← Quay lại trang sách

Chương 3

Chỉ một lần duy nhất, nhưng cảm giác được mọi người chú ý đúng là tuyệt cú mèo.

Ethan chẳng hề kêu ca dù phải vác chiếc máy quay phim nặng trịch. Dù sao cậu Ross của nó cũng đang phải khiêng hết tất cả đồ đạc còn lại, từ túi ngủ đến đồ ăn vặt (cậu Ross bảo đi điều tra giám sát phải đúng lệ bộ đàng hoàng, dù những người mà họ muốn điều tra đều đã ngủm củ tỏi). Hai cậu cháu đi ngang qua mấy tay chơi trống, chiếc xe ủi và đám thợ xây. Lúc hai người đi ngang qua, Ethan nhận ra ai cũng khựng lại một lúc. Ánh mắt ông lão thổ dân nhìn như đóng đinh vào gáy cậu bé. Nhưng cái nhìn đó không phải vì ông ta vốn lập dị, mà chỉ vì tò mò trước hai cậu cháu đường hoàng đi ngang khu đất như đi trong đất nhà họ.

Ethan dừng chân, nhìn một cậu sinh viên đang sàng cát. Cậu ta chỉ mặc mỗi cái quần cộc, bờ vai và lưng rám nắng. Ethan nhìn xuống ống tay áo dài ngoằng cùng cái quần dài dày cộm của mình và khẽ trề môi sau lớp khẩu trang.

“Này đi nào,” Ross quay lại gọi to, khiến Ethan cuống cuồng đuổi theo.

Van Vleet sốt sắng chạy đến ngay khi nhìn thấy hai cậu cháu. Đôi giày kiểu doanh nhân thành đạt cứ khiến anh ta trượt chân trên mặt băng trải rộng khắp khu đất như lớp kem bơ quét trên mặt bánh. “Anh Wakeman,” Rod van Vleet lịch sự chào hỏi. “Anh nhớ tôi đã nói chuyện này nên… kín đáo chứ?”

“Anh cũng nhớ tôi đã nói tôi sẽ tiến hành điều tra theo cách của mình chứ?” Ross đáp trả rồi quay lưng lại. Anh thận trọng bước lên mấy bậc thang trong căn nhà cũ kỹ. Một bậc thang gãy đôi ngay dưới chân anh. “Cẩn thận đấy,” anh dặn dò Ethan.

Căn nhà trông như đang khóc lóc thảm thương, những cánh cửa chớp lặc lìa lủng lẳng trên bản lề như hàng mi dài đẫm lệ. Ethan lùi lại, rướn cổ lên nhìn dãy cầu thang dẫn lên lầu. Cầu thang khi xưa hẳn là màu trắng. Hầu hết cửa sổ đều bị mấy đứa trẻ xung quanh đập vỡ từ lâu. Cây thường xuân quấn quanh khung cửa sổ như bộ ria mép vểnh ngược lốm đốm.

“Ethan!”

Giật mình bởi tiếng gọi của cậu Ross, Ethan phóng nhanh lên bậc thang nhưng khựng lại ngay lối vào. Thạch cao rụng lả tả từ trần nhà, mặt sàn dày bụi. Giấy hoa văn dán tường in đầy dấu tay và chữ phun sơn: SARI LẲNG LƠ. Dưới cầu thang còn có dấu vết của lửa trại và tầm ba mươi chai bia rỗng.

Ethan quét mắt từ ban công đổ nát đến căn phòng tối đen cạnh đó, rồi ngước nhìn lên trần nhà. Cậu thầm nghĩ, ớn lạnh thật. Nhưng thế thì sao. Ethan vươn vai tự nhủ nếu làm tốt chuyện này, cậu có thể được chọn tham gia chương trình Nhân Tố Kinh Dị hay mấy chương trình truyền hình thực tế khác. Cậu có thể xin cậu Ross dẫn mình theo trong những vụ sau. Dù sao thì Ethan chỉ được ra ngoài vào ban đêm. Phải thử mới biết được chứ.

Cậu gan dạ hơn bất kỳ đứa bạn nào cậu biết… nhưng thật ra cậu cũng chẳng có mấy người bạn.

Cứ thế Ethan tự luyên thuyên với bản thân cho tới khi có một bàn tay chạm vào gáy làm cậu nhảy dựng lên.

Kerrigan Klieg là phóng viên của tờ báo New York Times, Anh là tác giả những bài viết kiểu hội chứng ma cà rồng trong lễ Halloween, bản chất hóa học của tình yêu trong lễ Valentine, phỏng vấn cha mẹ của những đứa trẻ sinh vào đúng thời khắc đầu thiên niên kỷ của thành phố này. Nói cách khác, anh thích nhàn hạ. Kerrigan chẳng có tham vọng hay hoài bão để theo dõi những vụ tham nhũng của cảnh sát hay tranh chấp chính trị; những bài viết của anh ta toàn là về thông tin tầm phào đại chúng mặc dù anh chẳng hề thích thú với mấy chủ đề đó. Vậy mà Kerrigan lại thích lang thang nghiên cứu ngoài thực địa, như viếng mộ Mercy Brown tại đảo Rhode để tìm cương thi hoặc đến bệnh viện Johns Hopkins để chứng kiến những nhà khoa học đo lường mối quan hệ giữa nồng độ của melatonin và cảm giác ham muốn tình dục. Kerrigan thích một thế giới khác bên ngoài ốc đảo Manhattan, nơi người ta thực sự bước ra phố và nhìn vào mắt nhau thay vì giả vờ mình đang ở nơi khác hay đóng vai người khác.

Những nhân tố ở đây sẽ đảm bảo một bài báo bất bại: ông già da đỏ một trăm tuổi, đám dân thị trấn đang khiếp sợ, tay trùm bất động sản, và một hồn ma giận dữ. Đấy là mới những thứ diễn ra bên rìa của khu đất, chính là phần có căn nhà. Ai mà biết có cái gì ẩn khuất trong mấy mẫu rừng đằng sau?

Kerrigan bước đến cạnh ông Az Thompson, người đã gọi cho biên tập viên mục điều tra. Anh tự hỏi làm cách nào một cụ già có thể sống lâu đến vậy. Ông ta ăn sữa chua như quảng cáo của hãng Dannon? Hay tập thiền? Chẳng lẽ là tiêm vitamin B-12? “Người ta đã cướp đi đất đai của chúng tôi mãi mãi,” Thompson nói. “Nhưng nếu chuyện này cứ tiếp diễn, thậm chí khi chúng tôi đã chết rồi, thì đúng là điên tiết.”

Kerrigan bước ngang qua một chú chó đang gặm chiếc giày cũ. “Theo tôi được biết thì Spencer Pike, ông chủ đất đã không sống ở đây được một thời gian rồi.”

“Không đến hai mươi năm đâu.”

“Thế ông có nghĩ từ đầu ông ta đã biết khu đất này là nơi mai táng?”

Ông lão dừng lại. “Tôi nghĩ Spencer Pike biết nhiều hơn những thứ mà ông ta tiết lộ.”

Giờ thì mọi chuyện thú vị hơn rồi. Kerrigan tính mở miệng hỏi một câu khác thì bị phân tâm bởi người đàn ông và cậu bé đang dạo bên trong khu đất. “Họ là ai vậy?”

“Có tin đồn rằng đó là người mà van Vleet thuê,” ông Thompson trả lời. “Để đảm bảo không có ma cỏ gì cả.” Ông quay sang tay phóng viên. “Anh nghĩ sao?”

Kerrigan đã quen với việc phỏng vấn chứ không phải bị phỏng vấn. “Đó là toàn bộ yếu tố làm nên một câu chuyện ly kỳ,” anh dè dặt đáp.

“Anh đã bao giờ thức giấc vì giấc mơ của người khác? Hoặc mang ủng rồi thấy bên trong đầy tuyết vào tháng Tám? Hay hoa bí thò ra từ lỗ thoát nước trong bồn rửa sau một đêm chưa, anh Klieg?”

“Chưa, tôi chưa hề thấy.”

Thompson gật gù, “Vậy thì cứ ở đây mà chứng kiến nhé.”

Khi Ross đặt tay lên cổ Ethan, cậu nhóc giật thót. “Ethan”, Ross gọi, “cháu không sao đấy chứ?”

Ethan vẫn còn run lẩy bẩy. “Vâng. Ồ, chắc mà, cháu hoàn toàn ổn mà.”

