← Quay lại trang sách

1985 Icarus chết chìm ⚝ 1 ⚝

Nathan Bryce lần đầu tiên phát hiện ra tung tích của Thomas Jerome Newton qua một cuộn giấy. Gã lại phát hiện ra y lần nữa qua một bản ghi âm. Gã phát hiện ra nó cũng tình cờ như khi phát hiện ra cuộn giấy, nhưng thông điệp từ bản ghi - ít nhất là một phần nào đó - lại ngay lập tức rõ ràng hơn rất nhiều so với cuộn giấy. Chuyện này diễn ra vào tháng Mười năm 1990, ở một hiệu thuốc Walgreen tại Louisville, cách căn hộ mà Bryce và Betty Jo Mosher sống chung một vài dãy nhà. Lúc đó là khoảng bảy tháng sau thời điểm Newton nói lời từ biệt ngắn gọn trên ti vi.

Cả Bryce và Betty Jo đều tiết kiệm được phần lớn lương của họ ở World Enterprises, Bryce thực sự không quá cần phải đi làm để kiếm sống, ít nhất là trong một, hai năm. Tuy nhiên, gã đã nhận lời làm cố vấn cho một xí nghiệp sản xuất đồ chơi khoa học, một công việc giúp gã cảm thấy thỏa mãn phần nào đó vì đã khiến sự nghiệp trong lĩnh vực hóa học của gã được trọn vẹn. Một buổi chiều, khi đang trên đường tan ca trở về nhà thì gã tạt qua hiệu thuốc. Mục đích của gã là mua một bộ dây cột giày, nhưng rồi gã lại dừng ở lối ra vào khi nhìn thấy một chiếc giỏ lớn làm bằng kim loại, bên trong đựng những bản ghi âm, bên dưới có một tấm biển đề dòng chữ Xả kho, giá 89 xu . Bryce lúc nào cũng thích săn hàng giá rẻ. Gã lướt qua một vài bản ghi âm, cũng xem chơi một, hai cái hơi kĩ, rồi chợt bắt gặp một cái có vẻ nghiệp dư nhưng tiêu đề của nó ngay lập tức khiến gã giật mình. Kể từ thời đĩa hát chuyển sang hình thức quả cầu bi, nhà sản xuất thường đóng gói quả cầu trong những hộp nhựa nhỏ, rồi buộc chặt một tấm thẻ nhựa lớn đính kèm bên ngoài. Trên thẻ có in ảnh nghệ thuật, thường kèm theo lời bình có phần ngớ ngẩn kế thừa từ thời album còn sản xuất theo hình thức đĩa kiểu cũ. Nhưng thẻ trên cái này lại chỉ đơn thuần là một miếng bìa cứng, không có ảnh gì cả. Bản ghi không hề có tốn kém để đạt yêu cầu về tính nghệ thuật, tiêu đề được in đơn giản bằng công nghệ cũ. Đó là dòng chữ: Những bài thơ từ ngoài không gian. Ở mặt còn lại của tấm thẻ thì là dòng chữ: Chúng tôi đoan chắc rằng dù không hiểu được ngôn ngữ này, bạn vẫn sẽ ước giá mà mình có thể! Bảy bài thơ không-thuộc-về-thế-giới-này là sáng tạo của một người đàn ông mà chúng tôi gọi là “khách viếng”.

Không hề lưỡng lự, Bryce cầm bản ghi đến quầy nghe thử, đặt quả cầu bi vào rãnh rồi bật công tắc. Ngôn ngữ phát ra quả thực rất kì lạ: Buồn bã, du dương, nguyên âm kéo dài, lên xuống với cao độ khác thường, hoàn toàn không thể hiểu được. Nhưng giọng nói thì không còn nghi ngờ gì nữa, chính là của T. J. Newton.

Gã tắt công tắc. Ở cuối tấm thẻ có in dòng chữ: THU TẠI “THỜI PHỤC HƯNG ĐỆ TAM,” SỐ 23 ĐƯỜNG SULLIVAN, NEW YORK...

