
Hai Chị Em
Tổng số chương: 7
Trong ấn bản đầu tiên ấn hành năm 1953 vì bị chính quyền đương thời kiểm duyệt nên tập truyện tuy đăng tên là HAI CHỊ EM nhưng lại không có truyện ngắn này.
Mãi tới năm 1958 được phép in lại, nên truyện ngắn HAI CHỊ EM mới xuất hiện trong tác phẩm XÓM NGHÈO của tác giả.
Để trả lại cho tập HAI CHỊ EM truyện ngắn mà tác phẩm đã mang tên, trong kỳ tái bản này chúng tôi cho in lại truyện ngắn HAI CHỊ EM lấy trong tập truyện XÓM NGHÈO. Khi tái bản XÓM NGHÈO, tác giả sẽ thay thế bằng một tác phẩm mới.
ĐÔNG PHƯƠNG
1967
.
Kính tặng hương hồn chị tôi
vợ anh L.K. một chiến-sĩ Quốc Gia.
Sau mấy ngày xẩy ra cuộc phân tranh Quốc-Cộng, Dung nhận được thư của Lẫm từ mặt trận gửi về. Thư nói những gì, Dung không đưa cho Nhàn xem, nhưng Nhàn thấy chị cứ được rỗi lúc nào lại giở thư ra đọc thầm, phần nhiều là lúc Dung nằm trên võng ru con ngủ. Khi Nga đã ngủ say, Dung lại giở thư chồng ra đọc. Nhìn theo cử chỉ của Dung, Nhàn thấy chị vừa xem vừa chấm nước mặt, nhưng thỉnh thoảng lại mỉm cười.
Một lần Nhàn hỏi Dung:
– Thư anh có nói bao giờ anh về thăm chị với cháu không?
Dung khẽ thở dài, chớp mắt mấy cái, rồi nói:
– Theo hy vọng của anh ấy thời chỉ mấy ngày nữa quân ta sẽ chiếm lại được thành. Anh hẹn lúc đó sẽ về thăm nhà, thế nhưng….
Dung tỏ vẻ lo ngại, lấy thư của Lẫm mà lúc nào nàng cũng để ở trong túi áo ra, ngập ngừng đọc một đoạn cho em nghe. Mặc dầu nàng đã thuộc lòng, nhưng vẫn cứ nhìn theo từng chữ trong thư để đọc. Nàng hơi đỏ mặt e thẹn, vì trong thư Lẫm gọi nàng bằng em mà trước mặt mọi người Lẫm chưa hề gọi nàng như vậy.
“Nếu nhỡ ra anh có mệnh hệ nào thời em cố gắng vui vẻ nuôi con cho sau này nó nối chí anh. Nhưng nói vậy thôi, anh không sao đâu, em đừng lo. Anh hứa hôm nào quân ta vào được trong thành, anh sẽ về thăm em và con”.
Đọc đến đây Dung ngửng lên, rươm rướm khóc nói:
– Anh ấy ở ngay ngoài mặt trận, giữa nơi bom đạn, mà nói gở thế này nhỡ có…
Dung không nói được hết câu; nàng ngừng lại, nước mắt ràn rụa trên má. Trong lúc ấy Nhàn vẫn ngồi yên, tay táy máy gấp mảnh giấy làm thuyền, gấp xong lại tháo ra đã mấy lần. Nhàn muốn nói một vài câu an ủi chị, nhưng không biết nói gì, vì chính nàng cũng đang thấy lòng nao nao muốn khóc phần ái ngại cho chị, phần nhớ chồng.
Tuấn vì công việc phải sang Tầu từ khi Nhàn đẻ đứa con gái được vài tháng và đã từ lâu Nhàn không được tin tức gì của chồng nữa.
Một tối cả nhà đã ngủ được một lúc lâu bỗng có tiếng súng từ tỉnh vang tới, tất cả đều giật mình thức giấc, nhưng vẫn nằm yên, trừ có Dung đã ngồi bật dậy.
Nàng hoảng hốt nói như cầu cứu: “Chết rồi? Không biết bên nào bắn mà ghê thế! Cô Nhàn có thấy ở đây mà cũng chuyển cả đất không?”