“Cậu có thể đưa cháu về nhà. Không sao đâu.” Ross nghiêm nghị nhìn Ethan. “Cháu có thể nói với mọi người là chính cậu không cho cháu ở lại.”

Đáp lại lời anh, Ethan nắm lấy lan can cầu thang gãy vụn và bắt đầu leo lên.

Thở dài một cái, Ross cất bước theo sau. Có lẽ Ethan thực sự muốn đến đây, nhưng anh chả muốn tí nào. Khi van Vleet đề nghị điều tra mấy hiện tượng tâm linh tại khu đất của ông Pike, anh đã từ chối. Nhưng rồi anh thấy ánh mắt trông đợi của chị mình.

Anh đặt ra bốn điều kiện. Một, chính anh phải là người phụ trách điều tra và không nhận mệnh lệnh từ bất kỳ ai, bao gồm cả người đứng đầu của Tập đoàn Redhook. Hai, chỉ có anh và trợ lý được phép vào khu đất lúc điều tra. Anh tuyên bố trợ lý không ai khác ngoài Ethan, trước sự ngạc nhiên và mừng rỡ vô hạn của cậu bé. Ba, anh không muốn biết bất kỳ thông tin lịch sử nào của khu đất cho tới khi mình yêu cầu - nếu không, suy luận của anh sẽ bị ảnh hưởng. Bốn, anh không nhận thù lao - không giống như nhóm Warburton vẫn thường vẽ ra cho từng khách hàng một con ma dựa vào mức thù lao.

Đổi lại, Ross hứa sẽ giữ “im lặng” về cuộc điều tra này vì mấy sếp nắm quyền tại Tập đoàn Redhook không muốn cả thế giới biết họ tin vào vào hiện tượng tâm linh.

Vậy nên anh ở đây, chuẩn bị cho buổi quan sát đêm và đắm mình vào công việc quen thuộc. Ethan đợi ngay trên bậc cao nhất của cầu thang như một chú chó con bắng nhắng. “Đặt máy quay phim xuống,” Ross ra lệnh. “Đi dạo xung quanh xem thử cháu có tìm thấy gì không?”

“Tìm thấy gì à? Ví dụ như?”

Ross khựng lại suy ngẫm vài phút. Anh phải giải thích cho một đứa nhỏ về cảm giác tâm trí chia nhỏ thành nhiều mảnh để từng mùi hương và hình ảnh được khắc sâu như thế nào? Làm sao để diễn tả cảm giác không khí trở nên nặng nề như tấm chăn bông thít chặt quanh sườn? “Nhắm mắt lại,” Ross hướng dẫn, “và nói cậu nghe xem cháu thấy gì.”

“Nhưng…”

“Cứ làm đi.”

Ban đầu Ethan im bặt. “Ánh sáng… chiếu ra từ các góc.”

“Được rồi.” Ross nhẹ nhàng xoay cậu bé một vòng rối nắm lấy vai Ethan. “Giờ… không nhìn trộm nhé… cầu thang ở đâu?”

“Đằng sau cháu,” Ethan run rẩy đáp vì nhận ra sự kỳ diệu của giác quan thứ sáu.

“Làm sao cháu biết?”

“Vì… cháu cảm thấy có một lỗ hổng trong không gian phía sau.”

Ross xoay Ethan lại rồi vỗ đầu thằng cháu cái bốp khiến cậu nhóc lập tức mở mắt.

“Giỏi lắm, Cậu Nhóc Phi Thường. Đây là bài học số một.”

“Vậy bài học số hai là gì?”

“Là phải dừng thắc mắc về bài học.”

Ross bước dọc hành lang. Những nội thất hay kỷ vật gia đình đã được chuyển đi từ lâu, chỉ còn mấy vệt sơn hay vết xước mờ trên mặt sàn lấm lem. Lầu trên có ba phòng ngủ và một phòng tắm. Thêm một cầu thang dẫn lên gác xép của người giúp việc.

“Cậu Ross? Khi nào ma sẽ đến?”

“Nếu có ma thì họ đã ở đây rồi.” Ross liếc vào phòng tắm. Bên trong là cái bồn tắm với chân đế hình móng vuốt đã nứt toác và bồn vệ sinh kiểu cũ với bồn chứa nước đặt phía trên. “Chắc là họ đang xem xét cậu cháu mình đấy. Nếu hứng thú thì họ sẽ cố gắng thu hút sự chú ý của chúng ta sớm thôi.”

Ethan vặn vòi nước, một dòng nước đọng màu nâu chảy ra. “Họ có để ý tới việc chúng ta đang ở đây không?

“Có thể đấy.” Ross rà soát dọc cửa sổ rồi kiểm tra dấu niêm phong. “Vài con ma cực kỳ muốn người ta chú ý tới nó. Nhưng một số khác thì không biết mình đã chết rồi. Họ thấy chúng ta và tự hỏi tại sao chúng ta lại ở trong nhà họ. Đó là nếu quả có ma trong nhà này,” anh khiêu khích nói to lên.

Đến bắt tao đi, Ross thầm nghĩ.

Anh bước xuống cầu thang, kiểm tra phòng bếp, phòng ăn, hầm rượu và phòng khách. Trong phòng làm việc nhỏ có cửa đôi với chiếc ghế bập bênh đặt phía trong và một đống da nát vụn đã biến thành nơi trú ngụ cho gia đình nhà chuột. Mấy tờ báo cũ vương vãi trên sàn, còn bức tường lấm đầy thứ gì như mỡ bôi trục bánh xe.

“Cậu Ross? Cô Aimee là ma sao?”

Anh cảm thấy tóc gáy dựng ngược. Nhưng điều này chẳng hề liên quan tới hiện tượng tâm linh nào mà chỉ do anh bị sốc. “Cậu không biết nữa, Ethan à.” Hình ảnh Aimee dâng trào trong tâm trí anh như nàng tiên cá hiện lên từ đại dương thế giới bên kia nhưng anh gạt nó sang một bên. “Cái chết sao… chú nghĩ giống như đi xe buýt vậy. Hầu hết mọi người đều tận hưởng chuyến đi và cứ thế đi tiếp đến trạm tiếp theo. Nhưng sẽ có vài người xuống xe trước khi đến được trạm cuối cùng.”

“Có lẽ cô Aimee xuống xe để được gặp cậu.”

“Có thể lắm đấy,” Ross đáp. Anh quay người lại, định bước lên cầu thang trước khi tự khiến mình xấu hổ trước mặt đứa cháu.

“Tại sao cậu nghĩ những hồn ma ở đây xuống xe giữa chừng?”

“Cậu không biết”

“Giả sử như…”

“Ethan,” Ross cắt ngang. “Suỵt.” Anh xoay một vòng cố nắm bắt ý nghĩ vừa lóe lên trong đầu nhưng áo vụt qua nhanh đến nỗi không tài nào nhìn rõ được. Anh tựa vào lan can, cố gắng tập trung, cau mày nhìn vào đống rác bẩn đọng ở chân cầu thang, rồi quét mắt qua mấy con vật gặm nhấm đang âm thầm run rẩy. Anh liếc thấy tổ ong bắp cày ngay trong góc.

Dấu vết của sự sống rải rác đầy sảnh - nào là tơ nhện, xác ve, rong rêu và nấm mốc - đúng là tiêu biểu của sự hoang phế và ẩm thấp. Ross bước vào phòng ngủ phía sau. Trong phòng ngủ, sàn gỗ két bẩn đen xỉn, mảnh gốm vỡ cùng vỏ kẹo vương vãi khắp nơi. Nhưng trần nhà thì lại sạch bong như vừa được quét dọn sáng nay. Không mạng nhện, không nấm mốc, không côn trùng. Dù tình trạng của mấy phòng khác có ra sao thì rõ ràng lâu nay chẳng hề có sinh vật nào vào trong phòng này.

Ross quay qua nhìn cậu bé và bảo. “Đây là nơi chúng ta sẽ dựng máy móc.”

“Tôi không biết chuyện gì xảy ra nữa,” người quản lý trại hè của Lucy nói. Cô quản lý trẻ đến mức người ta nhầm cô là trẻ con. Cô vội vàng dẫn Meredith chạy dọc con đường dẫn tới kho chứa vật dụng. Lucy đã tự nhốt mình trong đó khoảng bốn mươi lăm phút trước. “Cô bé đang chơi bóng né, đột nhiên vừa bỏ chạy vừa la hét.”