“Thời Phục hưng đệ tam” nằm trong một gác xép. Nhân viên văn phòng chỉ có duy nhất một người, đó là một thanh niên da đen bảnh bao để bộ ria mép rậm rạp. May mắn thay, khi Bryce ghé vào văn phòng, người này đang có tâm trạng thoải mái nên vui vẻ kể lại rằng “khách viếng” của bản ghi âm là tay giàu có gàn dở tên là Tom hay-gì-đó sống ở nơi-nào-đó trong làng. Có vẻ như tay này đã tự mình tiếp cận thiết bị ghi âm và đứng ra bảo lãnh cả chi phí thực hiện lẫn chi phí phân phối bản ghi âm. Hắn thường đến một quán nhậu ở gần góc đường có tên là Chìa khóa và Dây xích...

Chìa khóa và Dây xích được tân trang lại từ một quán cà phê cũ vốn đã dẹp tiệm từ thập niên bảy mươi. Nhờ có một số thay đổi, kết hợp với việc bố trí thêm quầy bar và bán mấy loại rượu rẻ tiền mà quán sống sót được. Ở đây không có những buổi chơi trống bongo hay đọc thơ - thời của các loại hình này đã qua đi từ rất lâu rồi - nhưng có vài bức tranh nghiệp dư treo trên tường, mấy chiếc bàn gỗ rẻ tiền đặt lung tung khắp phòng, có vài khách vãng lai đến đây thường cố ý ăn mặc như những người vô công rồi nghề. Thomas Jerome Newton không phải là một trong số đó.

Bryce tự gọi một li whiskey và soda ở quầy bar rồi uống thật chậm, định bụng là sẽ chờ ở đây ít nhất vài tiếng đồng hồ. Nhưng gã chỉ vừa uống đến li thứ hai là Newton đến. Thoạt đầu, Bryce không nhận ra y. Newton hơi khòm lưng và đi lại nặng nề hơn trước. Y vẫn đeo kính râm quen thuộc, nhưng bây giờ lại còn mang thêm một cây gậy trắng, đội chiếc mũ phớt màu xám trông không hợp. Một y tá phốp pháp mặc đồng phục đỡ cánh tay, dìu y bước đi. Cô dìu y đến một cái bàn tách biệt ở góc phòng, đỡ y ngồi xuống ghế rồi rời đi. Newton hướng mặt về phía quầy bar, cất tiếng: “Chào buổi chiều, anh Elbert.” Người pha chế đáp lại: “Tôi sẽ mang rượu đến cho ông ngay.” Thế rồi anh ta mở nắp một chai rượu gin hiệu Gordon, đặt lên khay kèm với chai rượu đắng Angostura và một cái cốc, rồi bưng khay đến bàn Newton. Newton lấy ra một tờ hóa đơn từ trong túi áo sơ mi đưa cho người pha chế, mỉm cười nói: “Anh cứ giữ tiền thừa đi nhé.”

Bryce chăm chú quan sát y từ phía bên kia quầy bar khi y dò dẫm tìm rồi với được cốc, tự đổ đầy rượu gin vào phân nửa cốc, sau đó thêm vào một chút rượu đắng. Y không bỏ đá và cũng không khuấy nước mà nhấp rượu uống ngay lập tức. Đột nhiên Bryce bắt đầu tự hỏi, gần như hơi hoảng loạn rằng không biết gã nên nói gì với Newton khi giờ đây gã đã tìm ra y. Gã liệu có thể cầm trong tay li whiskey và soda, chạy qua phía bên kia quầy bar rồi nói: “Năm vừa rồi đã khiến tôi thay đổi suy nghĩ. Tôi muốn người Anthea cứ tiến hành kế hoạch. Qua thời gian theo dõi báo chí, bây giờ tôi lại muốn người Anthea tiến hành kế hoạch.” Mọi thứ dường như có vẻ quá đỗi phi lí khi ngay lúc này đây, gã lại gặp người Anthea lần nữa. Và bây giờ, Newton dường như đã trở thành một sinh vật đáng thương. Lần trò chuyện chấn động đến ngỡ ngàng ở Chicago dường như đã diễn ra trong một giấc mơ, hoặc ở một hành tinh khác.

