← Quay lại trang sách

Anh Triền

Triền về cầy cho cụ Lý đã lâu. Độ đầu Triền chỉ biết làm vần vật suốt ngày, tối đến đánh một giấc ngủ sau không mộng mị. Anh sống thản nhiên, không mơ ước và không phàn nàn gì cho số phận nghèo hèn của mình. Thế nhưng hơn một năm trước, có một lần Triền thấy lòng xúc động khi nghĩ đến Hường. Chính Triền cũng không thể hiểu nguyên cớ tại sao? Có lẽ vì Hường đẹp nhất làng, lại là con cụ Lý đương chức. Sắc đẹp và địa vị của Hường đã làm cho những chàng trai làng phải thèm ước và Triền cũng chỉ là một gã trai hai mươi hai tuổi.

.

Từ ngày thầm mê Hường, Triền trở nên ít nói, người ta bảo anh là “lầm lỳ” nhưng trong cái lầm lỳ đó, anh dấu rất nhiều nỗi yêu đương bồng bột.

Còn Hường, không bao giờ nàng lại nghĩ rằng Triền đã dám yêu nàng. Hường đối đãi với Triền cũng tử tế, nhưng cái tử tế của người trên đối với kẻ dưới. Triền cũng nhận thấy và bây giờ mới là lúc anh bắt đầu thấy tủi cực về sự nghèo hèn của anh.

Ngày ngày cứ sáng sớm, Triền giắt trâu ra cầy ngoài đồng, anh làm việc rất khoẻ và chịu khó, vậy mà không bao giờ anh thấy mệt mỏi cả. Bởi óc anh suốt ngày chỉ nghĩ đến Hường; sáng ra khi mới mở mắt, ý nghĩ đầu tiên của anh cũng chỉ về Hường.

Một buổi sớm, Triền gặp Hường trước khi nàng đi chợ Bằng. Hường mặc chiếc áo the la cả mầu gụ, đầu vấn chiếc khăn nhiễu mầu lam giang, mắt sắc dưới đôi mày để tự nhiên đậm và đen, hai gò má cao, ửng hồng, một mầu hồng khoẻ mạnh của da thịt.

Đôi môi thắm và hơi dầy của nàng tươi tắn khi nàng trông thấy Triền. Vẻ tươi đẹp của Hường, quần áo the lụa nàng mặc khác hẳn ngày thường, càng làm Triền nhận rõ thấy sự chênh lệch giữa anh và Hường. Lúc ấy anh mơ đắm và đau khổ lạ lùng.

Trên con đường đi sang chợ Bằng, Hường vui vẻ bước những bước mau trên mặt cỏ còn ướt đẫm sương đêm. Lòng Hường rộn ràng nghĩ đến cậu ký Rượu chợ Bằng, người đã đánh tiếng hỏi nàng làm vợ.

Cậu ký có vẻ người thanh tuấn, trẻ đẹp, lại mặc quần áo tây và có dáng điệu của người tỉnh thành lịch sự.

Hường cho là số phận nàng may mắn. Tuy vậy một đôi khi Hường cũng thấy sốt ruột vì từ ngày cậu ký nhờ người đánh tiếng đến nay đã được mấy tháng rồi mà nhà trai vẫn chưa đưa trầu chạm ngõ. Hường lo sợ cậu ký đổi ý. Bây giờ cứ mỗi buổi phiên chợ Bằng, Hường thường hay dậy sớm để làm dáng. Chiếc áo the mầu gụ, và mảnh khăn nhiễu tam giang, ngày thường Hường vẫn xếp gọn trong rương lại được Hường lôi ra.

