Chương 4
Cư dân thị trấn Comtosook đã bắt đầu thích nghi với hoàn cảnh không còn theo quy luật gì nữa. Người ta luôn cầm theo ô trong túi xách và ví cầm tay để đối phó với những cơn mưa lúc rơi xuống thì đỏ như máu, sau khi bốc hơi để lại một lớp bụi mịn màu đỏ. Dù có được bao bọc cẩn thận đến đâu thì cứ đúng ngọ là đám đĩa sứ lại vỡ tan tành. Mấy bà mẹ đánh thức con mình dậy để ngắm hoa hồng nở rộ giữa đêm khuya.
Rồi một thời gian sau, gấu quần bắt đầu tự tuột chỉ và chữ viết không chịu ở yên trên trang sách. Nước chẳng chịu sôi. Cư dân thị trấn bất ngờ thức giấc mà không nhớ gì. Đến khi bước ra ngoài lấy tờ tin tức buổi sáng, trí nhớ của họ mới theo từng bước chân mà quay về. Cánh phụ nữ mở máy sấy quần áo và phát hiện ra đám áo quần màu trắng đã biến thành lông vũ. Thịt để trong tủ đông vẫn hỏng. Màu xanh dương lại hóa màu gì kỳ quái.
Vài người cho rằng đấy là vì trái đất nóng lên, hoặc tự bản thân họ xui xẻo. Nhưng khi Abe Huppinworth bước vào cửa hàng tạp hóa và nhìn thấy tất cả hàng hóa quay ngược và lật úp trên kệ, ông ta lớn tiếng thắc mắc có phải con ma thổ dân sống gần đường Otter Creek Pass liên quan đến vụ này không. Ba người khách hay mua sắm tại cửa hàng đem chuyện đó buôn dưa lê với hàng xóm xung quanh. Và chưa đến buổi tối, hầu hết người dân thị trấn Comtosook bắt đầu bàn tán liệu có nên để yên cho mảnh đất đó hay không.
Rod van Fleet chẳng hề mong đợi được nghe Ross Wakeman báo cáo điều gì. Nếu có ma thật - đúng là nực cười - thì Rod phải làm gì bây giờ? Căn nhà đã bị tháo dỡ; công nhân đang vận chuyển đống xà bần đến bãi rác. Dù có bao nhiêu chữ ký và đơn kiến nghị của người dân địa phương thì Tập đoàn Redhook vẫn tiến hành xây dựng thôi. Rod có thể gọi một thầy tế đến trừ tà cho cái tiệm bánh mì vòng sắp được xây; mà cũng có thể không cần làm vậy. Vấn đề nằm ở chỗ ma quỷ là chuyện có thể thương lượng, nhưng tiến độ xây dựng thì tuyệt đối không thể.
Nhưng Rod vẫn muốn biết có đúng là mình đang xâm chiếm lãnh địa của một hồn ma hay không. Anh vẫn muốn biết liệu đó có phải lý do gây ra mấy bữa ăn khiến anh ăn gì cũng như mùn cưa hay vụ đêm nào bàn chải đánh răng cũng chơi trò mất tích.
“Mấy thứ này…” Rod chỉ tay vào màn hình tivi chiếu cảnh khu rừng đêm khuya mờ câm với mấy đường kẻ màu xanh và mấy quả cầu sáng rực bay lơ lửng. “Mấy thứ này là ma hả?” Anh thầm thở phào. Anh không ngờ đấy lại là cách hiện hình của ma. Mấy tia sáng và quả cầu thì làm hại được ai cơ chứ. chúng chắc chắn chẳng ảnh hưởng gì đến việc kinh doanh đâu.
Rõ ràng Ross Wakeman là một gã lừa bịp vớ vẩn. Gã ta nhận thấy cơ hội để gây dựng tiếng tăm và may mắn gặp trúng Rod.
“Đó không phải là hồn ma,” Wakeman giải thích. “Đó là tác động của hồn ma lên thiết bị theo dõi. Khi tôi ở đó, tất cả đèn pin đều tắt phụt, cảnh quay bị gián đoạn và máy đo từ trường dao động rất mãnh liệt.”
“Giả thần giả quỷ,” Rod phản bác. “Có quái gì rõ ràng đâu.”