Gã nhìn chằm chằm người Anthea một lúc có lẽ là khá lâu, nhớ lại lần cuối cùng nhìn thấy Dự Án, con tàu của Newton, bên dưới chiếc máy bay Air Force đã chở gã cùng với Betty Jo và năm mươi người khác từ một địa phận ở Kentucky.

Suy nghĩ về việc đó khiến gã gần như quên mất mình đang ở đâu trong thoáng chốc. Gã nhớ về con tàu đẹp đẽ, to lớn phi lí mà họ đã cùng dựng xây ở Kentucky, nhớ về niềm khoái cảm của gã khi bắt tay vào việc đó, gã đã có được khoảng thời gian say sưa giải quyết những vấn đề liên quan đến kim loại, gốm sứ, nhiệt độ và áp suất, đến độ gã cảm thấy rằng cuộc đời mình thực sự gắn liền với một thứ gì đó quan trọng, thứ gì đó đáng bõ công. Có lẽ đến thời điểm này thì nhiều phần của con tàu đã bắt đầu gỉ sét - nếu như FBI chưa niêm phong toàn bộ bằng nhựa dẻo và chuyển xuống tầng hầm của Lầu Năm Góc. Nhưng dù có bất cứ chuyện gì xảy ra, chắc chắn nó sẽ không phải là phương tiện đầu tiên được người ta nghĩ đến để tìm cách cứu chữa.

Khi dòng suy tư chạm đến điểm này, gã chợt nghĩ chết tiệt, rồi đứng dậy, bước đến bàn của Newton, ngồi xuống và nói, giọng gã thật điềm tĩnh, khoan thai. “Xin chào, ông Newton.”

Giọng nói của Newton cũng điềm tĩnh giống như gã. “Nathan Bryce à?”

“Vâng.”

“Ồ.” Newton uống cạn rượu trong cốc. “Tôi rất vui vì ông đã đến. Tôi đã nghĩ là thế nào ông cũng đến.”

Không hiểu vì lí do nào mà âm điệu lãnh đạm thường có trong giọng nói của Newton giờ đây lại khiến Bryce cảm thấy bồn chồn. Gã đột nhiên cảm thấy lúng túng. “Tôi đã tìm thấy bản ghi âm của ông. Những bài thơ.”

Newton thoáng mỉm cười. “Thế ư? Ông có thích không?”

“Không thích lắm.” Gã cố gắng tỏ vẻ cứng cỏi khi nói như thế, nhưng rồi lại cảm thấy hình như mình chỉ ra chiều gắt gỏng. Gã tằng hắng. “Tại sao ông phải làm cách đó?”

Newton vẫn mỉm cười. “Thật ngạc nhiên khi mọi người không nghĩ ra được nguyên nhân,” y nói. “Đó là điều mà một người ở CIA đã nói với tôi.” Y bắt đầu tự rót thêm một cốc rượu gin nữa, Bryce để ý thấy tay y rung lên khi làm động tác rót rượu. Tay y lại tiếp tục chao đảo khi đặt bình rượu xuống bàn. “Bản ghi âm không hề là những bài thơ của người Anthea. Đúng hơn thì nó giống như một bức thư.”

“Thư gửi cho ai?”

“Cho vợ tôi, ông Bryce ạ. Cho một số người thông minh ở quê nhà đã huấn luyện tôi để tôi chuẩn bị cho... cho cuộc sống này. Tôi hi vọng một lúc nào đó, đài FM có thể phát sóng nó. Ông biết mà, chỉ có sóng của đài FM mới đi xuyên hành tinh. Nhưng theo tôi được biết thì người ta vẫn chưa phát sóng nó.”

“Thông điệp là gì vậy?”

“Ồ, là Tạm biệt. Đi chết đi. Đại loại như thế.”