Một buổi kia, Triền đánh trâu ra cầy mãi tận ngoài đồng Giang. Vì xa nhà, buổi trưa không tiện đi về nên Hường phải đem cơm ra cho Triền. Trông thấy Hường từ đàng xa, Triền đã hồi hộp. Khoảng đồng chỗ đó vắng người; nắng buổi trưa đã lên cao, gió chỉ hơi thoảng nhẹ: cảnh vật lúc ấy yên lặng quá! Triền sung sướng và sờ sợ, khi thấy rằng chỉ mấy phút nữa sẽ có mình anh với Hường ở đây. Anh cố làm như chỉ chuyên chú vào đường cầy. Tiếng anh giục trâu “vắt …vắt…” luôn miệng, tuy vậy bước chân Hường đi tới bờ ruộng nào anh đều biết cả. Chỉ một lát Hường tới nơi, đặt giá cơm trên mô đất phẳng và sạch, rồi gọi:

– Anh Triền, hãy nghỉ để ăn trưa đã.

Triền không trả lời, thong thả giắt trâu lên bờ, tìm một chỗ cỏ tốt thả cho trâu nghỉ, rồi đi ra ăn cơm.

Hường ngồi xuống đất, ngay bên cạnh chỗ Triền ăn. Nàng duỗi hai chân, một tay chống xuống đất, một tay ngả nón quạt, mắt nhìn thửa ruộng Triền cầy, nói:

– Anh cầy một hôm nay có xong không?

Triền trả lời cụt lủn:

– Xong.

– Ừ, thế thì mai đỡ phải đem cơm ra đây. Gớm xa quá!.

Triền ngửng nhìn Hường xong lại im lặng ăn. Mãi anh mới nói:

– Giá có còn cầy ở đây, cô cũng chẳng phải đem cơm ra làm chi cho mệt…

Hường nhìn Triền lạ lùng rồi nói:

– Không đem để anh bỏ về ăn thì hết ngày còn gì!

– Về thế nào được.

– Thế anh ăn bằng gì?

– Cũng chả cần phải ăn.

Dứt lời anh cười im lặng. Trong cái cười của Triền, Hường cảm thấy có một sự gì khác; tự nhiên Hường thấy ngường ngượng và khó chịu lạ.

Lúc ấy Triền cũng đã ăn xong. Anh rót nước trong cái ấm đất ra bát uống, với cái điếu cầy kéo một hơi rồi anh buông điếu, khoanh hai tay vòng lấy đầu gối, mặt hơi ngửa, mắt lim dim, miệng thở khói thuốc.

Một cơn gió nghẹ thoáng làm Hường ngửi thấy từ ở người Triền đưa lại, mùi thuốc lào lẫn với mùi mồ hôi ướp lâu ở chiếc áo vải nâu dầy, lại phơi dưới nắng, trở nên một mùi nồng hắc khó chịu. Hường nhăn mũi, và một tưởng tượng đến với nàng rất nhanh:”Nếu mình lấy Triền”. Hường nhăn mặt như nếm phải một thứ đắng. Hường nhớ đến cậu ký trẻ đẹp, lúc nào vào mua rượu Hường cũng thấy cậu ngồi trước bàn giấy, viết nhanh thoăn thoắt, miệng ngậm mẩu thuốc lá cháy dở. Và lúc đứng gần để trả tiền, Hường thấy ở người cậu có một mùi thơm đầm ấm làm nàng say mê.

Hường ở đồng về được một lúc, bà Lý gọi Hường lên nói chuyện bên nhà cậu ký đã nhờ bà Xã, là người có họ xa với nhà Hường, đến xin ngày nộp lễ vấn danh. Hường sung sướng, nhưng làm ra vẻ phụng phịu trả lời mẹ:

– Con không biết! Con chả lấy chồng.

Bà Lý biết ý con gái, mỉm cười đưa tay quệt cốt trầu trên miệng rồi mắng yêu:

– Cô nào cũng vậy, cứ hễ nói đến là “con chả lấy chồng”, thế để cô cứ ở nhà ăn báo tôi mãi chắc?

Hường cười, không trả lời, chạy xuống nhà ngang.