“Nếu chỉ vì có yếu tố nào đó phủ nhận kết quả đo lường thì chúng ta không thể kết luận không có yếu tố đó.” Wakeman nhún vai. “Thử cân nhắc giá thị trường của khu đất và giá trị đích thực xem.”
“À, nhưng người ta có thể đo được giá thị trường. Đó là giá người khác sẵn sàng chi trả để có được thứ gì đó.”
“Anh cũng có thể đo được ma bằng việc người ta có sẵn sàng tin tưởng hay không.”
Đột nhiên cánh cửa dẫn ra khu công trường xây dựng bật mở. Van Fleet quay lại và nhìn thấy ba người công nhân điều khiển máy móc giận dữ lao đến, mấy cái máy ủi im lìm như bầy khủng long đang say ngủ.
One, tay trưởng nhóm chọc tay vào ngực Van Vleet. “Chúng tôi bỏ việc.”
“Bọn anh không thể bỏ ngang được. Chưa xong việc mà.”
“Dẹp cái công việc quái quỷ này đi.” Anh ta cởi mũ và quăng thẳng vào van Vleet như thách thức. “Chúng nó đang khiến bọn tôi điên lên.”
“Cái gì?”
“Lũ ruồi bọ.” Một người công nhân khác tiến lại gần, tiếp tục kể lể bằng giọng Canada gốc Pháp. “Chúng chui vào lỗ tai rồi cứ vo ve trong đó.” Anh ta lấy tay xoa hai bên tai. “Vù vù vù.”
“Và khi chúng tôi vung tay đuổi chúng đi,” anh công nhân đầu tiên thêm vào, “thì chẳng có con ruồi nào cả.”
Anh công nhân thứ ba vẫn im lặng làm dấu chữ thập.
Ross ho khan, khiến van Vleet liếc sang. “Tôi cam đoan không có việc gì đâu,” van Vleet cố trấn an mấy người công nhân. “Có thể là tiếng gió thổi. Hoặc là virus gì đó.”
“Vậy thì chắc phải là virus có tính lây truyền vì mấy người Abenaki đứng trước cũng nghe thấy tiếng đó. Ông già kia còn đánh vần từ mà chúng tôi nghe thấy. C-H-I-J-I-S. Nó có nghĩa là đứa bé theo ngôn ngữ bộ tộc Abenaki.”
“Dĩ nhiên là lão ta sẽ nói với mấy người như vậy rồi!” van Vleet rên rỉ. “Lão ta muốn các anh bỏ đi. Lão ta muốn khiến các anh sợ hãi đến mức hành động đúng như thế này - bước xuống xe và ngưng làm việc.”
Mấy người công nhân nhìn nhau. “Chúng tôi không sợ. Nhưng nếu anh không tìm cách trục xuất con ma đó thì cứ tìm đội thi công khác đi.” Ba người gật đầu chào rồi bước ra khỏi khu vực xây dựng.
“Anh đang nói dở chuyện gì ấy nhỉ?” Ross thắc mắc.
Van Vleet chộp lấy điện thoại. “Tôi phải gọi đội khác,” anh đáp. “Bây giờ tôi không có thời gian bàn chuyện ma quỷ này.”
Ross nhún vai. “Nếu anh cần đến tôi thì anh biết là phải tìm tôi ở đâu rồi đấy,” anh nói rồi rời đi. Rod gọi điện thoại, trong lúc chờ nghe tin nhắn hướng dẫn cài sẵn, mắt anh ta dừng lại trên màn hình tivi trong văn phòng đang chiếu mấy điểm sáng lập lòe. Wakeman chắc vô tình để lại cuộn băng. Hoặc cố tình, Rod thầm nghĩ lúc thấy vệt sáng lóe lên.
Máu bắn thẳng lên mặt cô.
Meredith vừa bước ra khỏi tòa nhà thì bị người ta tạt chất lỏng gì đó đầy tóc, chảy dọc xuống má và cổ. “Hôm nay cô đã giết bao nhiêu đứa trẻ rồi hả?” một người kháng nghị gào lên.
