ông Newton à, phần thân tàu ông bỏ lại đó vẫn còn phóng xạ ở tần số thích hợp. Nó phóng xạ xuyên qua Vành đai bức xạ Van Allen 32 .”

“Tôi không hiểu ông đang nói cái gì nữa.” Newton nói. Nghe có vẻ thiếu thuyết phục nhưng y không còn biết nói gì khác. Hóa ra FBI biết nhiều điều hơn y tưởng. Một khoảng lặng kéo dài. Rồi Newton nói: “Nếu tôi đến đây bằng tàu vũ trụ thì tôi phải có cách nào đó kiếm tiền hay hơn cách bán mấy chiếc nhẫn chứ đúng không?” Dẫu đôi lúc Newton đã nghĩ rằng y sẽ chẳng mấy bận tâm nếu họ có phát hiện ra chân tướng của y, nhưng y vẫn ngỡ ngàng khi nhận ra bản thân mình cảm thấy không thoải mái trước những câu hỏi mới mẻ này, và cả trước sự thẳng thắn của họ nữa.

“Ông sẽ làm gì?” Bowen nói, “Nếu ông đến từ, giả dụ như là sao Kim, và cần tiền?”

Lần đầu tiên trong đời, Newton nhận ra y khó mà giữ được giọng nói bình thản. “Nếu người Sao Kim có thể chế tạo tàu vũ trụ, tôi cho là họ cũng có thể làm tiền giả.”

“Ở trên sao Kim, ông tìm đâu ra tờ mười đô để sao chép?”

Newton không trả lời, Bowen lục trong túi áo khoác, lôi ra một vật nhỏ rồi đặt lên bàn để bên cạnh y. Tay thư kí ngẩng đầu lên trong chốc lát, chờ xem có ai nói gì không, rõ ràng là để hắn có thể ghi chép lại. Newton chớp mắt. Vật để trên bàn chính là hộp đựng thuốc aspirin.

“Tiền giả đã soi lối cho chúng tôi đến một vấn đề khác nữa cơ, ông Newton.”

Y biết Bowen định nói gì, nhưng thực sự cũng không biết phải làm gì để đối phó. “Ông lấy cái đó ở đâu vậy?” Y hỏi.

“Một người trong chúng tôi đã bắt gặp vật này khi anh ta tìm kiếm trong phòng khách sạn ông từng trọ ở Louisville. Chuyện này đã cách đây hai năm rồi, ngay sau khi ông bị gãy chân trong thang máy.”

“Ông lùng những căn phòng tôi từng trọ được bao lâu rồi?”

“Cũng lâu rồi, ông Newton.”

“Vậy hẳn là ông đã có lí do bắt tôi từ rất lâu trước đây rồi. Sao ông không bắt tôi lúc đó?”

“À, lẽ tự nhiên là trước tiên chúng tôi muốn tìm hiểu xem ông đã làm gì. Rồi còn con tàu ông đang chế tạo ở Kentucky nữa. Và hẳn là ông cũng nhận thức được toàn bộ chuyện này có chút phức tạp. Ông Newton ơi, ông đã trở thành một người rất giàu có nên chúng tôi chẳng thể tùy tiện bắt giam người siêu giàu mà không bị xử phạt - đặc biệt là khi chúng tôi lại đang vận hành một chính phủ mà mọi người cho là có đường lối ôn hòa. Cáo buộc duy nhất của chúng tôi với người đàn ông giàu có đó lại chỉ là việc ông ta đến từ một nơi nào đó tương tự như sao Kim.” Ông ngả người về phía trước, giọng mềm mỏng hơn. “Mà chỗ đó là Sao Kim đúng không ông Newton?”

Newton mỉm cười đáp lại Bowen. Hóa ra thông tin cũng chẳng thay đổi sự tình cho mấy. “Tôi chưa từng nói nó ở một nơi nào khác ngoại trừ Idle Creek, bang Kentucky cả.”