Thấy Nhàn không trả lời, tự nhiên Dung cáu gắt lên với em: “Gớm chết! Súng đạn ầm ầm thế mà vẫn cứ ngủ yên được, không biết sốt ruột!”
Dung vừa nói rứt lời, thì một loạt súng khác dữ dội hơn vang tới, Dung lật chăn bế con dậy và nói: “Nga ơi! dậy đi. Ở ngoài mặt trận bây giờ còn bao nhiêu người đang chiến đấu, có khi còn phải lội xuống nước ẩn mình để đánh Cộng quân nữa, mình ở đây đã được yên ổn, còn đắp chăn ấm áp làm gì”
Nhàn tuy nằm nhưng vẫn hé mắt nhìn Dung. Bóng ngọn đèn Hoa-kỳ vặn nhỏ để trên bàn thờ chiếu qua lần màn mỏng vào người Dung một ánh sáng mờ mờ. Dung ngồi bế con như một cái bóng; đứa bé vẫn ngủ, Dung thời luôn miệng cầu khấn, tiếng nàng khe khẽ, nhưng run run và nóng nẩy:”Lạy Giời, lạy Phật cho quân ta thắng, không ai chết!”
Nhàn không ngờ chiến tranh xẩy ra lại thay đổi tính Dung. Hồi trước, mỗi lần thấy Lẫm vào giúp vào công việc xã hội, hay thấy anh năng đọc sách chính trị là Dung laị phàn nàn. Có nhiều lần, Nhàn thấy chị gắt với Lẫm:”Người gì mà chả để ý đến công việc làm ăn buôn bán, chỉ lo những việc đâu đâu. Việc nhà thời nhác, việc chú bác thời siêng…”
Lẫm phần nhiều chỉ cười ôn hoà và đem các lý lẽ cao siêu ra giảng giải cho vợ nghe, nhưng Dung không thể hiểu. Lẫm càng nói, Dung càng cho là Lẫm gàn, và càng tức với chồng. Bây giờ thời khác hẳn. Suốt từ hôm về đây, Dung không hề có một ý gì trách chồng không cùng chạy với nàng, như nhiều người đàn ông khác đã thu xếp đồ đạc, giắt díu vợ con chạy trốn. Nàng lại còn tỏ vẻ khinh những người như vậy, và nói:”Nước Việt Nam cần phải có những người như Lẫm.”
Nàng luôn luôn ca tụng các chiến sĩ và vô tình đã trở nên một tay tuyên truyền rất hăng hái cho mặt trận Quốc-gia kháng Cộng.
Ngày ngày, những lúc rỗi rãi, Dung bế con ra ngoài Miếu chơi. Gặp các người tỉnh thành qua lại ở đường làng, bao giờ nàng cũng hỏi:
– Thế nào bác! Quân ta thắng hay bại!
– Thắng! Phải thắng chứ. Sắp chiếm lại được thành rồi!
Dung vui sướng hỏi tiếp:
– Thế khu Nam sao hở bác?
– Khu Nam à? Các anh em ở đấy chiến đấu anh dũng và tinh thần lắm!
Dung cười kiêu hãnh, nghĩ đến Lẫm đang làm phó chỉ huy ở đó. Thế rồi gặp ai nàng cũng nói:”Quân ta chiến đấu hăng hái lắm! Sắp lấy lại được thành rồi.”
Qua một tháng, bỗng có người đưa tin về cho Dung biết là Lẫm đã bị tử trận. Được tin, Dung khóc nhiều lúc như đứt hơi hay đến lịm đi. Đã có lúc nàng nghĩ đến sự chết, nhưng nhớ đến lời chồng dặn:”Nếu anh có mệnh hệ nào thời em cố gắng vui vẻ nuôi con để sau này nó nối chí anh.” Và “Còn Nga, khi mình chết đi rồi thời nó ở với ai, ai cho nó ăn cơm, ai tắm cho nó và nó ngủ với ai?” Nghĩ đến đây, Dung càng thấy thương tâm và thương Nga quá. Nàng vội ôm chặt con vào trong lòng, áp má nàng vào má nó, vừa khóc vừa nói:”Không, mợ không chết đâu. Mợ ở với Nga, nuôi Nga nhớn lên để sau này nối chí ba chứ!”