Cùng lúc ấy, Triền đánh trâu ở đồng về. Trông thấy Triền, Hường vui vẻ, cái vui vẻ mà Hường có tràn ngập trong lòng. Tự nhiên Hường nói nhiều với Triền. Nàng đi dọn cơm cho Triền ăn, và hỏi Triền canh nàng nấu có ngon không.

Thấy thế, Triền sung sướng bàng hoàng. Anh nhìn Hường đắm say, cái nhìn đầy nỗi yêu đương, vừa như có ý cảm ơn, vừa như tủi. Anh thầm nghĩ:

“Ồ, có lẽ Hường đã hiểu lòng mình và yêu mình rồi chăng?”

Nhưng Hường chẳng hiểu gì cả, và cũng không để ý đến cái vẻ đắm đuối của mắt Triền lần đầu tiên đã dám nhìn thẳng vào nàng. Nàng còn đang nghĩ đến cậu ký rượu, người có vẻ tỉnh thành, mặc tây sắp sửa là chồng nàng.

“Nhưng sao cậu ấy lại hỏi mình?” Hường lo sợ khi chợt nghĩ đến các cô tân thời ở tỉnh. Nhưng nhớ đến sắc đẹp mà Hường vẫn tự phụ là nhất vùng, nàng yên tâm và thầm nhủ:

“Ồ; thiếu gì người chả lấy vợ nhà quê, xong rồi cho ăn mặc tỉnh đẹp đẹp là, như chị Vân làng Hạ ấy. Nếu cưới xong anh ấy muốn mình mặc tân thời thì mặc, sợ gì!”

Tự nhiên Hường quay lại hỏi Triền:

– Này anh Triền, hôm làng vào đám anh có trông thấy chị Vân không? Chị ấy lấy được chồng tỉnh, bây giờ ăn mặc tân thời đẹp quá nhỉ?

Triền nhìn Hường, rồi chậm rải đáp:

– Đẹp quái gì! trông thế nào ấy.

– Thế tôi mặc liệu có đẹp không?

Ở vào tâm trạng Triền lúc ấy thời câu hỏi của Hường quá bạo, anh sung sướng quá thành thẹn đỏ mặt, mỉm cười, và cúi xuống không trả lời. Hường thời bận theo ý nghĩ của mình không để ý.

Tối hôm đó, Triền vui vẻ; mặc dầu bà Lý chẳng bảo, Triền cũng lấy mấy thúng thóc ra xay băng băng, và một mình giã gạo mải đến khuya; anh vừa làm vừa hát vang lên. Những bài hát mà trước khi mê Hường anh vẫn hát và được cái Kẽm cho là hay lắm. Thế rồi lúc đi ngủ, anh còn nằm chán để nghĩ đến từng cử chỉ và lời nói của Hường. Anh nghĩ nó ra một ý nghĩa tình tứ theo sự tưởng tượng của anh, anh mỉm cười luôn, rồi ôm mộng mà ngủ.

Nhưng cái mộng của Triền chẳng được lâu. Một hôm anh thấy người ta mang trầu cau sang chạm ngõ Hường. Triền buồn khổ, tưởng như đến phát điên. Anh đánh trâu ra đồng, nhưng chẳng còn bụng dạ nào làm việc. Anh liền nghỉ buổi cầy; về nói là bị cảm không làm được, rồi vào giường nằm. Có lúc lại rình xem mặt Hường có buồn không. Anh cho là Hường cũng thương anh, cho sự nhận lời lấy người khác là do tự bố mẹ nàng. Không biết anh đã thấy thế nào, lại cho là nàng có vẻ mặt buồn lắm! Thế rồi một ý nghĩ táo bạo vụt đến trong óc anh.

Biết Hường sắp đem rau ra ao rửa – ao ở về phía vườn trong, rất khuất – Triền liền ra đợi trước ở gốc sung bên cạnh bờ ao. Khi Hường vừa ra đến nơi, Triền chạy lại ôm chầm lấy nàng gục đầu vào giữa ngực Hường mà khóc. Trước sự bất ngờ ấy, Hường sợ hãi quá! Rổ rau trên tay rơi xuống đất, toàn thân bủn rủn miệng há hốc, muốn kêu nhưng không thành tiếng. Triền thời vừa khóc vừa nói:

– Hường ơi, Hường có thương tôi không. Có không? Hường, Hường! có không?