Giày cao gót của Meredith bị mắc kẹt trong kẽ đá khiến cô suýt tí nữa thì ngã nhào. Cô có nhớ mang theo thuốc của Lucy không nhỉ? Nếu con bé sợ hãi đến nỗi không chịu bước ra khỏi nhà kho tối thì con bé có thể lên cơn hen suyễn. “Chúng tôi đã gọi về nhà ngay,” người quản lý nói.

“Nhưng mẹ bé bảo bà ấy không lái xe được.”

“Mẹ tôi chứ,” Meredith thẫn thờ đính chính. Với cái tuổi hơn bảy mươi có lẻ, bà Ruby vẫn minh mẫn nhưng không vững tay lái nữa. Bà liền gọi đến phòng nghiên cứu cho Meredith, có chuyện gấp, bà nhắn thế.

Hai người chạy đến căn nhà gỗ nhỏ bên bìa rừng. “Lucy?” Meredith lắc mạnh tay nắm. “Lucy con mở cửa ngay cho mẹ!” Cô tông vào cánh cửa hai lần liên tiếp. Vào lần tông thứ ba, cánh cửa bung bản lề và Meredith lách vào trong.

Cái nóng mang theo mùi hôi xộc lên đầu tiên. Một túi lưới chứa đầy bóng cao su to tướng ngăn cô tới gần Lucy. Cô bé đang thở khò khè sau chồng cọc tiêu màu cam và đám vợt cầu lông. Con gái cô đang ôm trước ngực một túm vải xa-tanh màu tím. Đó là mảnh lễ phục dùng trong lễ hội nhạc hè lâu lắm rối. Cô bé đang khóc.

“Thuốc đây này,” Meredith dỗ dành, đưa thuốc Albuterol tới. Lucy ngoan ngoãn nhét vào miệng rồi hít vào. Từ lâu Meredith đã học được rằng dù nhìn thấy con mình vật vã khó thở như thế nào, thì mình cũng không thể thở giúp con bé được. Bản năng đầu tiên của Meredith là phải đưa Lucy ra khỏi căn phòng đầy mùi ẩm mốc này để tránh cơn suyễn; nhưng có gì đó mách bảo cô rằng nếu không làm dịu cơn sợ hãi của Lucy trước thì không ổn. Vậy nên cô vòng tay ôm vai con gái. “Vì sao lại gọi là bóng né nhỉ?” Meredith cố tỏ ra hài hước giống như mẹ con nói chuyện bình thường. “Sao không gọi môn đó là bóng núp hay bóng trốn chẳng hạn?”

“Tại vì mẹ phải né khỏi đường bóng bay.” Lucy nép chặt vào vai Meredith. “Đó là lý do vì sao từ “né” lại được sử dụng.”

“À, ra thế.” Cô chậm rãi gật gù. “Giờ mẹ mới biết đấy.”

Ngực Lucy vẫn phồng trướng như bễ thổi. “Không phải tại trận đấu đâu mẹ,” cô bé thú nhận. “Con đã nhìn thấy một thứ.”

“Thứ gì?”

“Thấy cái gì đó… đang treo lủng lẳng. Chỗ cái cây. Treo trên dây thừng.”

“Giống như xích đu làm bằng lốp xe sao?”

Lucy lắc đầu. “Giống như một người phụ nữ.”

Meredith cố giữ bình tĩnh. “Con chỉ cho mẹ xem được chứ?”

Hai mẹ con loạng choạng ra ngoài, đi ngang cô quản lý trại hè, xuyên qua gian triển lãm nghệ thuật và đồ thủ công, tới cây cầu hẹp bắt ngay hạ nguồn con suối để đến khu thể thao. Một nhóm học sinh cắm trại lớn tuổi hơn Lucy vẫn đang chơi bóng né.

“Ở đâu vậy con?” Meredith hỏi. Lucy chỉ vào lùm cây bên trái. Nắm chặt tay con gái, Meredith tiến đến gốc cây và ngước lên. “Không có sợi dây thừng nào cả,” cô thì thào. “Chẳng có gì cả.”

“Nó ở đó mà.” Sự thất vọng vang lên qua giọng Lucy. “Hồi nãy có.”

“Luce. Mẹ tin là con thấy thứ gì đó. Mẹ cho rằng ở đâu đó giữa võng mạc và màng não của con hơi bị lộn xộn tí thôi. Hẳn là có cách giải thích hợp lý mà chẳng liên quan gì tới chuyện người phụ nữ treo cổ trên cây. Có thể do mặt trời chiếu vào mắt con chẳng hạn.”

“Có lẽ thế,” Lucy lẩm bẩm nhưng không mấy tin tưởng.

“Có lẽ cành cây bị gió thổi đung đưa đó mà.”

Lucy nhún vai.

Đột nhiên Meredith cởi giày cao gót và đưa áo choàng phòng thí nghiệm cho Lucy. “Giữ lấy này,” cô dặn con gái và bắt đầu trèo lên cây.

Meredith không thể trèo lên quá cao vì đang mặc váy và đi vớ dài nhưng cô vẫn trèo lên được một nhánh cây cao quá đầu người và ngồi trên đó như một chú sóc ngoại cỡ. Lúc này, tất cả mọi người đến cắm trại đều đang đứng xem. Giờ Lucy cũng hơi hé cười. “Không,” Meredith la lớn, chủ động làm trò để đám người đi cắm trại khi rỗi việc sẽ nói về một bà điên ngồi trên cây sồi thay vì một đứa trẻ sợ hãi vừa chạy vừa la hét. “Luce, bờ biển không có gì lạ.. ối ối…!” Với một cú ngã điệu nghệ đủ khiến anh em nhà Ringling tự hào, Meredith nhảy xuống khỏi cây, tiếp đất trong tư thế ngồi xổm rồi lăn tròn một quãng.

Người Meredith dính đầy bụi bẩn và xây xát, tóc xổ khỏi trâm kẹp nhưng Lucy đã lấy tay ôm lấy mặt mẹ. “Chắc là mặt trời chiếu vào mắt con,” Lucy thì thào.

Meredith ghì chặt con gái vào lòng. “Thế mới là con gái dũng cảm của mẹ,” cô đáp trong khi biết rõ cả hai mẹ con đều chẳng tin vào những gì vừa nói.

Eli Rochert không muốn tỉnh giấc. Anh quen với giấc mơ này như quen với mùi nước hoa pha trộn kỳ lạ giữa mùi táo và nước mưa phảng phất trong giấc mơ. Anh cũng nhận ra độ trầm bổng của giọng phụ nữ, ngân nga như một nốt chưa bao giờ tồn tại trong thang âm. Anh mới leo lên giường hai tiếng trước vì phải tăng ca để ngăn đám thổ dân và mấy gã quy hoạch nhà đất khỏi choảng nhau. Vậy mà điện thoại lại không ngừng reo, rốt cuộc anh đành thò tay ra khỏi chăn gối lùng nhùng trên giường và chộp lấy ống nghe. “Có chuyện gì?” anh càu nhàu.

Tôi xin gặp cô Rochert. Cô ấy có ở đây không?”

“Không.”

“Anh có thể cho tôi biết khi nào cô ấy sẽ trở về không?”

Không bao giờ về nữa, Eli nghĩ, sững sờ vì cảm giác đau nhói ở ngực sau từng ấy thời gian. Anh gác điện thoại mà không buồn đáp lại, rồi lăn một vòng, và bắt gặp Watson đang giành gối. “Ôi, lạy Chúa,” Eli làu bàu, đẩy cái mõm Watson ra xa. Watson chớp chớp đôi mắt khuất sau mấy nếp gấp trên khuôn mặt, rồi khụt khịt bò lại chỗ cũ.

“Tao không nên để mày ngủ trên giường,” Eli nói thành tiếng, lưng anh ép sát tấm lưng to bè của chú chó săn. Anh nghe Watson bắt đầu ngáy và nhận ra mình sẽ không thể nào quay lại với giấc mơ nữa rồi. Đẩy chăn ra, Eli bước xuống giường và lạch bạch vào bếp, mở tủ lạnh nhìn chằm chằm vào bên trong.