Bryce cảm thấy ngày càng khó chịu. Trong một thoáng, gã ước gì mình đã dẫn Betty Jo đi cùng. Betty Jo có khả năng phi thường trong việc hồi phục lại trạng thái đầu óc minh mẫn, giúp mọi việc trở nên dễ hiểu hơn, thậm chí là dễ chấp nhận hơn. Nhưng vào thời điểm đó, không hiểu sao mà Betty Jo lại nghĩ rằng mình đã yêu T. J. Newton, chuyện đó thậm chí còn kì khôi hơn cả chuyện này nữa. Gã im lặng, không biết phải nói gì nữa.

“Ông Nathan à, tôi nghĩ là ông sẽ không cảm thấy phiền nếu tôi gọi ông là Nathan đúng không. Bây giờ ông đã tìm thấy tôi rồi, ông muốn điều gì ở tôi?” Y mỉm cười, nụ cười ẩn giấu sau cặp kính và chiếc mũ lố bịch. Nụ cười ấy dường như cũng già cỗi tựa mặt trăng, hầu như không phải là nụ cười của con người một chút nào cả.

Bryce đột nhiên cảm thấy ngượng ngùng khi đối diện với nụ cười đó, với âm điệu trầm buồn, mệt mỏi, kiệt quệ trong giọng nói của Newton. Gã tự rót cho mình thêm một cốc rượu trước khi trả lời, vô tình để miệng chai va phải cốc kêu keng một tiếng. Rồi gã uống trong lúc chăm chú nhìn Newton, nhìn vào cặp kính phẳng lì, không phản quang có màu xanh lá của Newton. Gã cầm cốc rượu đã uống sạch bằng cả hai tay, chống khuỷu tay lên bàn rồi nói: “Tôi muốn ông cứu thế giới, ông Newton à.”

Nụ cười của Newton vẫn không thay đổi, y trả lời ngay lập tức: “Có đáng để cứu không, Nathan?”

Gã không đến đây để đổi chác sự mỉa mai. “Có” gã nói. “Tôi nghĩ là đáng. Dù sao đi nữa, tôi cũng muốn sống hết mình.”

Đột nhiên, Newton rướn người về phía quầy bar. “Anh Elbert, anh Elbert ơi.”

Người pha chế là một gã nhỏ con, khuôn mặt u buồn, xanh xao, ngẩng đầu lên thoát khỏi cơn mơ màng. “Dạ, ông cần chi?” Anh ta hỏi, giọng nhỏ nhẹ.

“Anh Elbert,” Newton nói, “anh có nhận ra tôi không phải là con người không? Anh có biết tôi đến từ hành tinh khác tên là Anthea, và tôi đến đây bằng tàu vũ trụ không?”

Người pha chế nhún vai. “Tôi đã từng nghe qua,” anh nói.

“Là tôi đấy,” Newton nói, “tôi thực sự đã từng như thế.” Y ngừng lại, Bryce nhìn y chằm chằm, bị chấn động không phải vì những gì Newton vừa nói, mà là vì âm điệu trẻ con non dại ngờ nghệch trong giọng nói của y. Họ đã làm gì y? Họ chỉ làm y bị mù thôi ư?

Newton lại hỏi người pha chế. “Anh Elbert, anh có biết tại sao tôi lại đến thế giới này không?”

Lần này, người pha chế thậm chí còn không buồn ngẩng đầu lên. “Không ạ, tôi chưa từng nghe qua.”

“À, tôi đến để cứu anh đấy.” Giọng Newton nghe rành rọt, mỉa mai, nhưng lại phảng phất chút kích động. “Tôi đến để cứu tất cả các anh.”

Bryce có thể nhìn thấy người pha chế đang khe khẽ cười. Thế rồi, anh ta nói khi vẫn ở sau quầy bar. “Ông làm tốt lắm. Chúng ta cần sự cứu giúp sớm càng tốt.”

Newton cúi đầu. Bryce không thể phân biệt được đó là do y thấy xấu hổ, tuyệt vọng hay mệt mỏi. “Quả đúng là như vậy.” Y nói nhỏ, gần giống như lời thì thầm. “Chúng ta cần sự cứu giúp càng sớm càng tốt.” Rồi y ngẩng đầu lên và mỉm cười với Bryce. “Anh có gặp Betty Jo không?” Y hỏi.