Thấy chị bỗng nhiên goá chồng, Nhàn buồn như chính nàng đang gặp cảnh ngộ ấy. Nhàn nghĩ giá bây giờ Tuấn về, nàng ở với chồng, chắc Dung trơ vơ khổ sở lắm. Chỉ mới tưởng tượng vậy thôi mà Nhàn đã thấy não lòng. Nhưng Nhàn không nén nỗi nhớ chồng bồng bột. Mỗi lần có việc phải đi chợ, hay sang làng bên, trên con đê dài xa hút nếu có bóng một người đàn ông nào từ xa đi tới là tim Nhàn lại hồi hộp. Nhàn hy vọng và tưởng tượng người đó là Tuấn, biết đâu Tuấn thấy trong nước loạn lạc, lo cho vợ con gia đình, chàng đã trở về và đương tìm đến nơi Nhàn ở..
“Ồ, nếu thực thế khi gặp mình chắc sẽ ngã ngất vào lòng Tuấn chứ không còn nói gì được nữa”.
Sự tưởng tượng sung sướng có lẫn nhiều tủi hổ khiến Nhàn phát khóc.
Dung biết là Nhàn nhớ chồng lắm, nhưng không bao giờ thấy Nhàn nhắc nhở tới Tuấn trước mặt Dung. Một lần, Dung bắt bặp Nhàn đang mê say xem ảnh chồng; lúc nghe tiếng Dung, Nhàn vội cất ảnh quay ra. Nhưng nhìn mắt Nhàn, Dung cũng biết là em vừa mới khóc. Lúc ấy Dung thấy lòng xao động. Nàng không thể phân biệt được rằng mình đang phải nén khóc vì thương mình hay thương em.
Mặt trận lại lan đến quê nhà. Trong làng có lệnh triệt để tản cư. Hai chị em phải bồng bế hai đứa con chạy sang một làng nhỏ ở bên kia sông. Tiền hết dần, hai chị em phải học nghề quay bông thành sợi để kiếm ăn.
Sống trong một gian nhà lá nhỏ lụp sụp ẩm ướt mà ủy ban tản cư ở đây đã dành cho, vào những ngày mưa phùn, tối tăm, hai chị em ngồi trên mảnh chiếu rách, không ngừng tay kéo sợi. Tiếng khung sợi kêu sè sè cùng với tiếng gió bấc đập rơi lộp bộp những hạt mưa phùn đọng trên các ngọn cây.
Trong gian nhà tối mò, hai đứa trẻ con không được mẹ trông coi, đang quấy khóc. Nhàn nhìn chị. Trên thân hình mảnh giẻ, Dung mặc chiếc áo lụa cũ, có thêu hoa rất đẹp, nay đã đem nhuộm vỏ già, bên ngoài mặc một chiếc gi-lê đen của Lẫm, đầu tóc Dung bơ phờ, chít lỏng lẻo chiếc khăn ngang. Gương mặt nàng gầy tọp hẳn đi. Nước da xanh, đôi mắt buồn, có lẽ Dung đang nghĩ đến cảnh sum họp cùng Lẫm ngày trước.
Nhàn thương chị lắm, nàng không khóc nhưng ngực bị ép nặng như người nhịn thở lâu. Thỉnh thoảng nàng phải ngồi thẳng lên để thở một hơi dài, giấu những tiếng nấc mà Nhàn không muốn để Dung nghe thấy.
Ở đây tuy xa mặt trận, nhưng người ta vẫn nghe thấy tiếng súng từ trên tỉnh vang tới. Về đêm, vì yên tĩnh, nên nghe như gần và rùng rợn hơn nhưng Dung không còn hốt hoảng ngồi dậy như trước nữa. Nàng chỉ hay trở mình và chốc chốc lại thở dài.