Bác sĩ bảo anh không nên ăn thịt đỏ. Việc này đối với người khác thì chẳng là gì nhưng với Eli thì đúng là thảm họa. Anh vẫn luôn coi thịt đỏ là một trong hai nhóm thức ăn cơ bản (nhóm còn lại là khoai tây). Nhìn xem, mấy thứ trong tủ lạnh đúng là chán như mớ công thức nấu món chay tải về từ Internet - hai lọ mù tạt, sáu hộp sữa có mùi kỳ quái, một miếng - tạ ơn Chúa - thịt hộp trông giống thịt gà tây để từ một đến ba tuần rồi, và đậu hủ - một loại thực phẩm mà anh chẳng tài nào chịu nổi vì nó cứ trôi xuống cổ họng một cách nhạt nhẽo như chuyện tầm phào.

Không khí lạnh phả vào quần cộc và vấn vít lấy chân anh. Eli đóng cửa tủ lạnh và điện thoại lại reng lên lần nữa. Anh nhấc điện thoại đặt trong bếp. “Xin chào?”

“Tôi hy vọng được nói chuyện với cô Rochert?”

Eli đếm đến mười. “Cô Rochert không có ở đây. Cô Rochert đã bỏ đi từ khoảng bảy năm sáu tháng trước với tình nhân rồi. Cô ta cuỗm hết tiền trong tài khoản tiết kiệm của chúng tôi, mang theo cả con mèo và áo len tay dài tôi thích nữa. Ngay trước khi ra khỏi cửa, cô ta đã giải thích rằng không phải do tính cách của tôi, mà là vì tôi đã không ở bên cạnh để chăm lo cho cô ta. Trong khi nếu nói cho công bằng thì tất cả những gì tôi đã làm là bươn chải gần chết để kiếm tiền bỏ vào tài khoản ngân hàng mà cô ta đã cướp sạch. Thông tin cuối cùng mà tôi nghe được là cô ta đang sống ở New Mexico, nhưng đấy chỉ là tin đồn thôi. Nên dù có hy vọng đến đâu thì ông cũng không thể nói chuyện với cô Rochert. Nếu ông có cơ hội nói chuyện với cô ta thì hãy nói để cô ta biết ông đứng thứ nhất trong hàng chờ hẹn cô ta.”

Nói xong, Eli thở hổn hển. Tiếng thở lấn át không khí trầm lặng ở đầu dây bên kia.

“Ồ,” cuối cùng anh cũng nghe thấy một tiếng trả lời yếu ớt.

“Có lẽ ông nên xóa số điện thoại này ra khỏi danh sách của mình đi,” Eli nói rồi ném điện thoại cầm tay vào tường.

Lúc Watson tìm thấy chủ, Eli đang ngồi trên sàn, hai tay xọc vào mớ tóc. Chú chó nhả điện thoại vào lòng Eli rồi dụi dụi vào người anh. Eli lấy tay vuốt mặt. “Nếu chú mày hy vọng có bữa ăn nhẹ thì chú mày gặp xui rồi. Trừ phi mày thấy món đậu hủ nhắm bia ngon lành.”

Eli vòng tay ôm chặt cái cổ to tướng và nhìn chằm chằm vào đôi mắt nâu buồn bã của Watson. Đây là một trong những lý do Eli đem Watson về từ tổ chức nhân đạo. Chỉ cần một ánh nhìn cũng đủ để anh biết chú chó săn đó chưa từng hạnh phúc. Điều này có nghĩa Eli không được phép làm nó khổ thêm nữa.

Ross học được từ nhóm Warburton rằng thời gian ma quỷ hoạt động là vào khoảng 10 giờ đêm tới 3 giờ sáng. Hầu hết những tiếng đập, tiếng va chạm và những hình ảnh mà Curtis đã thấy - hoặc vờ thấy được - đều diễn ra trong thời gian này. Đúng 10 giờ 30, Ross và Ethan đã sắp xếp phòng ngủ trong nhà hoang theo ý anh, và rõ là không như ý cậu cháu.

“Mấy thiết bị đâu hết rồi ạ?” Ethan thắc mắc. “Mấy thứ đồ coi rất ngầu đó. Như những gì người ta có trong chương trình Những chuyện rùng rợn có thực? Cậu nhóc nghi ngờ nhìn cái máy quay phim.

“Curtis bảo lần đầu tiên ra ngoài điều tra thì đừng nên quá lệ thuộc vào những thứ rườm rà,” Ross lý giải. “Người ta sẽ bị phân tâm bởi những thiết bị này và dựa dẫm vào chúng thay vì chính bản thân người nghiên cứu. Thêm nữa, hồn ma có thể làm nhiễu sóng điện từ. Khả năng hồn ma có thể khiến thiết bị chập mạch cũng ngang bằng với khả năng họ để lại dấu vết cho mình thấy.”

“Dù vậy,” Ethan càu nhàu. “Không có những thiết bị và công cụ, chúng ta cũng mù tịt giống như Shaggy và Scooby.”

Ross cười ngặt nghẽo. “Như Zoinks chứ,” anh kêu lên rồi liếc qua khuôn mặt tiu nghỉu của cháu mình. “Nghe này. Mỗi khi Curtis cảm giác rằng có thứ gì đó, anh ta thường quay lại chỗ đó với những thiết bị ngầu hơn. Chúng ta cũng có thể làm vậy. Dĩ nhiên là trước tiên phải mua được những thiết bị đó đã.”

Máy quay phim hướng về một vách tường phòng ngủ, thức ăn vặt trong tầm tay, còn túi ngủ được trải ra như hòn đảo nhân tạo trên mặt sàn lấm lem. Nguồn sáng duy nhất trong căn phòng là đèn pin Maglite được đặt giữa Ross và Ethan. Ross móc ra một cỗ bài nhỏ và bắt đầu xáo bài.

Ethan lúng búng hỏi, miệng còn vướng bong bóng kẹo cao su mới thổi vỡ. “Cậu nói cái ông Warburton kia là tên đê tiện nhưng cậu cũng trích dẫn lời ông ta hơi bị nhiều đấy.”

“Ăn nói cho cẩn thận. Ông ta không phải đê tiện mà là kẻ dối trá. Nhưng dù dựng chuyện hơi nhiều thì tay đó cũng hơi bị rành nghề.”

“Ăn nói cho cẩn thận,” Ethan nhái lại rồi chộp lấy bộ bài. “Cậu Ross? Cậu có nghĩ con ma trong nhà này chết rất thảm không?”

“Cậu còn không biết có ma ở đây không nữa. Cháu muốn cá cược không?”

“Quá được.” Cậu bé bắt đầu chia bài. “Cháu tự hỏi nó có điên lên với chúng ta hay không nếu tưởng nhầm chúng ta là người chặt đầu nó bằng rìu.”

“Cái rìu nào?” Ross nghiêng tay cầm bài về phía nguồn sáng duy nhất từ đèn pin. “Được rồi, vậy cứ có nhiều quân bồi, đầm, già là ngon hả?”

“Cháu không thể tin được là cậu chưa từng chơi trò này. Đúng vậy, có càng nhiều bồi đầm già càng tốt, con át nữa. Nhưng quan trọng hơn là cậu phải có quân bài cùng chất liên tiếp nhau, ví dụ như hai-ba-bốn-năm-sáu. Đầu tiên cậu phải cược cái gì đó… cậu có tiền mặt không?”

“Có kẹo thôi.”

“Ờ, sao cũng được. Thùng phá sảnh thắng tứ quý, tứ quý thắng cù lũ. Như vậy là đủ để bắt đầu chơi rồi. Cháu rút nhé.” Cậu nhóc ngước mắt lên. “Nghĩa là chọn một lá bài đấy.”

“Cảm ơn,” Ross đáp gọn. “Cược hai viên kẹo.”

“Chơi luôn, cháu không sợ, cậu biết mà, cho dù bị cái gì đuổi theo.”

Thẳng thắn ra thì Ross sẽ nói anh không tin khu đất của ông Pike bị ma ám. Thứ nhất, suốt mấy tháng trời săn ma Ross chưa bao giờ thấy gì. Thứ hai, dù xét trên lý thuyết đi nữa, đúng là điên mới cho rằng ma có thể thu thập đủ năng lượng để gây ra những hiện tượng kỳ quái như làm mặt đất đóng băng hay tạo nên cơn mưa cánh hoa từ không trung. Các nguyên nhân tự nhiên như tảng băng ngầm trôi dưới đất hay do nước bốc hơi bất thường nghe còn thuyết phục hơn.

Nhưng Ross cũng từng nhận định sai lầm về nhiều việc trước kia.