Câu hỏi đó khiến gã gỡ bỏ hết lớp phòng thủ. “Có...”

“Cô ấy như thế nào rồi? Betty Jo như thế nào rồi?”

“Cô ấy vẫn ổn. Cô ấy nhớ ông. Giống như anh Elbert nói, ‘Chúng ta cần sự cứu giúp càng sớm càng tốt.’ Ông có thể làm điều đó không?”

“Không thể. Tôi xin lỗi.”

“Không còn cơ hội nào sao?”

“Không. Tất nhiên là không. Chính phủ đã biết mọi điều về tôi...”

“Ông kể cho họ nghe à?”

“Tôi suýt nữa là kể, dù cũng không cần thiết. Họ dường như đã biết từ rất lâu rồi. Tôi nghĩ là chúng ta đã quá ngây thơ.”

“Ai? Ông và tôi ư?”

“Ông. Tôi. Những người dân ở quê nhà của tôi, những con người thông minh của tôi...” Y cất tiếng nhỏ nhẹ. “Chúng tôi đã quá ngây thơ, anh Elbert ạ.”

Giọng Elbert đáp lại cũng nhỏ nhẹ. “Đó là sự thật hả ông?” Anh ta có vẻ thực sự quan tâm, như thể trong thoáng chốc thực sự tin những điều Newton đang nói.

“Ông đã đi được cả một quãng đường dài.”

“Ồ, đúng là thế. Còn đi trên tàu nhỏ nữa. Cứ đi, cứ đi, cứ đi... Chuyến đi rất dài, Nathan ạ, nhưng trong khoảng thời gian đó, tôi cũng đọc nhiều.”

“Vâng. Nhưng ý tôi không phải như vậy. Ý tôi là ông đã đi được một chặng đường dài từ lúc hạ cánh xuống đây. Kiếm tiền, rồi xây con tàu mới...”

“Ồ, đúng là tôi đã kiếm rất nhiều tiền. Tôi vẫn còn đang kiếm nhiều mà. Nhiều hơn bao giờ hết. Tôi có tiền ở Louisville, tiền ở New York, năm trăm đô la trong túi và khoản tiền trợ cấp cho người già của chính phủ nữa. Bây giờ tôi đã là một công dân, Nathan à. Họ đã cấp phép cho tôi làm một công dân. Có lẽ, tôi còn có thể rút tiền bảo hiểm thất nghiệp nữa cơ. World Enterprises vẫn đang vận hành mà không cần có tôi, Nathan ơi. World Enterprises.”

Bryce kinh hoàng trước vẻ ngoài và cung cách nói năng kì lạ của Newton, gã khó lòng nhìn y được nữa nên đành cúi đầu nhìn xuống bàn. “Ông có thể hoàn thành con tàu được không?”

“Ông nghĩ là họ sẽ cho tôi làm à?”

“Ông có thừa tiền mà...”

“Ông nghĩ tôi có muốn không?”

Bryce ngước nhìn y. “Vậy, ông có muốn không?”

“Không.” Đột nhiên, khuôn mặt Newton bỗng già cỗi hơn, điềm tĩnh, ra vẻ con người hơn. “Hoặc là có, tôi nghĩ là tôi cũng muốn Nathan à. Nhưng ước muốn không đủ. Không đủ.”

“Vậy còn dân tộc ông thì sao? Gia đình ông thì sao?”

Newton lại nở nụ cười dị thường đó lần nữa. “Tôi hình dung là tất cả họ rồi cũng sẽ chết. Nhưng có lẽ, họ sẽ sống lâu hơn ông.”

Bryce rất ngạc nhiên trước những lời y nói. “Họ có hủy tâm trí ông khi họ hủy đi đôi mắt ông không vậy, ông Newton?”

Biểu cảm của Newton không hề thay đổi. “Ông chẳng hiểu gì về tâm trí của tôi cả, ông Nathan ơi. Đó là bởi vì ông là một con người.”

“Ông đã thay đổi rồi, ông Newton.”