Nhàn cũng không ngủ được. Hồi tưởng lại lúc Tuấn ra đi, nắm chặt tay nàng và hôn lên trán con, rồi bước vội lên xe. Chỉ ngần ấy cử chỉ mà nghĩ lại, Nhàn đã thấy lòng xao xuyến. Có những người ra đi rồi bị nạn giữa đường. Những ý nghĩ vẩn vơ làm Nhàn lo sợ.
Bên ngoài gió thổi vun vút từng cơn lùa qua tấm phên cửa, các kẽ vách, thấm lạnh vào lòng hai chị em.
o O o
Một hôm Nhàn đi chợ bán sợi, tình cờ gặp Kim là vợ một đồng chí của Tuấn. Kim nói cho Nhàn biết là nhà nàng đã có người ra xem xét ở tỉnh. Ngoài đó bây giờ đã có chợ họp ở Bờ Hồ; các phố lác đác có người ở. Và điều quan trọng nhất là đã có một ít người ở Tầu về.
Nghe tin, Nhàn vui sướng quá đến nóng cả mặt. Nàng nắm chặt lấy tay Kim, cuống quít hỏi đi hỏi lại về tin này. Nàng hy vọng, biết đâu Tuấn đã chẳng ở ngoài đó rồi. Trước khi từ biệt Kim, Nhàn hẹn đi hẹn lại Kim là hễ có cách ra tỉnh thì rủ nàng đi với.
Nhàn vội vã bán sợi. Sợi của chị em nàng quay bao giờ cũng nhỏ và đều, nhưng người mua còn giở ra xem rồi mới mặc cả. Nhàn sốt ruột, giựt lấy bó sợi ở tay người lái:”Đã bảo là sợi tốt mà! Không mua thời thôi để bán cho người khác! Xem mãi mất cả thời giờ!”
Mặc người lái mở to mắt nhìn theo và nói những câu gì không rõ, Nhàn chạy đi bán cho người khác.
Gặp một bác lái quen, sau một vài câu trao đổi, Nhàn đã thoả thuận bán ngay, tuy biết là rẻ đến hơn đồng bạc. Lúc trả tiền, người lái đã đếm đủ một lượt rồi lại còn đặt từng tờ một vào thay Nhàn và đếm:
– Một này, hai này…
Mặt Nhàn cau có. Bác lái vẫn cứ tủm tỉm cười:
– Ba này, bốn này…
Đếm cho đến tờ giấy bạc cuối cùng, bác lái đặt mạnh vào tay Nhàn xong, xoè hai bàn tay không ra và nhe răng cuời, tiếp:
– Hết nhé! đủ chưa?
Nhàn không kịp đáp, vội vã đi ngay, nàng chỉ mong chóng về tới nhà để kể lại chuyện cho Dung nghe.
Mãi gần trưa, Nhàn mới về tới nhà. Hai đứa trẻ đang ngủ. Dung đang ngồi quay sợi ở hè. Trông thấy nét mặt buồn rầu của chị, Nhàn trở nên ngập ngừng. Một lát sau Nhàn mới dám nói cho Dung biết chuyện và hỏi ý Dung về việc ra tỉnh.
Nghe em nói xong, Dung vẫn yên lặng kéo sợi, không nói gì. Một lát nàng ngừng lại rút chiếc khăn tay ở trong chiếc thúng con đựng sợi ra thấm nước mắt, rồi nói:
– Tôi không đi đâu!
– Sao?
– Anh Lẫm bị chết ở ngoài ấy…
Dung nấc lên khóc. Nhàn cũng rươm rướm nước mắt đáp:
– Thế thôi; tôi chả đi nữa!
– Cô cứ cho cháu đi, biết đâu chú Tuấn không đang ở ngoài ấy.
– Thế còn chị?
– Tôi à?
Dung không nói hết lời, và tay kéo sợi như nhanh hẳn lên.
Mấy hôm sau, Kim lại thăm và hỏi Nhàn nếu có định đi ra tỉnh thời sửa soạn sẵn đến đầu tháng sắp tới sẽ khởi hành, nhưng cần phải giữ bí mật, vì e có sự trở ngại.
Thấy ngày đi gấp quá, Nhàn bối rối nhìn Kim rồi nhìn Dung.