Ít nhất là đêm nay Ethan rất vui vẻ. Ross chống tay ngả người ra sau, nhìn cháu mình xòe bài ra. “Cháu có một sảnh nhé.”

“Xám này. Ba con bồi nhé.”

“Hay là chú cược chấp đi,” Ethan đề nghị. Cậu nhóc chia bài cho lượt thứ hai. “Cháu nghĩ cháu sẽ quay về.”

“Về đây?”

“Không, không phải chỗ này… mà là thế giới này. Sau khi cháu chết.” Cậu nhóc đảo mắt quanh phòng, rồi nhìn vào Ross với ánh mắt đầy thách thức. “Cháu còn chuyện chưa dứt được. Cậu hiểu mà, phải không?”

Ross từng đến những căn nhà có trẻ con chết do bệnh tật hoặc tai nạn cùng nhóm Warburton. Những người mẹ mang theo hy vọng như tấm khăn choàng quấn quanh mặt, mòn mỏi chờ đợi Curtis tìm lại những gì đã mất. Trong mấy vụ như vậy, nhóm Warburton được gọi đến không phải vì tiếng than khóc, đập thình thịch hay hiện tượng kỳ quái, mà là vì không có những điều đó.

Anh nhớ đến chị mình, tay bẻ gập lá bài.

“Cháu đói bụng,” Ethan than thở. Cậu nhóc lẩn vào góc tối, mò mẫm xung quanh và gây ra một tiếng động chói tai.

“Cháu ổn chứ?” Ross lia đèn pin về phía đống đồ ăn nhẹ mang theo, nhưng góc đó trống trơn.

Từ phía sau, Ethan lên tiếng. “Cháu ở đây,” cậu nhóc run rẩy đáp. “Âm thanh đó, à ừ, không phải do cháu gây ra.”

Cậu nhóc dán chặt vào lưng Ross. “Đi kiểm tra nào,” Ross lẩm bẩm. Lúc này, mọi thứ đều tĩnh lặng, và chẳng có thứ gì bị rớt. “Có thể do viên gạch rớt ngoài sân hoặc con chuột đấy.” Anh vòng tay ôm vai Ethan. “Có thể là bất kỳ thứ gì, Ethan à.”

“Dạ.”

“Sao chúng ta không ngồi xuống để cậu cho cháu biết thế nào là thua nhỉ?”

Ethan thoáng thả lỏng. “Đúng thật là,” cậu làu bàu, cố xốc lại lòng dũng cảm để tách mình ra khỏi cậu Ross và ngồi xuống lại.

Ross chia bài, nhưng mắt anh cứ đảo quanh căn phòng. Chẳng có gì bất thường hay đáng chú ý ngoại trừ việc nắp ống kính camera treo trên sợi dây đen nối với rìa máy đang đung đưa qua lại.

Dù trong phòng không hề có tí gió nào.

Một tiếng thịch vang lên phía ngoài, nghe như cây đổ, hay ai đó ngã chổng vó. “Cậu nghe thấy không?” Ethan thì thào run lẩy bẩy.

“Có chứ.” Ross tiến lại gần ô cửa sổ bị vỡ và dõi mắt nhìn ra khoảnh rừng phía sau. Một đốm trắng đập vào mắt anh, nhìn giống như đuôi hươu, sao băng, hoặc là mắt chim lợn.

Có tiếng lá khô kêu sột soạt và hai tiếng bước chân khác nhau rõ ràng. Kèm theo tiếng khóc nghèn nghẹt như của trẻ con.

“Để đi xuống coi thử,” Ross lẩm bẩm.

Ethan lắc đầu nguầy nguậy. “Không đời nào. Cháu sẽ ở lại đây.”

“Có lẽ chỉ là một con chồn thôi.”

“Vậy nếu không phải thì sao?”

Ross chầm chậm mỉm cười. “Nếu à,” anh thì thào.

Shelby không có thói quen để con mình dấn thân vào mấy trò mạo hiểm vì thế giới này đã rất nguy hiểm cho Ethan rồi. Nhưng Ethan lại có tính tò mò và ưa mạo hiểm đúng kiểu một đứa nhóc chín tuổi. Cậu nhóc tin mình là một phần trong nhiệm vụ của cậu Ross. Thôi được, biết đâu chuyện này tốt cho cả hai cậu cháu thì sao.

Cô bước vào phòng con trai dọn dẹp máy Game Boy nằm trên sàn và mấy cuộn phim rơi dưới gầm giường. Lịch thi đấu của đội Red Sox dán trên tường, kèm mớ sách giáo khoa Shelby dùng để dạy Ethan, và cả bài thơ haiku cậu bé viết hồi năm ngoái lúc học về Nhật Bản.

Sâu trong bóng đêm

Tôi thức giấc lấy đêm thành ngày

Mặt trời cảm thấy thế nào nhỉ?

Shelby ngồi phịch xuống giường con trai. Cô băn khoăn liệu Ross có bảo vệ Ethan an toàn hay không. Cô tự hỏi Ethan có nhớ mẹ dù chỉ một chút hay không.

Cô bồn chồn liếc qua máy tính. Lần trước khi lén xem email của Ethan, cô phát hiện cậu nhóc có sáu người bạn qua mạng - tất cả đều trạc tuổi cậu và sống ở khắp nơi trên thế giới. Lúc đầu, Shelby cảm thấy đây là chuyện đáng mừng vì Ethan đã học được cách kết bạn với những đứa trẻ khỏe mạnh khác. Nhưng khi bắt đầu đọc vài bức thư, Shelby nhận ra Ethan không kể chính xác về bản thân mình. Với Sonya ở Đan Mạch, cậu bé là một học sinh chuyên toán lớp Sáu. Với Tony ở Indianapolis, cậu bé là một vận động viên bóng chày cừ khôi đang chơi cho đội địa phương. Với Marco ở Colorado, cậu bé lại là một tay leo núi đầy nhiệt huyết luôn đi khám phá với bố mỗi dịp cuối tuần.

Trong mọi bức thư, cậu bé chẳng hề nhắc đến chứng bệnh của mình. Cậu chưa bao giờ tỏ ra mình khác với mấy cậu nhóc Mỹ khỏe mạnh bình thường, yêu thể thao và có cha mẹ đầy đủ.

Tóm lại Ethan biến mình thành kẻ khác.

Khẽ thở dài, Shelby rời khỏi phòng Ethan ra ngoài hành lang. Cô chần chừ khi băng qua phòng Ross. Cô chỉ lớn hơn Ross tám tuổi nhưng chừng như đã dành cả đời để chăm sóc em trai - từ thay tã lúc cậu em còn nhỏ đến ở cạnh Ross sau lần tự tử không thành, rồi lại lo lắng khi em trai chẳng hề gọi điện cho cô suốt mấy tháng trời. Bản năng làm mẹ đến với Shelby rất tự nhiên vì cô phải đứng ra gánh lấy gia đình từ khi cha mẹ qua đời nhiều năm về trước.

Cô tin rằng sự thành tâm trọn vẹn có quyền năng bảo vệ, khiến tình yêu biến thành tấm khiên thép mà Số Phận không thể đâm thủng. Cô cũng cho rằng giây phút thoáng lơi lỏng cảnh giác, giây phút người ta cho phép mình mềm yếu hơn bình thường, thì đó chính là lúc mọi thứ có thể bị tước đoạt.

Suy nghĩ này khiến cô lại băn khoăn liệu Ross có đưa Ethan về đến nhà hay không.

Cô đẩy cửa bước vào và bắt đầu dọn dẹp căn phòng. Cô dọn giường cho Ross. Cô đặt lại bàn chải đánh răng và lược chải tóc lên kệ. Cô cất dầu gội, kìm cắt móng tay và kem đánh răng vào túi đồ dùng cá nhân của Ross và khóa lại.

Đống quần áo nhàu nhĩ chất cao trên ghế ngồi. Cô thở dài rồi nhấc cái áo sơ mi lên, gấp gọn và đặt lên giường. Cô gom mấy đôi vớ lại với nhau, xếp mớ đồ lót, áo thun và còn lôi ra được một cái quần jean chưa mặc. Lúc cô gấp quần jean lại với sự chuẩn xác đúng kiểu quân đội, có gì đó rơi ra từ túi quần. Shelby cúi xuống nhặt mấy thứ bị rơi: ba đồng xu in năm 1932. Cô đặt chúng lên kệ để Ross dễ tìm.