Newton cười nhạt. “Thành cái gì hả, Nathan? Tôi đã thay đổi thành cái gì đó mới, hay quay trở về cái cũ?”

Bryce không biết phải trả lời thế nào nên gã im lặng.

Newton tự rót một ít rượu cho mình rồi đặt lên bàn. Y nói: “Thế giới này rồi sẽ bị diệt vong như thành phố Sodom, mà tôi cũng chẳng làm được gì đâu.” Y ngập ngừng. “Phải, một phần tâm trí của tôi đã bị hủy hoại.”

Bryce vẫn đang tìm kiếm sự phản kháng, gã nói: “Con tàu...”

“Con tàu vô dụng rồi. Nó phải được hoàn thành đúng thời điểm, mà bây giờ không còn đủ thời gian nữa. Những hành tinh của chúng ta không ở khoảng cách đủ gần trong vòng bảy năm nữa. Chúng đã di chuyển tách xa nhau. Nước Mĩ sẽ không bao giờ cho tôi đóng tàu đâu. Nếu có đóng được thì họ cũng không bao giờ cho tôi phóng đi. Mà nếu tôi có phóng đi được thì họ cũng sẽ bắt giữ những người Anthea quay trở về trên con tàu đó thôi, rồi có lẽ là còn làm họ mù nữa. Và hủy hoại tâm trí của họ...”

Bryce đã uống cạn cốc của gã. “Ông nói là ông có vũ khí.”

“Phải, tôi đã nói như thế. Thực ra là nói dối. Tôi chẳng có vũ khí nào cả.”

“Tại sao ông lại nói dối?”

Newton rướn người về phía trước, chậm rãi đặt khuỷu tay lên bàn. “Nathan à. Nathan ơi. Tôi đã e sợ ông khi đó. Bây giờ tôi cũng còn e sợ. Tôi sợ hãi tất thảy cung cách của mọi thứ trong từng khoảnh khắc sống trên hành tinh này, trên hành tinh khổng lồ, xinh đẹp, đáng sợ này, một hành tinh đầy rẫy những sinh vật kì lạ, còn nguồn nước thì dồi dào, sợ luôn cả những con người ở đây nữa. Bây giờ tôi cũng còn e sợ. Tôi sợ mình sẽ chết ở đây.”

Y ngừng lại, và khi thấy Bryce vẫn không nói gì, y lại bắt đầu nói. “Nathan ơi, hãy cứ thử nghĩ là ông đang sống chung với lũ khỉ suốt sáu năm đi. Hoặc là sống với côn trùng, sống với đàn kiến bóng nhẫy, loi nhoi, vô tri.”

Sau vài phút, tâm trí Bryce dần trở nên cực kì sáng rõ. “Tôi nghĩ là ông đang nói dối, ông Newton à. Chúng tôi không phải là côn trùng đối với ông. Có thể ban đầu thì là như thế, nhưng bây giờ không phải vậy nữa.”

“Ồ vâng, chắc chắn là tôi yêu các người. Một vài người trong số các người. Nhưng dù sao thì các người cũng là côn trùng thôi. Tuy nhiên, có lẽ tôi giống ông hơn là giống chính mình.” Y mỉm nụ cười già nua, gượng gạo. “Dẫu sao thì các người cũng là đề tài nghiên cứu của tôi, nhân loại các người. Tôi đã mất cả đời mình nghiên cứu các người.”

Đột nhiên người pha chế gọi họ. “Các ông có cần cốc sạch không ạ?”

Newton hớp cạn cốc của y. “Sao cũng được,” y nói. “Đem ra cho chúng tôi hai cốc sạch đi, anh Elbert.”

Khi Elbert đang dùng miếng giẻ rách màu cam hơi lớn để lau bàn thì Newton nói: “Anh Elbert ơi. Rốt cuộc, tôi đã quyết định sẽ không cố gắng giải cứu chúng ta nữa.”

“Thế thì buồn quá,” Elbert nói. Anh đặt mấy chiếc cốc sạch lên cái bàn còn ẩm ướt. “Tôi rất tiếc khi nghe vậy.”