Bowen trầm tư nhìn xuống hộp thuốc aspirin. Ông cầm hộp thuốc lên, đong đo trọng lượng trong lòng bàn tay rồi cất lời: “Tôi chắc là ông đã biết rằng chiếc hộp này làm bằng bạch kim, phải thừa nhận rằng trông rất ấn tượng. Xét về mặt chất lượng của nguyên liệu và tay nghề gia công thì đây là bản mô phỏng rất lạc quẻ so với nguyên mẫu gốc là hộp thuốc Aspirin của hãng Bayer. Này nhé, nó quá to và màu sắc cũng bị lệch nữa. Chưa kể là phần bản lề cũng không giống lối công ty Bayer làm.” Ông nhìn Newton. “Không phải là một bản lề tốt hơn, chỉ khác biệt thôi.” Ông lại mỉm cười. “Nhưng có lẽ điều ấn tượng nhất là không hề có hoa văn nào in trên chiếc hộp cả, ông Newton à - dù chỉ là những đường kẻ mờ trông giống họa tiết cũng không có.”

Newton cảm thấy khó chịu và tức giận chính mình vì đã không hủy đi chiếc hộp. “Và từ đó ông kết luận ra điều gì?” Y nói, nhận thức rất rõ rằng họ đã kết luận được điều gì.

“Chúng tôi kết luận rằng có ai đó đã làm giả chiếc hộp này cho giống với mẫu mà anh ta trông thấy ở quảng cáo trên ti vi.” Ông bật cười trong chốc lát. “Chiếc ti vi đó chắc là ở vùng rìa của một ngoại ô.”

“Idle Creek.” Newton nói. “Là vùng rìa của một ngoại ô.”

“Sao Kim cũng thế thôi. Họ bán mấy hộp thuốc aspirin của hãng Bayer, có đầy đủ aspirin hẳn hoi, trong hiệu thuốc ở Idle Creek, giá chỉ một đô la. Ông chẳng cần phải tự chế tạo ở Idle Creek làm gì cho mệt cả.”

“Kể cả khi tôi là một tay quái đản lập dị, có những ám ảnh kì lạ cũng không được phép tự làm sao?”

Bowen vẫn có vẻ thích thú - dường như ông ta đang tự đắc. “Khả năng không cao lắm. Thực tế là tôi cũng có thể kết thúc cuộc tranh luận này tại đây.” Ông nhìn Newton dò xét. “Một trong những điều thú vị là một... một người thông minh như ông mà lại có thể mắc nhiều sai lầm ngớ ngẩn. Tại sao ông cho rằng chúng tôi sẽ bắt ông khi ông ở Chicago? Ông đã có hai tháng để suy nghĩ rồi đó.”

“Tôi không biết.” Newton nói.

“Đó là ý tôi muốn nói. Rõ ràng ông là người Anthea có đúng không? Thế nên ông không có cách tư duy theo lối giống như chúng tôi. Tôi tin rằng bất kì người bình thường nào, một tay độc giả thích đọc truyện trinh thám trên tạp chí đến đây thì cũng đều ngờ ngợ rằng hẳn là chúng tôi đã lắp một chiếc micro trong phòng ông ở Chicago, lúc ông tự giải thích hết tất cả với Tiến sĩ Bryce.”

Y sững sờ đến nỗi câm lặng mất cả phút. Sau cùng, y thốt lên: “Không, ông Bowen ạ, hiển nhiên là người Anthea không có lối suy nghĩ giống các ông. Nhưng chúng tôi sẽ không giam cầm một người trong suốt hai tháng chỉ để hỏi anh ta những câu mà chúng tôi đã biết đáp án.”

Bowen nhún vai. “Chính phủ hiện đại luôn hành động theo lối khó hiểu. Tuy nhiên, việc bắt giam ông không phải là ý tưởng của tôi. Đó là của FBI. Có ai đó ở cấp trên cao cực kì hoảng loạn. Họ sợ ông tính chuyện làm nổ tung trái đất bằng phi thuyền của ông. Thực ra thì đó cũng là suy đoán của họ về ông ngay từ lúc bắt đầu. Gián điệp của họ đã trình ra những báo cáo về dự án và những tay trợ lí giám đốc thì cố đoán xem khi nào thì ông sẽ phóng phi thuyền xuống Washington hoặc New York.” Ông lắc đầu trong vẻ buồn bã giễu cợt. “Kể từ thời Edgar Hoover, FBI đang dần trở thành đơn vị tự đào mồ chôn chính mình.”