Cô quẹt đi mớ chất lỏng dính trên mắt. Mùi ngòn ngọt chứng minh đó không phải máu thật mà chỉ là nước giải khát KooLAid hoặc thứ gì đó tương tự. Văn phòng nghiên cứu của cô không phải là mục tiêu thường xuyên như trung tâm phá thai gần đó, nhưng vẫn bị người dân chống đối - vì một phần công việc của Meredith là phải chọn lựa phôi nào được sống còn phôi nào bị loại bỏ, và những người tin vào quyền được sống không tài nào chấp nhận được chuyện này. “Cứ quay lại chỗ tôi khi mấy người vô sinh nhé,” Meredith lầm bầm với đám người khó ưa, rồi rảo bước nhanh hơn đến xe hơi của mình.
Điều Meredith muốn nói, hay ép mình không được nghĩ đến trước khi an toàn trên ghế lái với điều hòa bật mạnh, chính là việc cô hiểu rõ về đám người kháng nghị đó còn nhiều hơn bất kỳ ai trong số đó biết về cô. Chín năm trước cô đã từng đi ngang qua một đám đông như vậy, ai cũng mang nét mặt đạo đức giống như đám người đứng đây hôm nay, y như mang mặt nạ mùa Halloween. Hôm đó Meredith hủy hết những cuộc hẹn tư vấn suốt cả ngày hôm đó vì biết rằng dù có đủ sức khỏe để làm việc thì cô cũng sẽ không có bụng dạ nào tư vấn cho người ta cách có con, ngay sau khi chính cô vừa phá thai.
Meredith nhớ đến phòng khám bệnh có mùi sắt thép và nước súc miệng. Nhớ đến hàng ghế chờ với mấy cô gái non nớt đến mức không tin nổi là đã vác bụng bầu. Nhớ đến mình đã thắt hai cái dây phía sau áo choàng phẫu thuật, rồi mới nhận ra mình không thể làm thế.
Nếu như mang thai không phải là lỗi lầm khủng khiếp như suy nghĩ của cô thì sao? Nếu như thời điểm mang thai không hề sai lầm, mà là vừa đúng dịp như chuông báo thức hay thông điệp gì đó thì sao? Nếu con cô không có cha thì sao chứ? Năm Meredith mới bốn tuổi, cha mẹ cô ly dị. Cha cô bỏ đi và số lần cô gặp được cha mình đến lúc trưởng thành chắc chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhưng cô chính là bằng chứng tốt nhất chứng minh người ta chỉ cần có người mẹ tốt, là có thể sống tốt rồi. Nếu Meredith không thể cứu mẹ cô sống lại thì ít nhất cô cũng có cơ hội tỏ ra mình học được gì từ mẹ. Cô sẽ trở thành chỗ dựa an toàn cho con gái mình; cô sẽ dành trọn tình yêu cho con.
Hôm đó sau khi nghĩ lại, Meredith thay quần áo, nhận tiền hoàn lại và ra khỏi phòng phá thai, một người kháng nghị đã tạt một chậu máu giả vào người cô. Đúng là giọt nước làm tràn ly - Meredith dùng tay túm cổ áo người đó và gào lên rằng cô chưa hề phá thai. Cô suy sụp thổn thức trong vòng tay một người lạ mặt.
Người ta đưa bánh quy và rót sô-cô-la nóng từ bình giữ nhiệt cho cô. Họ còn để cô ngồi trên chồng chăn ấm. Người đàn ông vừa tạt nước vào người cô còn cởi áo cho cô khoác. Suốt buổi chiều hôm đó, Meredith thành người hùng.
Gần mười năm sau, Meredith quan sát đám người khó ưa đó qua kính chiếu hậu. Cô ước mình đủ dũng cảm để quay lại đó và chất vấn liệu có ai trong số họ đã từng đưa ra quyết định làm thay đổi tương lai của bản thân. Cô ước mình có thể dắt họ vào phòng thí nghiệm nơi đang nuôi cấy vô vàn phôi thai khỏe mạnh. Cô ước mình có thể giải thích rằng có những sinh mạng không nên tồn tại. Rằng việc phán xét và chọn lựa không hề tàn nhẫn, mà là rất nhân đạo.