“Đáng tiếc phải không?” Y mò mẫm tìm chai rượu gin mới đặt trên bàn, khi đã tìm được rồi thì rót rượu vào cốc. Trong lúc rót, y hỏi: “Ông có gặp Betty Jo thường xuyên không, Nathan?”

“Có. Bây giờ cô Betty Jo và tôi đang sống chung.”

Newton nhấp một ngụm rượu. “Như người yêu à?”

Bryce khẽ cười. “Phải, như người yêu, ông Newton à.”

Khuôn mặt của Newton không biểu lộ gì cả, Bryce biết kiểu không biểu lộ này chính là lớp mặt nạ để che giấu cảm xúc của y. “Thì cuộc sống phải tiếp diễn thôi.”

“Thế chứ ông còn mong đợi cái gì nữa?” Bryce nói. “Tất nhiên cuộc sống thì phải tiếp diễn mà.”

Đột nhiên Newton bật cười. Bryce sững sờ, gã chưa bao giờ nghe y cười trước đây. Trong lúc vẫn còn run rẩy vì tràng cười thì Newton nói: “Đó là điều tốt mà. Bây giờ cô ấy sẽ không còn cô đơn nữa. Cô ấy ở đâu?”

“Ở nhà tại Louisville, sống cùng mấy con mèo. Có lẽ giờ đang say xỉn.”

Giọng Newton lại điềm tĩnh. “Ông có yêu cô ấy không?”

“Ông sao thế,” Bryce nói. Gã không thích tiếng cười của Newton. “Cô ấy là một người phụ nữ tuyệt vời. Tôi sống hạnh phúc với cô ấy.”

Bây giờ Newton lại mỉm cười dịu dàng. “Đừng hiểu lầm tiếng cười của tôi nhé, Nathan. Tôi nghĩ đó là một điều tốt, cho cả hai. Hai người đã kết hôn chưa?”

“Chưa. Nhưng tôi đang có dự tính.”

“Bằng mọi giá cũng phải cưới cô ấy nhé. Cưới rồi cùng đi tuần trăng mật. Ông có cần tiền không?”

“Đó không phải là nguyên nhân tôi vẫn chưa cưới cô ấy. Nhưng đúng là có thể tôi cần phải dùng đến một số tiền. Ông có muốn cho tôi tiền không?”

Newton lại bật cười. Y dường như cực kì vui sướng. “Ôi được chứ. Ông cần bao nhiêu?”

Bryce nhấp một ngụm rượu. “Một triệu đô.”

“Tôi sẽ viết cho ông một ngân phiếu,” Newton mò mẫm trong túi áo sơ mi rồi lấy ra một tập ngân phiếu, đặt lên bàn. Đó là tập ngân phiếu của ngân hàng Chase Manhattan. “Tôi đã từng xem một chương trình về tờ ngân phiếu một triệu đô trên ti vi.” Y nói. “Hồi còn ở quê nhà.” Y đẩy tờ ngân phiếu về phía Bryce. “Ông điền vào đấy rồi tôi sẽ kí tên.”

Bryce lấy cây viết bi từ trong túi ra rồi viết tên gã và con số 1.000.000 đô lên tờ ngân phiếu. Gã lại viết cẩn thận bằng chữ. Một triệu đô. Gã đẩy tập ngân phiếu về phía bên kia chiếc bàn. “Tôi viết xong rồi đó,” gã nói.

“Ông phải chỉ tay cho tôi nữa.”

Thế là Bryce đứng dậy, đi vòng qua chiếc bàn, dúi cây bút vào tay Newton rồi nắm bàn tay y trong lúc người Anthea viết. Cái tên Thomas Jerome Newton, được viết bằng nét chữ rõ ràng, cứng cáp.

Bryce cất tờ ngân phiếu vào ví của mình. “Ông có nhớ một bộ phim chiếu trên truyền hình có tên là Thư gửi ba người vợ 33 không?” Newton hỏi.

“Không.”

“À, tôi học viết chữ tiếng Anh từ ảnh chụp lại bức thư đó, cách đây hai mươi năm ở Anthea. Chúng tôi thu được hình ảnh rõ ràng của bộ phim đó từ rất nhiều kênh khác nhau.”