Ross quay người vẫy tay với Ethan đang đứng bên cửa sổ, sau đó cẩn thận tiến đến địa điểm mà anh đã thấy cái bóng trắng. Anh để đèn pin lại cho Ethan, nghĩa là bất cứ khi nào anh cũng có thể vấp ngã lộn cổ. Mặc dù trời tối mịt đến cách hai bước chân đã không thấy gì, nhưng, anh có thể nghe được tiếng ai đó - hoặc là cái gì đó - đang sục sạo quanh đây.

Ross rùng mình; bên ngoài lạnh hơn anh tưởng. Anh ước giá mà mình có mang theo áo khoác. Anh có thể ngửi thấy mùi hoa hồng dại, cứ như dưới chân anh là một thảm hoa hồng. Và anh học được từ Curtis rằng đây cũng là một cách mà hồn ma có thể chứng minh sự hiện diện của mình. Xuất hiện đi nào, anh thầm nghĩ.

Nhưng tất cả mọi hy vọng được chạm mặt với ma đều tắt phụt khi anh bắt gặp một người phụ nữ trẻ tuổi đang lúi húi đào bới trên mặt đất đóng băng.

Cô mặc chiếc váy đầm hoa với mái tóc màu nhạt, buông rủ tự nhiên quanh mặt. Cái bóng trắng Ross nhìn thấy chính là phần cổ áo bằng ren. Cô ta đang tất bật và chăm chú làm việc của mình. Và cô ta có thật, thật như mặt đất dưới chân anh.

Rõ ràng là cô ta không hề nghe thấy anh đến gần, nếu không thì cô ta đã nhận ra mình bị bắt quả tang khi đang… ồ, làm cái quái gì đó. Ross không nói nên lời - không phải vì cô ấy không phải con ma mà anh đang tìm, mà là vì cô ấy trẻ trung, xinh đẹp nhưng lại là khách không mời. Anh nắm lấy lý do đó để lên tiếng hỏi: “Cô đang làm gì ở đây?”

Cô ta chầm chậm quay người lại, chớp mắt như sửng sốt vì nhận ra mình đang đứng giữa rừng cây. “Tôi… tôi không biết nữa.” Cô ta liếc nhìn hai bàn tay mình, móng tay bám đây bụi bẩn, và cau mày.

“Ông van Vleet bảo cô đến đây sao?”

“Tôi không hề quen ngài van Fleet…”

“Vleet”. Ross nhăn mặt. Có lẽ đây chỉ là sự tình cờ kỳ quái, vào đêm anh bắt đầu điều tra thì một cô nàng mộng du lại lang thang trong khu đất. Vài nhà quanh khu này còn gặp phải những hiện tượng kỳ quái hơn. Anh áy náy vì khi nãy mình bắt chuyện hơi gay gắt. Anh cũng mong cô gái ấy ngước mắt lên nhìn anh lần nữa. “Cô đang tìm cái gì?” anh gặng hỏi, hất hàm về phía cái lỗ mà cô đang đào.

Mặt người phụ nữ đỏ như gấc. Khi cô ấy lắc đầu nguầy nguậy, anh lại ngửi thấy mùi nước hoa. “Tôi không biết. Lần mộng du gần nhất, tôi chỉ lang thang qua vựa cỏ khô của nhà hàng xóm thôi.”

“Lang thang một mình hay cùng với gã hàng xóm?” Ross buột miệng hỏi, và người phụ nữ trông có vẻ xấu hổ đến mức anh ước mình có thể rút lại câu nói đó. Anh đút tay vào túi quần, cố vớt vát. “Tôi là Ross Wakeman,” anh tự giới thiệu.

Cô ta ngước mắt nhìn lên nhưng vẫn tỏ vẻ lúng túng. “Tôi phải đi đây.”

“Không, nghe này, ở quê tôi, câu trả lời thích hợp phải là: Xin chào, tôi là Susan. Hoặc là: Chào, tên tôi là Hannah. Hay là: Chào đằng ấy, tớ là Madonna.”

“Madonna là sao?”

Ross nhe răng cười. “Sao cũng được.”

Một nụ cười nhẹ xuất hiện trên môi cô ấy. “Tôi là Lia,” cô nói.

“Lia thế thôi à?”

Cô chần chừ. “Beaumont. Lia Beaumont.”

Cô rõ ràng chỉ muốn đi. Dù sao thì đụng phải người lạ trong rừng khi đang mộng du đúng là phiền. Cô gật đầu chào ngượng ngập rồi bắt đầu rời đi. Ross không hiểu sao mình rất muốn giữ cô lại, muốn cố nghĩ ra điều gì để nói, nhưng mọi từ ngữ như bị dồn nén lại trong cổ họng.

Đột nhiên cô ấy quay lại nhìn anh. “Anh cũng mộng du sao?”

“Không, thực ra tôi đang làm việc.” Ross cố cuốn nội dung câu chuyện về phía mình.

“Ở đây? Vào giờ này sao?”

“Đúng vậy, tôi là nhà điều tra các hiện tượng tâm linh.” Anh nhìn ra được cô chẳng hiểu mấy từ này nên giải thích. “Hồn ma ấy. Tôi tìm ma. Thực ra tôi đến đây là vì tưởng phần cổ áo của cô là… ồ, mặc kệ đi. Cô không phải là thứ tôi đang tìm kiếm.”

“Tôi rất tiếc.”

“Không sao đâu.”

Cô khẽ nghiêng đầu quan sát anh. “Anh thực sự tin rằng con người có thể quay về sau khi chết đi? Giống như Harry Houdini?”

“Chẳng phải ai cũng vậy sao?” Vẻ u buồn phủ lên người cô ấy như mũ trùm đầu che khuất thân hình mảnh khảnh. “Ai mà biết được” anh giở giọng trêu chọc. “Biết đâu lúc này chúng ta đang có người đi theo đấy.”

Nhưng câu nói của Ross khiến Lia liếc ra sau trong hoảng loạn. “Nếu anh ta tìm thấy tôi…”

Ai cơ? Ross muốn hỏi vì anh nhận ra cô lo sợ không phải vì bị anh tìm thấy, mà là một ai khác. Trước khi anh kịp hỏi, một tiếng hét chói tai vang lên từ ngồi nhà. “Cậu Ross!” Ethan rú lên. “Cậu Ross, quay lại đây!”

Ross ngước nhìn lên ô cửa sổ nhưng chẳng còn thấy được ánh sáng phát ra từ đèn pin hay camera. Anh tái mặt khi tưởng tượng ra Ethan có lẽ đã thấy cái gì. “Tôi phải đi đây,” anh nói với Lia, không giải thích gì thêm mà chỉ chạy trối chết.

Trích từ thời báo New York Times:

VA CHẠM GIỮA ĐÊM KHUYA?

viết bởi Kerrigan Klieg

Comtosook, VT - Cư dân Comtosook, một thị trấn nhỏ phía tây bắc tiểu bang Vermont đang hào hứng kể chuyện giật gân. Có rất nhiều câu chuyện như nhựa cây phong tuôn chảy trong những tháng mùa hè khô hạn, về cánh hoa rơi từ những đám mây dông, mặt đất đóng băng ngay giữa tháng Tám, và xe cộ đột nhiên chỉ có thể di chuyển ngược hướng. Tuy nhiên, điều kỳ quặc nhất chính là những lời đồn trên đều có thật, và những hiện tượng kỳ quái nói trên chỉ là bề nổi của tảng băng chìm. Nhiều chuyên gia thuộc nhiều ngành tại Đại học Vermont vẫn chưa thể giải thích được những hiện tượng trên, còn cư dân địa phương tin rằng chuyện xảy ra là có nguyên nhân: do một hồn ma chưa yên nghỉ không muốn bị di dời.

Chỉ mới vài tuần trước, Comtosook vẫn còn là một thị trấn thôn quê. Sau đó Tập đoàn Phát triển Redhook đã đạt được thỏa thuận với chủ đất để thu mua một khu đất. Ngay lập tức một nhóm người bộ tộc Abenaki bắt đầu kháng nghị và khăng khăng cho rằng khu đất trên là nghĩa trang của những thổ dân bản địa. Quá trình khám nghiệm khảo cổ tiến hành bởi chính quyền liên bang vẫn chưa tìm ra được hài cốt của con người, dù sao đó chỉ là yếu tố phụ, như ông Az Thompson, đại diện bộ tộc Abenaki đã phát biểu: “Tôi không mong tập đoàn bất động sản biết rõ tổ tiên của tôi được chôn ở đâu, nhưng tôi chắc chắn không ngờ họ lại nói với tôi rằng tôi đang nói dối về việc đó. Ai cho bọn họ quyền được viết lại lịch sử của bộ tộc tôi?” Ông Winks Smiling Fox, một người tham gia kháng nghị, còn nói thêm: “Những chuyện xảy ra gần đây đủ để kết luận rằng dù tập đoàn Redhook có muốn dọn vào, thì cũng có cái gì đó không muốn bị dời ra.”