– Hôm nay đã hăm tám rồi.
Dung nói và thẫn thờ nhìn mấy con chim sẻ bay từ ngọn cây cau xuống đậu bên thành bể nước.
Nhàn hỏi:
– Thế nào chị Dung! còn mấy ngày nữa thôi.
– Cô cứ cho cháu ra trước đi xem thế nào đã.
– Không phải xem chị ạ! (Kim nói xen vào). Ngoài ấy đã có vô số người ra ở rồi. Mà ra bây giờ thời hơn, vì may ra nhà cửa còn nhặt nhạnh được tý gì chăng, ra chậm thời mất hết.
Dung không cùng một ý nghĩ giống Kim. Cái tỉnh kia đã bị mất theo Lẫm rồi, còn nói chi đến đồ đạc với nhà cửa. Tuy Dung không nói ra, nhưng Nhàn cũng đã đoán được ý nghĩ ấy của chị. Nàng phân vân không biết nói thế nào để dục chị cùng đi với mình được nữa.
Kim đứng dậy ra về và hẹn lại:
– Nếu các chị định đi thời ngày kia cùng về quê tôi Cự-đà, chờ người đưa đi.
“Ngày kia!” Nhàn kêu lên và nhìn sang phía Dung, nói như khóc:”Thế nào chị Dung!”
Dung không trả lời em, nàng quay ra nói với Kim:
– Thôi chị lại nhà; để tôi bảo cô cháu sắp sửa ngày kia đi với chị.
– Thế chị không đi à? Kim hỏi.
– Không, tôi ở lại.
– Chị gàn quá. Chỗ chị em thân tình tôi mới bảo chị (Kim hạ giọng), các người khác tôi có bảo ai đâu.
– Cám ơn chị. Hãy cứ để cô cháu ra trước xem đã.
Tiễn Kim về rồi, Dung quay vào nói với em:
– Thôi cô cứ đi trước xem thế nào đã, rồi nhắn về cho tôi ra sau. Còn bây giờ đã biết thế nào mà kéo cả ra.
– Nhưng mình chị ở lại đây thì làm thế nào?
– Được! Đến đâu hay đến đó lo gì.
Tuy nói vậy nhưng lòng Dung như thắt lại, tưởng nghĩ đến lúc Nhàn đi rồi, còn có mẹ con nàng ở liạ. Không muốn nghĩ xa hơn nữa, Dung đi ra ngồi kéo sợi. Nhưng chỉ được một lát nàng lại bỏ đấy. Nàng không còn bụng dạ nào làm việc lúc này nữa; mà kéo để làm gì. Ngày kia Nhàn đã đi rồi. Dung khổ sở và buồn quá. Trời thâm thấp như sắp mưa. Óc Dung mang mang không rõ mình mê hay tỉnh, Dung mong nó chỉ là giấc mơ.
Đêm ấy cả hai chị em cùng trằn trọc. Nhàn nằm yên để nghe từng cái trở mình của chị. Đến lúc này Nhàn cũng vẫn còn phân vân không biết nên đi hay nên ở. Nhớ chồng, thương chị, cả hai đường đều có sức mạnh ngang nhau. Có lúc Nhàn tặc lưỡi tự bảo: cứ đi; có lúc lại nhất định ở lại. Óc nghĩ lan man, nhưng rồi nàng cũng chợp ngủ đi. Chỉ có một giấc ngắn mà Nhàn cũng mơ thấy chồng và hình như thấy có Dung nữa.
o O o
Tất cả hành trang của mẹ con Nhàn được xếp gọn vào trong một chiếc đẫy nâu nhỏ mà Dung đã khâu cho Nhàn. Hai chị em quyến luyến, không muốn rời xa một bước, óc luôn luôn nghĩ đến ngày hôm sau đã phải xa nhau.
Trong bữa cơm sáng, Dung nói:”Thôi thế là còn bữa này và buổi chiều nữa thôi, mai cô đã đi sớm, không kịp ăn cơm”.