Newton đột ngột đứng dậy để đi pha một cốc rượu cho mình. Bowen nhờ y làm luôn ba cốc. Thế rồi ông cũng đứng dậy, bỏ tay vào túi áo, mắt nhìn chằm chằm xuống đôi giày của mình một lúc trong khi Newton đang pha rượu.

Lúc chuyền cốc cho Bowen và tay thư kí - hắn né tránh ánh mắt y lúc nhận cốc rượu - Newton chợt lóe lên một suy nghĩ. “Nhưng một khi FBI đã nghe bản ghi âm của ông, tôi đoán là ông có ghi âm lại, họ hẳn đã thay đổi suy nghĩ về mục đích của tôi.”

Bowen nhấp rượu. “Thực ra thì ông Newton ơi, chúng tôi chưa bao giờ cho FBI biết là có tồn tại mấy bản ghi âm. Chúng tôi chỉ đơn thuần yêu cầu họ ra chỉ thị bắt giam. Mấy cuộn băng ghi âm chưa bao giờ bị tuồn ra khỏi văn phòng tôi.”

Lại thêm một điều bất ngờ nữa. Nhưng những bất ngờ đến liên tiếp với tốc độ quá nhanh đến nỗi y đã quen rồi. “Nhưng lỡ họ đòi ông mấy cuộn băng thì sao?”

“À, hẳn là ông cũng biết tôi may mắn được làm giám đốc cho CIA. Thế có nghĩa là tôi ở cấp cao hơn FBI.”

“Vậy thì ông hẳn là... tên gì nhỉ, Van Brugh? Tôi đã từng nghe qua danh ông.”

“Chúng tôi là một nhóm khó ai đụng tới ở CIA,” Bowen hay Van Brugh nói. “Dù sao thì khi đã có cuộn băng, chúng tôi đều đã biết được những gì mình muốn biết về ông rồi. Từ những lời thú nhận của ông, chúng tôi cũng đoan chắc rằng nếu FBI bắt ông - mà tôi có kể với ông rằng họ sắp sửa làm việc đó rồi - chắc là ông sẽ tuôn ra hết toàn bộ câu chuyện cho họ biết mất thôi. Chúng tôi không muốn chuyện đó xảy ra bởi vì chúng tôi không tin FBI. Có những thời điểm rất nguy hiểm, ông Newton ạ. Họ hẳn là sẽ giải quyết vấn đề mà chúng tôi đang làm rất chật vật đây bằng cách giết ông cho xong.”

“Thế ông không có ý định giết tôi ư?”

“Với chúng tôi thì chắc chắn là không. Dù ông có nguy hiểm thế nào, tôi cũng sẽ không bao giờ xuống tay với ông vì nếu làm thế thì khác nào giết con ngỗng đẻ trứng vàng.”

Newton đã uống cạn cốc nên y lại rót đầy thêm. “Ông nói thế nghĩa là sao?” Y hỏi.

“Ngay bây giờ, ở Bộ Quốc phòng, chúng tôi đã lập ra nhiều kế hoạch chế tạo vũ khí tối tân nhờ những dữ kiện ăn cắp từ tài liệu của ông ròng rã suốt ba năm. Như tôi đã nói, có những thời điểm rất nguy hiểm, có nhiều cách để chúng tôi tận dụng ông lắm. Tôi hình dung là người Anthea các ông biết rất nhiều về việc chế tạo vũ khí.”

Newton dừng một lúc, đăm chiêu nhìn cốc nước. Rồi y điềm tĩnh. “Nếu ông đã nghe tôi nói chuyện với Bryce thì hẳn là ông cũng đã biết người Anthea chúng tôi dùng vũ khí để làm gì. Tôi không có ý định biến nước Mĩ trở thành một siêu cường quốc. Mà thực tế thì tôi cũng chẳng làm được điều đó nếu tôi có muốn đi chăng nữa. Tôi không phải là nhà khoa học. Tôi được chọn đi chuyến này chỉ vì khả năng chịu đựng về mặt thể chất thôi, không phải vì kiến thức. Tôi biết rất ít về vũ khí - tôi nghĩ rằng có lẽ còn ít hơn ông nữa.”