Lúc này Hường mới nhấc nổi tay lên, nàng nắm chặt lấy tóc Triền, đẩy mạnh ra, miệng thở mạnh, dáng tức tối. Đáng nhẽ Hường nói:”Đồ khốn, không!”. Nhưng không hiểu có một lẽ gì, hoặc giả nàng sợ nói “Không” thì Triền làm quá chăng. Vì vậy tự nhiên Hường nói:

– Đồ khốn…Có.

Triền buông Hường ra, mắt anh đỏ ngầu, miệng nhếch cười, nói lảm nhảm:

– Có, có, Hường có thương tôi.

Hường không thấy gì cả, nàng chạy về buồng nói là ra ao rửa rau bị chóng mặt ngã. Bà Lý thấy con bị cảm chạy vào thăm. Hường ôm lấy mẹ khóc và kể cho mẹ nghe.

Bà Lý giận lắm, nhưng nghĩ rằng làm to chuyện lỡ bên nhà trai và hàng xóm biết thời không tiện, bà đành khuyên Hường phải giữ kín, và bảo:

– Được rồi, mẹ đã có cách, chứ bây giờ đuổi nó đi cũng không được, sợ nó tức rồi nó đặt điều không hay. Vả mượn ai làm thay được bằng nó, nó khoẻ và chịu khó.

Nghĩ ngợi một lúc rồi bà lại tiếp:

– Để u bắn tin cho bên nhà trai cưới sớm đi.

Nghe mẹ nói, Hường mỉm cười. Bà Lý ra khỏi buồng. Hường nằm ngả trên giường, tay nàng bất giác đặt lên ngực, chỗ mà hồi nãy Triền gục mặt vào. Qua lần yếm mỏng, Hường cảm thấy hơi thở nóng của Triền vẫn còn như quyện ở nơi đó và vương khắp trên da thịt nàng. Một cảm giác lạ lùng truyền nhanh trong người Hường. Mặt Hường bừng đỏ. Hường nhớ ngay đến cậu ký! Nàng khẽ nhắm mắt mỉm cười, tưởng tượng đến lúc là vợ cậu ký. Lúc đó Triền không còn dự một phần nào trong ý nghĩ của Hường nữa.

Còn Triền sau buổi ấy anh làm việc càng khoẻ và càng chăm. Cả ngày cứ lỳ lỳ, trừ có ai hỏi điều gì, anh chỉ trả lời gióng một. Anh như hối hận về cử chỉ của anh trong phút điên cuồng. Nhưng lòng anh vẫn phân vân, nửa như thấy Hường yêu mình, nửa thấy như không. Vì vậy anh càng khổ. Anh luôn luôn nghĩ đến câu nói của Hường, và tự giải thích:

“Ừ, lúc ấy thời Hường cần gì phải nói dối mình, nếu cô ấy ghét mình thời cô ấy lại không làm tán loạn lên ấy chứ lại! Đàng này lại chỉ nói “Đồ khốn! có”. Cũng tại mình làm quá nên người ta đừng bảo là “đồ khốn” à. Nhưng mà “có” là được rồi.

Một hôm nhân lúc nhà vắng vẻ, bà Lý gọi Triền lên ngọt ngào bảo:

– Anh ở đây với tôi đã lâu ngày, tôi coi anh cũng như con cháu trong nhà. Nhất là thày bu anh mất cả…

Bà Lý ngừng lại, nhặt miếng trầu lên ăn. Lòng Triền cởi mở, anh nghĩ đến Hường. Tiếng bà Lý nói tiếp:

– Em Hường có con trai cụ Tổng bên Bằng hỏi, em nó đã bằng lòng và chúng tôi cũng đã nhận lời rồi. Người ta xin đến tháng tám này thì cưới.