“Nét chữ viết tay của ông rất dễ đọc.”

Newton mỉm cười. “Tất nhiên là thế. Chúng tôi thực hiện tất cả mọi thứ cực kì tốt. Không có việc nào là xem nhẹ, tôi đã rất nỗ lực để có thể bắt chước làm một con người.” Y ngẩng mặt lên nhìn Bryce như thể y thực sự thấy được gã. “Và tất nhiên là tôi đã thành công.”

Bryce không nói gì, chỉ quay trở lại ghế của gã. Gã cảm thấy mình nên tỏ ra đồng cảm, hay một biểu hiện gì đó tương tự, nhưng gã lại chẳng có chút cảm giác nào cả. Thế nên gã vẫn im lặng.

“Ông và Betty sẽ đi đâu? Với số tiền đó?”

“Tôi không biết nữa. Có thể là băng qua Thái Bình Dương, đến Tahiti. Có lẽ sẽ mang theo một cái máy điều hòa nữa.”

Newton lại bắt đầu nở nụ cười như ánh trăng, một nụ cười dị thường của người Anthea.

“Rồi uống cho say nữa đúng không, Nathan?”

Bryce cảm thấy không thoải mái. “Chúng tôi có lẽ sẽ làm như thế.” Gã nói. Gã thực sự không biết mình sẽ dùng số tiền một triệu đô vào việc gì. Mọi người hẳn là sẽ tự hỏi bản thân rằng họ sẽ làm gì nếu được ai đó cho một triệu đô, nhưng gã thì chưa bao giờ tự hỏi chính mình như vậy. Có thể họ sẽ thực sự đến Tahiti rồi say khướt trong một túp lều, nếu ở Tahiti còn lều. Không thì họ có thể trọ ở khách sạn Tahiti Hilton.

“Ừm, tôi chúc ông thượng lộ bình an.” Newton nói. “Tôi rất vui vì mình có thể dùng tiền để làm điều gì đó có ý nghĩa. Tôi có nhiều tiền khủng khiếp.”

Bryce đứng dậy để rời đi, cảm thấy mệt nhừ và hơi say. “Chẳng lẽ không còn cơ hội nào sao?”

Newton ngẩng đầu lên mỉm cười với gã theo lối còn dị thường hơn cả trước đây: Khuôn miệng ẩn dưới mũ, kính nhìn giống như đường cong vụng về trong bức tranh của một đứa trẻ vẽ nụ cười. “Tất nhiên, Nathan,” y nói. “Tất nhiên là còn cơ hội.”

“Ừm, cảm ơn ông đã cho tôi tiền.” Bryce nói.

Vì cặp kính râm nên Bryce không thể nhìn thấy đôi mắt của Newton, nhưng với gã thì dường như Newton đang dõi mắt nhìn khắp nơi. “Dễ đến thì cũng dễ đi, Nathan à,” Y nói. “Dễ đến thì cũng dễ đi.” Newton bắt đầu run rẩy. Cơ thể gầy nhom của y ngã về phía trước, chiếc mũ phớt lặng lẽ rơi xuống bàn để lộ ra mái đầu bạc trắng của y. Thế rồi, mái đầu Anthea gục ngã xuống cánh tay Anthea khẳng khiu và Bryce thấy y đang khóc.

Bryce đứng im lặng, chăm chú nhìn y một lúc. Rồi gã đi vòng qua cái bàn, quì xuống, vòng cánh tay qua thân người Newton, dịu dàng ôm lấy y, cảm nhận được cơ thể nhẹ bẫng ấy đang run lên trong vòng tay của gã như cơ thể của một loài chim thanh nhã, đang run rẩy, đang thống khổ.

Người pha chế lúc này đã tiến đến và khi Bryce ngẩng đầu lên nhìn thì anh ta nói: “Tôi e là ông bạn đây cần được giúp đỡ.”

“Phải.” Bryce nói. “Phải, tôi cũng nghĩ là ông ấy cần được giúp đỡ.”