Nghe chị nói, Nhàn suýt bật khóc. Nàng vội cúi xuống, bón cơm cho con rồi đưa tay áo lên gạt thầm nước mắt.
Đêm cuối cùng, hai chị em dặn dò nhau, mãi chẳng hết lời. Lúc sáng ra, Nhàn thấy mắt Dung đỏ mọng hẳn lên. Dung không nói gì nữa. Còn Nhàn hẹn mãi chị thu xếp dọn về nhà quê ở, rồi chờ tin nàng hễ nhắn về thì ra ngay.
Một lát sau, bên nhà Kim có người sang đón Nhàn đi. Dung đứng trên hè nhìn theo em. Nhàn đi ra khỏi cổng, quay nhìn lại vẫn thấy Dung đứng ngây người như pho tượng. Nhàn vừa khóc vừa bước thật nhanh, vì biết nếu nhìn chị lâu, nàng sẽ không còn can đảm để đi nữa.
Nhàn đã đi khuất mà Dung vẫn cứ đứng như vậy cho đến khi trong nhà có tiếng Nga thức dậy gọi:”Mợ!”. Dung như chợt tỉnh, quay trở vào, ôm lấy con nói khẽ trong hơi thở:”Thôi thế là cô Nhàn bế em đi mất rồi!”
Ngọn đèn thắp đêm vẫn cháy. Phía giường Nhàn nằm, trên mặt chiếu xô lệch còn ngổn ngang mấy thứ của Nhàn đã bỏ lại. Một chiếc áo cánh Nhàn thay vội trước khi đi vứt bên chiếc gối hãy còn in lõm vết đầu Nhàn. Dung nhìn lưu luyến những dấu vết ấy, kể từ đôi guốc của Nhàn trên mặt đất, đến cái lúc lắc bằng nhựa xanh đỏ của con Nhàn chơi ném ở góc nhà.
“Thôi thế là cô Nhàn đã bế em đi mất rồi!”
Dung nhắc lại và ôm chặt con vào lòng khóc nức nở như ngày nào được tin Lẫm chết….
o O o
Nhàn ra tỉnh được 5 tháng, thì có người nói cho biết là từ ngày Nhàn đi, Dung bế con về quê nhà, dọn ngôi hàng nước ở bến đò Giẽ; người Dung gầy hơn xưa nhiều lắm.
Còn Tuấn, Nhàn đã hết sức tìm, song chưa gặp. Mãi sau có người quen đưa lại cho nàng một bức thư của Tuấn từ bên Tầu gửi về. Trong thư có câu:“…trong giai đoạn này anh còn nhiều phận sự phải làm. Em hãy cố nuôi con, đợi ngày anh trở về. Ngày ấy phải là ngày nước nhà hòan toàn độc lập, Cộng Sản hoàn toàn bị tiêu diệt…”
Đọc xong câu này, Nhàn không khỏi rùng mình, liên tưởng đến lời thư Lẫm viết cho Dung hồi trước.
Nhớ Dung, nàng muốn đón chị ra hoặc trở về với chị, song đường lối trở ngại. Nhiều lúc Nhàn giận mình nghe lời đồn nhảm, vội ra Hà-nội, bỏ chị ở lại một mình và tự cho mình rất có lỗi với chị.
Cho đến mùa Đông năm sau, lại có người ở nhà quê ra nói chuyện làng bị đại bác nổ ngay sau đình gần nhà. Lúc đó Dung đang ở ngoài sân, nàng bị ngất đi, và cứ thế lịm dần sau ba ngày thì tắt thở.
Người kể chuyện tỏ vẻ hơi ngạc nhiên vì thấy Nhàn sau khi nghe tin Dung chết mà không khóc. Nhưng ai biết được rằng có nhiều lúc Nhàn thẫn thờ nhớ đến Dung với cái hình dáng mảnh giẻ mặc chiếc áo cánh lụa son, chiếc gi-lê đen và giải khăn ngang chít lỏng lẻo trên đầu, Dung đứng trên hè nhìn theo Nhàn đi cho đến khi khuất bóng.
Nhàn nấc lên:
– Chị ơi! có ai ngờ hôm ấy lại là ngày vĩnh biệt!