Bà Lý vừa nói rứt lời, Triền thấy tai ù đi, người choáng váng. Giá anh bật khóc lên ngay lúc ấy, có lẽ sẽ an ủi, dịu lòng, nhưng anh vẫn nén được và ngồi ngây người.

Bà Lý nhả miếng trầu ra xem, quệt thêm tý vôi, rồi lại bỏ vào mồm nhai, làm như không để ý đến Triền, nhưng không có một cử chỉ, hơn nữa, một ý nghĩ của Triền mà bà không nhận thấy hay đoán biết. Chờ mấy phút yên lặng qua đi, bà lại tiếp:

– Nếu em nó về nhà chồng rồi, thời nhà lại vắng. Vì vậy tôi định gây dựng cho anh. Anh có bằng lòng lấy cái Kẽm để tôi mua nó về cho anh. Tiền tôi cho vay, rồi hai vợ chồng về làm ăn mà trả lần. Anh nghĩ thế nào?

Tiếng bà Lý nói, Triền nghe văng vẳng và mơ hồ, tuy vậy anh vẫn hiểu biết hết. Nhắc tới tên cái Kẽm, con gái lớn bác Đĩ ở xóm dưới, Triền nghĩ ngay đến con bé mập mạp, có đôi mắt toét đỏ và hai vành môi rộng, cứ mỗi lần trông thấy Triền đâu lại tìm cớ đến gần cười nói huyên thuyên.

…Một hôm, đã lâu rồi, khi việc đồng áng đã xong, Triền ra hàng cô Cả ngồi chơi hóng gió. Hàng cô Cả là một mái lều dựng dưới bóng một gốc cây nhãn lớn bên cạnh miếu thờ Thần. Phía trước có một con sông, bờ bên kia là một con đê cao chạy dài theo dọc con sông. Trên mặt đê, những con trâu đen thong thả gậm cỏ dưới ánh nắng vàng của một chiều đương tà. Trẻ chăn trâu túm năm tụm ba ríu rít nô đùa. Một vài đứa bơi lội dưới sông, hò hét rầm rĩ. Hàng cô Cả thuận hướng gió từ phía sau đồng và phía sông thổi tới lồng lộng. Khóm tre sau miếu lay động xào xạc. Lá nhãn reo lao xao nghe rất vui tai.

Chiều chiều mọi người trong làng ra đấy hóng gió và ăn quà. Những món quà của hàng cô Cả bán hôm nào cũng như hôm nào, chỉ có món bánh đúc riêu nguội tanh, ăn lẫn với mấy quả sung non chát xít, với thứ bánh uôi (bánh làm bằng gạo nếp) do cô làm lấy. Vậy mà chẳng bao giờ ế.

Chiều hôm đó hàng cô rất đông. Ai ăn quà thì ngồi trên cái ghế gỗ dài đặt trước cửa hàng, ai không ăn thì ngồi bệt trên những phiến đá to lót làm lối đi lại của đường làng, hoặc đứng quanh quẩn nói chuyện phiếm. Triền vừa ngồi vào hàng được một lát thời có cái Kẽm tới. Nó cười toe toét, và nói oang oang. Ghế hàng cô Cả lúc ấy đã chật, duy chỉ thừa một chỗ bên cạnh Triền. Kẽm chẳng lưỡng lự, ngồi ngay vào đấy làm Triền khó chịu, phải xích lui ra.

Cô Cả vui cười hỏi Kẽm:

– Ăn bánh đúc nhé, hay ăn bánh uôi. Hãy còn nóng, ngon đáo để.

Trước khi trả lời, Kẽm đưa mắt nhìn Triền. Cô Cả cũng nhìn theo, nói:

– Anh Triền ăn chiếc bánh, cô Kẽm trả tiền hộ đấy.

Nói xong cô Cả cười, mọi người có mặt cũng cười theo. Bỗng Triền giật mình, có tiếng cười của Hường đâu đây. Anh quay nhìn lại: Hường đã ra tự lúc nào!