Ông ta đang nhắc đến một loạt nhưng hiện tượng kỳ quái càng lúc càng nhiều và bắt đầu gây hoang mang cho dân chúng, thậm chí những người sống hàng mấy dặm cách khu đất đang tranh chấp. Abe Huppinworth, ông chủ một cửa hàng tạp hóa, nay đã quen quét cánh hoa hồng khỏi hàng hiên, cho biết: “Cánh hoa hồng rơi suốt đêm như tuyết. Dày gần cả gang tay khi tôi mở cửa hiệu. Và trong vòng bán kính ba dặm quanh đây còn không có đến một khóm hoa hồng.” Ava Morgan phải đưa đứa con trai hai tuổi của mình đến Bệnh Viện Fletcher Allen ở thành phố Burlington sau khi con bà thức giấc vào buổi sáng và bắt đầu nói tiếng Bồ Đào Nha, thứ ngôn ngữ mà không ai trong gia đình bà biết chứ đừng nói là thành thạo. “Bác sĩ cũng không giải thích được chuyện gì đã xảy ra. Họ làm xét nghiệm đủ loại cho thằng bé, và rồi một buổi sáng năng lực ấy lại biến mất, Cole lại nói năng như cũ. Không phải cư dân nào cũng chủ quan như vậy. Hơn sáu trăm người đã ký vào bản kiến nghị gửi đến Rod van Vleet, quản lý dự án tại chỗ của Tập đoàn Redhook. Ông van Vleet từ chối phỏng vấn. Được biết trước đó ông đã phủ nhận toàn bộ thông tin về những hiện tượng tâm linh trên khu đất vì cho là vô lý.

Tin đồn lại ám chỉ rằng ông van Vleet có lẽ không hề tự tin như những gì mình tuyên bố. Vài nguồn tin tiết lộ rằng Tập đoàn Redhook đã trả tiền cho một chuyên gia đến điều tra khu đất.

Đối với cư dân thị trấn, cả động cơ bí ẩn của công ty bất động sản và sự giận dữ của bộ tộc Abenaki đều chẳng hề quan trọng mấy. “Tôi chỉ biết là tôi chán chuyện này lắm rồi,” ông Huppinworth than vãn lúc ngừng tay quét dọn đám cánh hoa vương vãi. “Sớm muộn cũng xảy ra chuyện thôi.”

• • •

Rõ rành rành là Meredith không bao giờ gặp được người đàn ông nào cho tử tế. Trong công việc, cô quá thông minh, đến mức khiến người ta phải e dè. Hẹn hò giấu mặt chẳng còn hiệu quả. Người cuối cùng mà cô hẹn gặp kiểu đấy chính là một anh chàng diễn viên mà bà ngoại cô gặp tại công viên. Anh ta đến nhà hàng trong trang phục của Hamlet. Lúc đó Meredith nghĩ: “Bỏ đi hay không bỏ đi, đó là vấn đề.” Sau cuộc hẹn thất bại ấy, bà ngoại cô đã đưa cho cô thêm số điện thoại của một người chuyên tổ chức đám tang, một bác sĩ thú y và một người xem bói bằng chỉ tay, nhưng Meredith cứ tiện tay quăng đâu đó. Cứ hai ba tháng là bà Ruby lại cằn nhằn, “Bà muốn ôm cháu ngoại trước khi qua đời.”

“Bà đã có một đứa rồi mà,” Meredith nhắc.

“Một đứa có cha ấy,” bà Ruby nói cho rõ.

Meredith rốt cuộc cũng phải nhân nhượng khi bà Ruby kể anh chàng lần này thích dành thời gian rảnh để làm công tác tình nguyện với người cao tuổi. Vậy nên lúc này, Meredith đang ngồi đối diện Michael DesJardins, cố gắng thuyết phục bản thân rằng chắc chuyện không đến mức tệ vậy đâu.

Anh ta đang chảy nước dãi. Được rồi, cứ cho là vì hôm nay anh ta phải chữa răng đi, nhưng cảnh tượng này đúng là khiến Meredith mất sạch cảm giác ngon miệng. “Vậy thì,” anh ta lắp bắp, “cô làm việc ở phòng thí nghiệm sao? Công việc của cô là gì… cho lũ chuột bạch ăn và làm mấy việc linh tinh khác à?”

“Tôi thực hiện PDG. Chẩn đoán di truyền trước khi cấy phôi.”

“Tôi đang làm dịch vụ cung cấp thức ăn.”

“Ồ thế sao?” Meredith khoanh tay quan sát cảnh tượng anh ta trét bơ lên miếng bánh mì và tống vào mồm. May mắn là miếng bánh mì giúp thấm hết mớ nước dãi. “Anh là đầu bếp sao?”

“Nói vậy cũng đúng.”

Cô luôn ấp ủ ao ước được một người đàn ông dắt vào một căn hộ ấm cúng với bữa tiệc thịnh soạn đã được bày biện sẵn sàng cho mình. “Thế tôi đoán là ngồi trong nhà hàng thế này cũng giống như đang ở chỗ làm việc với anh nhỉ?”

“Nhà hàng này cao cấp hơn hẳn chỗ làm của tôi, thực ra thì… cô đã bao giờ ghé cửa hàng Wendy’s trên Phố Mười Sáu chưa?”

Meredith nhịn câu trả lời xuống khi người phục vụ bưng món khai vị đến gần. Michael bắt đầu cắt miếng bít-tết ra thành từng khối vuông nhỏ. Hành động của anh ta khiến cô nhớ đến bữa cơm hay được phục vụ trong bệnh viện tâm thần.

Cô trải khăn ăn ra, nhìn xuống khúc xúc xích chipolata nằm trên dĩa bột polenta và tự nhủ: May là mình cũng được một bữa ăn ngon.

Michael chĩa con dao về phía bữa tối của cô và cười cợt. “Nhìn giống như một thằng cha người Đan Mạch đang nấu ăn ở đây.” Rồi một đường nước dãi chảy xuống cằm anh ta.

Mình sẽ đứng dậy xin phép đi vệ sinh, Meredith cân nhắc. Và sau đó mình sẽ không thèm quay lại đâu.

Nhưng nếu cô làm vậy, bà ngoại Ruby sẽ cho rằng cô cố ý làm hỏng một cuộc hẹn hò nữa. Vậy nên Meredith bắt đầu nghĩ đến những cách để khiến Michael phải bỏ đi. Cô sẽ hỏi xin bút sáp và vẽ bậy lên tấm khăn trải bàn lộng lẫy này. Cô sẽ dùng món bột polenta để tạo hình gì đó. Cô sẽ liếm đĩa thức ăn của mình và đòi liếm đĩa của anh ta luôn. Cô sẽ giao tiếp theo kiểu ra dấu hoặc nói lái gì đó.

“Tôi hỏi một câu riêng tư được không?”’ Michael nói. “Cô đang trong kỳ rụng trứng sao?”

“Sao cơ?”

“Chỉ là mấy ngày nay khi nhìn vào gương, tôi thấy Cha mình.” Anh ta nhe răng cười và chỉ lên trán mình như thể trên đó có in chữ gì đó.

Lúc đó Meredith ao ước rất nhiều thứ: bà ngoại cô bị bêu đầu trên cọc nhọn, sự kiên nhẫn, xu hướng đồng tính nữ. Cô sực nhớ đến chuyện anh này làm việc từ thiện cho người cao tuổi. Cô nhìn chằm chằm vào đĩa thức ăn của Michael và hỏi. “Anh có ăn cái đó không?”

“Miếng bít-tết này sao?”

“Không, khúc xương ấy. Tôi muốn mang về nhà cho bà ngoại.” Meredith ghé người lại gần. “Bà ấy hơn bảy mươi tuổi rồi, cũng coi như sắp chết, và dùng xương cho bà ấy ăn thì đỡ tốn kém hơn.”