“Nhưng hẳn là ông đã từng nhìn thấy, hay nghe qua về vũ khí lúc còn ở Anthea chứ.”

Bây giờ, Newton đã lấy lại được sự điềm tĩnh, có lẽ là nhờ vào mấy cốc rượu. Y không còn cảm thấy phải phòng thủ nữa. “Ông đã nhìn thấy xe ô tô rồi đúng không ông Van Brugh. Ông có thể giải thích trực tiếp cho một người châu Phi sống hoang dã cách làm được không? Với chỉ những nguyên liệu có sẵn ở chỗ của họ?”

“Không. Nhưng tôi có thể giải thích về động cơ đốt trong cho một người hoang dã nếu tôi có thể tìm thấy một người hoang dã ở châu Phi hiện đại. Và nếu anh ta là một người hoang dã thông minh, anh ta sẽ có khả năng làm được gì đó với kiến thức ấy.”

“Có thể là tự sát đấy.” Newton nói. “Dù như thế nào, tôi cũng không có ý định kể cho ông nghe thêm bất cứ điều gì có giá trị cho ông đâu.” Y lại uống cạn hết một cốc nước. “Chắc là ông sắp sửa tra tấn tôi phải không.”

“Tôi e rằng như thế thì chỉ lãng phí thời gian thôi,” Van Brugh nói. “Ông chắc đã hiểu lí do tại sao chúng tôi cứ hỏi ông những câu ngớ ngẩn trong suốt hai tháng qua, đó là vì chúng tôi đang tiến hành một dạng liệu pháp phân tâm học. Chúng tôi có nhiều máy quay ở đây thu lại tần suất chớp mắt và những thứ tương tự như thế. Chúng tôi đã kết luận rằng tra tấn không có tác dụng với ông. Ông sẽ dễ phát điên khi bị đau trong khi chúng tôi vẫn chưa kịp hiểu hết về tâm lí của ông, những thứ như tội lỗi hay lo âu, đại loại thế; mà đã không hiểu thì làm sao tẩy não ông được. Chúng tôi cũng đánh thuốc ông bằng nhiều loại - nào là thuốc ngủ, thuốc mê - nhưng đều không có hiệu quả.”

“Vậy ông còn định làm gì nữa? Bắn tôi à?”

“Không. Tôi e là chúng tôi không thể nếu Tổng thống không cho phép, mà ông ấy sẽ không chịu đâu.” Van Brugh mỉm cười buồn bã. “Ông thấy đấy, ông Newton, sau tất cả các yếu tố có tầm vũ trụ được xem xét, yếu tố cuối cùng hóa ra là một vấn đề thực tiễn, đó là chính trị của nhân loại.”

“Chính trị ư?”

“Bây giờ là năm 1988. Mà 1988 là năm bầu cử. Tổng thống đang lên chiến dịch cho nhiệm kì thứ hai, theo một nguồn tin đáng tin cậy thì ông ấy sẽ tái đắc cử. Ông có biết là sau vụ Watergate thì chẳng có gì thay đổi không? Chẳng có gì thay đổi cả. Tổng thống đã lợi dụng chúng tôi, những người trong CIA, để theo dõi các đảng khác. Đảng Cộng hòa đang dự định gây chấn động toàn bộ vụ này tương tự như vụ Dreyfus nếu như chúng tôi không cung cấp đủ bằng chứng buộc tội ông hoặc không thả ông ra mà không rối rít xin lỗi.”

Đột nhiên, Newton bật cười. “Nếu ông bắn tôi thì Tổng thống sẽ thua trong cuộc bầu cử đúng không?”

“Đảng Cộng hòa có mối quan hệ khắng khít với những nhà tư bản công nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam. Chắc ông cũng biết là những quí ông đó rất có sức ảnh hưởng. Họ cũng muốn bảo vệ quyền lợi của mình chứ.”

Newton lại càng cười rũ rượi hơn. Đó là lần đầu tiên trong đời y thực sự cười to. Không phải là cười khúc khích, cười thầm thì, cười khì khì: Y cười to và sảng khoái. Khi đã định thần lại, y hỏi: “Vậy là ông sẽ phải thả tôi đi?”

Van Brugh cười khổ sở. “Ngày mai. Chúng tôi sẽ để ông đi vào ngày mai.”