Nàng đứng cạnh bức tường miếu quét vôi trắng, vì mới gội đầu nên mớ tóc dài đen óng được buông toả về phía sau lưng; Hường đang nghiêng đầu chải và hứng mớ tóc hong theo chiều gió. Vừa chải tóc, Hướng vừa hướng về phía hàng cô Cả cười góp rồi nói:

– Ăn bánh có người trả tiền hộ, kể anh Triền cũng tốt số. Cứ ăn đi, Triền ạ! Chả cô Kẽm cô ấy giận.

Hường vừa dứt lời thời cô Cả cũng vừa cầm chiếc bánh đưa cho Triền. Anh cáu kỉnh, dằng lấy chiếc bánh vứt xuống đất rồi hầm hầm đứng lên đi ra phía bờ sông. Mọi người cười ồ lên, nhưng Triền chỉ nghe thấy tiếng cười của Hường trong và cao hơn cả. Triền càng thấy ghét cái Kẽm, tức mọi người, tức mình, và giận cả Hường.

Hường đã trêu đùa Triền, sự đó tỏ ra nàng chẳng có một chút tình nào đối với anh. Và câu nói buông trống “cứ ăn đi Triền ạ!” có vẻ một người trên nói với kẻ dưới, mỗi khi nghĩ tới, Triền lại thấy bực dọc vô cùng…

…….

– Thế nào? Con bé nó làm ăn và chịu khó đấy chứ!

Tiếng bà Lý hỏi như lôi ý nghĩ của Triền trở về với việc hiện tại. Lòng anh như có một niềm uất giận đầy lên. Anh cúi đầu, trả lời trong tiếng thở dài:

– Bà hãy để thong thả.

– Thế để tôi đánh tiếng trước, rồi chờ cho xong việc của em Hường, tôi lo cưới nó về cho anh nhé?

Rồi dằn giọng, bà Lý nói như giao hẹn:

– Này, không phải việc trẻ con đâu, nghĩ cho kỹ đi. Vả lại chả có đám nào hơn anh ạ. Con bé khoẻ mạnh và biết lo làm ăn.

Triền vẫn cúi đầu, khẽ nói:

– Cám ơn bà.

– Thế anh bằng lòng?

– Bà để con thong thả.

Hôm cưới Hường, Triền tò mò một cách đau khổ, để cố ngắm từng nét mặt, từng tiếng nói và cử chỉ của chồng Hường. Anh buồn rầu khi nhận thấy người ấy có vẻ công tử, và có những dáng điệu là lạ mà anh không thể có.

Hường về nhà chồng rồi, Triền ngơ ngác và hay cáu kỉnh, “tính nết như người dở hơi” mọi người ai cũng bảo thế, duy có bà Lý là hiểu căn do.

Có lúc Triền ngồi ngẩn ngơ hàng giờ, có lúc lại vụng trộm vuốt nước lên đầu soi bóng vào chiếc gương con, rồi chải tóc bắt chước theo kiểu của chồng Hường, để rồi lại vò rối đi, sợ có người bắt gặp.

Ngày phiên chợ, anh cố lén ra chợ mua một bao thuốc lá để lúc vắng người lấy ra hút và làm dáng điệu cậu ký. Anh cũng cặp điếu thuốc giữa hai ngón tay đưa lên một bên mép, hít một hơi, rồi lại bỏ điếu thuốc ra, và hơi ngửa mặt lên trời từ từ phun khói. Vì không hút quen nên Triền luôn bị sặc, ho rũ rượi. Những lúc ấy, trông Triền thực là một anh rồ. Nhưng Triền không rồ, vì vẫn còn trí khôn để giấu kỹ không cho ai biết những cử chỉ đau thương của mình.