Michael sặc nước. Sau khi hồi phục lại thần trí, anh ta giơ tay ngoắc người phục vụ để tính tiền. “Cô đã dùng xong bữa tối rồi, đúng không?”

Meredith gấp khăn ăn lại đặt trên bàn. “Ồ, vâng.”

• • •

Ethan giờ đã biết cảm giác kinh hãi là như thế nào: đầu óc như bị tứ phía dồn ép, mặc dù xung quanh cậu chẳng hề có gì. Tóc gáy đều lần lượt dựng đứng lên như hiệu ứng đô-mi-nô đảo ngược. Hai chân lạnh toát, run lẩy bẩy đến mức nó phải ngồi sụp xuống nếu không muốn ngã.

“Cháu không có sợ,” Ethan khăng khăng đến lần thứ một trăm từ lúc hét lên gọi cậu mình vào đêm đó. “Cháu chỉ cảm thấy kỳ quái, cậu hiểu mà đúng không? Bỗng dưng mọi thứ xung quanh tối đen.”

Ross ngồi cạnh cậu nhóc trong phòng khách, máy quay video gắn với tivi. Hình ảnh không rõ ràng và tối om. Lại thêm việc máy quay bị gắn cố định vào giá ba chân nên không có gì đáng xem. Ethan chẳng biết cứ nhìn chằm chằm vào cảnh quay một bức tường suốt ba tiếng đồng hồ thì có gì thú vị. Dù biết rằng đây là một Yếu Tố Cực Kỳ Quan Trọng trong quá trình điều tra hiện tượng tâm linh, nhưng cậu nhóc vẫn không kìm nén được cơn ngáp.

Đó là việc mà cậu Ross đã dạy Ethan: Khi cháu đang ở cùng chỗ với ma, ma sẽ khiến cháu càng lúc càng mệt.

Cậu Ross vẫn luôn điềm tĩnh. Nhưng nói thật thì Ethan phải thừa nhận rằng mình sợ chết khiếp khi đèn pin tắt ngúm và máy quay tự tắt đi. Hóa ra là máy quay đã quay hết băng. Còn đèn thì hết pin.

Lúc này mẹ cậu nhíu mày nhìn vào hình ảnh trên tivi. “Mẹ có bỏ mất chuyện gì không?”

“Chưa đâu.” Ross đáp rồi quay sang Ethan. “Cháu biết cậu nghĩ gì không? Cậu nghĩ là nó ở trong phòng với cháu đó.”

Ethan không kìm được cơn rùng mình. Liệu ma có theo cậu về nhà không? Cậu có mắc phải con ma, như mắc virus sởi hay cúm không? Cậu nhóc cảm thấy mẹ vòng tay ôm mình nên dựa người ra sau, nép vào lòng mẹ. “Cháu… cháu tưởng cậu chạy ra ngoài vì thấy cái gì ở đó.”

“Không, thấy người ta thôi.” Đột nhiên Ross chộp lấy điều khiển và nhấn nút dừng. “Thấy mấy cái kia không?”

“Đom đóm sao?” Shelby đoán.

“Có khi nào chị thấy một đám đom đóm bay vòng vòng như bão tuyết thế này?” Anh tua lại đoạn băng và tăng âm lượng lên để nghe thấy đoạn hội thoại của anh và Ethan. “Đây là lúc cậu ra ngoài,” Ross tường thuật. Trong đoạn phim, tiếng anh bước chân càng lúc càng nhỏ dần. “Thấy không? Mấy đốm sáng đó xuất hiện ngay khi cậu rời đi.”

Sau đó máy quay phim tắt phụp.

Ross vặn vai răng rắc. “Cậu nghĩ có gì đó vào phòng chỗ Ethan đứng khi cậu ra ngoài. Mấy đốm sáng xuất hiện trên khung hình là một dạng chuyển hóa năng lượng. Và hiện tượng này lý giải vì sao đèn pin tắt ngúm. Ma cần năng lượng để hiện hình và di chuyển xung quanh; hồn ma này sử dụng hết nguồn năng lượng pin trong đèn pin.” Anh lại thấy Ethan ngáp dài. “Và rõ ràng là hút cả sức mạnh khiến Ethan nhũn chân đi không nổi.”

Nhưng Ethan vẫn ở một mình trong phòng và chẳng nhìn thấy gì. Hay là có?

Cái bồn tắm. Một bàn chân, hiện lên phía trên mớ bọt xà phòng.

Cảnh tượng đó thoáng hiện lên trong tâm trí nặng trĩu rồi lại chìm xuống trước khi cậu bé kịp nắm bắt. Đến lúc này, hai mí mắt của Ethan đều muốn sụp xuống. Cậu nhóc nghe giọng mẹ mình trầm trầm như tiếng mạch nước ngầm. “Em định nói gì với công ty nhà đất đây?”

Nhưng Ethan không nghe thấy câu trả lời của cậu mình. Cậu nhóc đang mơ về bờ biển, với bãi cát nóng như dao cắt vào bàn chân nhạy cảm của mình.

Shelby biết có những thủ thư vẫn cho rằng bộ não con người giống như tập vi phim. Những hình ảnh và chữ viết bé xíu in trên tấm vi phim trong suốt, được sắp xếp trang này tiếp trang kia để độc giả dễ xem. Nhưng mỗi khi nhìn thấy những tập hồ sơ bé xíu, cô thường nghĩ nếu có bộ phận nào được sắp xếp giống vậy thì chắc là trái tim. Cô tưởng tượng ra hình ảnh giải phẫu khi trái tim được xắt thành từng lát mỏng. Lát này lưu lại khoảnh khắc bạn nâng niu con mình; lát kia ghi lại tình cảm dành cho ba mẹ và anh chị em. Lát kia nữa, màu tím, lại in những khoảnh khắc của khát khao; không bao giờ lo thiếu chỗ. Và với những ai may mắn, lát cắt mỏng nhất sẽ chứa đầy kỷ niệm về tình yêu mãnh liệt đến mức khiến người ta thay đổi hoàn toàn và thở dốc, và trong trái tim người tri kỷ cũng có một lát cắt y như vậy.

Desiderate: có nghĩa là mong nhớ.

“Cô có cần giúp gì không?”

Shelby đẩy kính lên mũi và quay sang nhìn cô thư ký mặt rỗ hoa làm cho tòa án dân sự. “Không cần đâu, cảm ơn chị. Tôi quen tay lắm rồi.” Để chứng minh, Shelby kéo phần đế của máy vi phim và lật mấy tấm phim để xem sang trang khác.

Chính Ross là người yêu cầu cô giúp đỡ điều tra - và vì cậu em cứ lằng nhằng mãi, cô đành phải đồng ý. Anh muốn biết khu đất này được nhà Pike sở hữu trong bao lâu, và có tài liệu nào chứng minh thổ dân châu Mỹ từng sinh sống ở đó hay không. Shelby đã lái xe đến tòa nhà thị chính Vốn là trụ sở của cục cảnh sát, tòa án quận, vàn phòng luật thừa kế và cơ quan hành chính của thị trấn. Cô chỉ tìm hiểu được rằng nhà Pike chỉ nắm quyền sở hữu khu đất từ những năm 30.

Chẳng có hồ sơ nào chứng minh thổ dân châu Mỹ từng định cư ở đó.

Shelby đã chủ động tìm hiểu thêm làm cách nào Spencer Pike có được chứng thư cho khu đất. Ngạc nhiên thay Spencer Pike không hề mua mà là được thừa kế khu đất ấy, từ người vợ quá cố của ông ta.

Shelby chưa từng lập di chúc cho mình. Dù sao của cải của cô cũng chẳng có nhiều như cỡ quý bà Ivana Trump, nhưng nếu lát nữa cô bị đâm xe ngay lúc ra khỏi tòa án thì Ethan cũng chẳng đến mức trắng tay. Tuy nhiên, lý do cô chẳng buồn đến gặp luật sư để lập di chúc chẳng hề liên quan đến lượng tài sản mà là vì người thụ hưởng. Người làm cha mẹ trên thế gian này đều muốn để lại tài sản cho con cái. Nhưng nếu biết chắc mình sẽ sống lâu hơn con mình thì sao đây?

Tôi, phu nhân Spencer T. Pike của thị trấn Comtosook, xác nhận đây là di chúc cuối cùng, và bác bỏ mọi di chúc và tài liệu bổ sung được tôi l?