Hường lấy chồng tháng tám, tháng chín bà Lý cưới cái Kẽm về cho Triền. Triền nhờ bà Lý sắm cho cái Kẽm một cái áo the mầu gụ và một chiếc khăn nhiễu tam giang để đưa sang cho Kẽm mặc hôm đám cưới. Làm thế chắc Triền mong ở Kẽm một hình dáng gì của Hường chăng?

Đêm trước ngày cưới, Triền nhớ Hương bồng bột hơn tất cả mọi lúc. Anh oán giận Hường, nhưng càng yêu Hường mãnh liệt hơn. Anh vò đầu bứt tai hay ngồi thừ trước ngọn đèn, chẳng có ý nghĩ gì rõ rệt cả. Nước mắt anh lặng lẽ chảy. Nhưng đến lúc gà gáy sáng lần thứ hai, Triền cũng trở dậy sửa soạn.

Lúc anh đi ra bể múc nước rửa mặt thì trời hãy còn tối, chỉ có ánh sáng yếu ớt của những ngôi sao gần tàn chiếu loãng trên sân gạch rộng. Hình hai cây cau thẳng tắp ở trước khu nhà bếp vắng lặng làm Triền càng thêm buồn. Anh nhớ tới những vụ cầy xưa, khi Hường còn ở nhà.

Ngày nào cũng vậy, cứ vào giờ này, Hường đã dậy nấu cơm. Ánh lửa rơm lập loè trong khu bếp tối, soi lên khuôn mặt xinh tươi của Hường. Gần đấy, Triền ngồi sửa lại cái cầy, bện lại một mồi rơm hoặc giúp Hường vo giá gạo. Những lúc ấy, Hường hay bắt Triền kể truyện cổ tích cho nàng nghe, gặp đoạn nào vui, Hường cười ròn rã, khiến Triền sung sướng. Anh thầm nghĩ:”Giá không lấy được Hường thời ước gì ta cứ được sống chung nhà với Hường như thế này mãi. Hường cũng đừng lấy chồng mà ta cũng đừng lấy vợ…”

Nghĩ đến đây, Triền thở dài, anh cúi xuống lấy tay vốc nước ở chậu lên rửa mặt. Anh rửa kỹ hơn mọi sáng, rồi anh lấy nước dấp lên đầu, bàn tay anh xoa xuống chân tóc ở gáy. Anh rất vừa ý về cái đầu mới hớt ngày hôm trước. Anh đã công phu lên tận phố Ga để tìm đến hiệu hớt tóc mới dọn từ trên tỉnh về. Anh cho phải như thế mới có được cái đầu diện. Anh bắt người thợ chải đi, chải lại cho anh cái đầu có mớ tóc hơi bồng bồng, bóng bẩy.

Khi ở hiệu tóc ra, đáng lẽ đi thẳng về, nhưng chân anh lại đi về phía chợ Bằng. Anh cầu Trời khấn Phật cho anh được gặp Hường lúc ấy. Tim anh đập mạnh, và anh luống cuống với chính anh.

Đi được một quãng đường, anh gặp bọn người làng đi về phía anh, trong đó có bà Bình là cô của cái Kẽm, bà lên tiếng hỏi:

– Anh Triền đi đâu đấy?

Trước con mắt tò mò ngắm nghía của bà Bình và những người khác, Triền đỏ mặt, ấp úng:

– Tôi sang chợ Bằng.

– Hôm nay mười tám, làm gì có chợ Bằng.

Triền càng đờ mặt, sợ mọi người đoán được ý mình, anh hỏi:

– Thế các bà đi chợ nào?

– Chúng tôi đi chợ Lịm nhưng bây giờ tan rồi.

Rứt lời bà Bình đập vào vai Triền, nói trong tiếng cười:

– Thôi đi về, ông tướng ơi! Ngày mai cưới vợ, sướng quá cho nên bây giờ mất trí phải không?

Triền không còn cớ gì để sang Bằng nữa, anh buồn bực quay về, lẩm bẩm:

– Biết thế chẳng tội gì lên tận Ga hớt tóc.

Bây giờ tự nhiên anh lại bằng lòng về cái đầu của anh. Trước cái gương con ở cạnh đèn, Triền nghiêng đầu, ngoẹo cổ để chải đầu. Xong anh lật gối lấy chiếc quần vải trắng mà tối hôm trước, lúc đi ngủ, anh đã xếp cẩn thận đặt xuống dưới gối cho thành nếp. Anh lại giỡ cái áo vải láng và chiếc khăn xếp ra ngắm. Đấy là bộ đồ cưới bà Lý đã sắm cho Triền. Triền buồn rầu nghĩ đến hôm cưới Hường, chồng Hường sang trọng trong cặp áo sa-tây mà suốt đời anh chắc chắn sẽ không bao giờ được mó tới. Triền lẩn thẩn nghĩ:

“Sao mình lại không là người ấy? Giá bố mẹ chồng của Hường… Chỉ tại bố mẹ mình nghèo.”

Trời đã sáng hẳn. Triền cầm chổi quét buồng mình cẩn thận. Anh đứng ngắm gian buồng bé nhỏ, chỉ kê có nội cái giường tre mới, trên trải một chiếc chiếu đậu cũng mới. Mà ngay cả đến cái buồng này, bà Lý cũng mới cất lên cho Triền ở vườn này. Vì theo tục lệ cổ, Triền không phải là con, nên bà kiêng không cho đón dâu về nhà bà.

Mãi gần trưa mới đến giờ tốt. Triền ngượng ngập trong bộ quần áo mới, đi sau một cụ già cầm hương với mấy người bạn trai và mấy bà hàng xóm. Lúc đám cưới ra tới đường làng, trẻ con xúm tới xem và reo lên:

– A! đám cưới anh Triền lấy chị Kẽm chúng mày ơi!

– Ứ ừ, nước gì! Thế mà cũng gọi là cưới. Cưới cô Hường mấy to chứ.

Chỉ là những câu nói ở miệng trẻ, vậy mà Triền cũng thấy uất lên vì tủi thẹn. Giá lũ trẻ đem so sánh với đám cưới khác cũng chẳng sao, chúng lại đem so sánh ngay với đám cưới của Hường. Nhưng lúc tới nhà Kẽm, chính Triền cũng không tránh khỏi sự so sánh ấy. Qua cái cổng tre sơ sài và cái sân đất nhỏ hẹp, tới ba gian nhà xiêu vẹo, trông không có vẻ tấp nập một đám cưới, trừ vài ba người đang nấu cỗ ở dưới bếp.

Mấy đứa em của Kẽm đứng ngấp nghé ở hè, đứa nào cũng được mặc quần chớ không ở truồng như mọi ngày. Triền buồn rầu nhớ tới cảnh tưng bừng, rộn rịp hôm cưới Hường.

Một lúc sau, nhà trai đứng lên xin đón dâu. Người ta gọi Kẽm ra. Trong phút ấy, mọi ý nghĩ của Triền như lắng cả xuống, anh hồi hộp đợi.

Lúc Kẽm và mấy cô phụ dâu ở buồng trong bước ra, Triền cúi đầu, nhưng mắt vẫn liếc nhìn Kẽm. Trời ơi! Một điều Triền không thể ngờ được là trong tấm áo the mầu gụ, Kẽm trông không béo phục phịch ra nữa, chỉ hơi đẫy. Đôi mắt tuy không sắc như mắt Hường, nhưng không đỏ và ướt như mọi ngày; vành môi như bớt rộng, và cái đầu thì thật là giống đầu Hường. Mớ tóc cũng đen mướt vấn lẳn dưới vành khăn nhiễu tam giang. Kẽm bẽn lẻn cúi đầu khi bắt gặp đôi mắt Triền, làm lòng Triền thấy vui vui.

Cái Kẽm hôm ấy không như cái Kẽm mọi ngày, lúc nào cũng cười toe toét và đôi mắt ướt nhèm. Triền đã thấy ở Kẽm một duyên dáng gì của Hường.