Meredith lái xe ra khỏi bãi, trở về nhà, nơi con gái bé bỏng đang nằm váng vất uể oải trên sofa vì tác dụng của thuốc chống suy nhược thần kinh. Meredith phóng bạt mạng giữa dòng xe cộ lúc tan tầm, tạt ngang đầu xe tải, đạp chân ga lên đến tốc độ 65 dặm/giờ trên đoạn đường chỉ được chạy tối đa 30 dặm, cứ như hành vi chán sống của cô có thể thuyết phục bản thân tin rằng sau bao nhiêu năm, cô vẫn đủ sức che chở cho Lucy.
Ross ngồi trong phòng cấp cứu, quét mắt qua từng gương mặt sợ hãi và bệnh tật khi họ đi ngang qua cửa tự động. Mỗi lần nhận ra đó không phải là Lia anh lại thả lỏng một chút. Anh đã nhập viện được hai ngày, đủ thời gian để kết bạn với nhân viên y tế và yên tâm rằng không có ai tên là Lia Beaumont, cũng không có người phụ nữ vô danh nào nhập viện. Đó là điều khiến anh lo lắng nhất - lỡ Lia tự hại bản thân hoặc bị chồng đánh đập trước khi Ross gặp lại cô ấy thì sao.
Anh muốn nói với cô ấy rằng anh đã không còn nhớ nổi đôi mắt của Aimee. Có lẽ đó chẳng phải là thứ cô ấy muốn nghe. Suốt tám năm qua, Ross vẫn luôn tưởng tượng được đôi mắt ấy như thể Aimee gần anh trong gang tấc - đôi mắt to tròn hơi xếch, con ngươi màu vỏ quế, hàng mi dài đổ bóng trên má khi cô ngủ. Nhưng từ cái đêm Lia chạm môi vào má anh và thì thầm vào tai anh, Ross chẳng thể hình dung ra gương mặt Aimee mà không liên hệ đến Lia.
Anh thay áo quần ba lần mỗi ngày nhưng mùi hoa hồng vẫn vương vấn trên người.
Anh muốn hôn cô.
Anh muốn cô.
Ross biết sẽ chẳng có kết cục tốt đẹp nào đâu. Anh sẽ không chen vào cuộc hôn nhân của Lia; anh sẽ không đặt cô vào tình thế phải lựa chọn. Nhưng anh cần biết cô có ổn hay không. Anh cần phải tin rằng cô không phải đang ngồi đâu đó tại thị trấn Comtosook với lưỡi dao kề trên cổ tay.
Đột nhiên một người phụ nữ lao đến bàn y tá, kéo theo một đứa bé như lôi món đồ chơi. “Tôi đang tìm một bệnh nhân,” chị gặng hỏi. “Tên anh ta là Ross Wakeman.”
Ross choàng tỉnh khi nghe thấy giọng nói của Shelby. Anh gọi tên chị gái.
Ethan quay đầu lại trước, rồi mới đến mẹ cậu nhóc. “Ross!” cô bước thình thịch về phía anh, gương mặt vặn vẹo vì sợ hãi. Ethan theo sau với trang phục kín mít từ đầu đến chân để ngăn ánh nắng chiếu đến da. Phần da mặt lộ ra bên ngoài loang lổ rớm máu.
Shelby quét mắt từ mặt xuống cánh tay của em trai. Cổ tay anh. “Có chuyện gì vậy? Em nhập viện bao lâu rồi? Trời đất, Ross, vì sao em không gọi cho chị?”
Sau đó cô nhìn thấy vết bỏng thuốc lá trên cánh tay Ross, kiệt tác của anh lúc gặp Lia. vết bỏng sưng tấy và rỉ nước, khiến Shelby không đành lòng chạm vào. Có lẽ vết bỏng khiến cô nhớ đến tình trạng của Ethan. “Shel, em khỏe mà.”
“Em đang ở bệnh viện đấy.”
“Em biết. Em đang cố tìm một người. Em nghĩ cô ấy có thể bị thương.”
“Em cũng đang bị thương kìa.”
“Không có chuyện gì đâu. Tai nạn thôi.”
Cô chẳng hề tin tưởng vào lời nói của em trai nhưng vẫn hỏi han, “Em thấy khỏe không? Có chắc không?”
“Chắc chắn mà.”
“Tốt,” Shelby đáp rồi dùng hết sức bình sinh tát thẳng vào mặt em trai.
Nhìn đầu Ross bị tát lật ra sau và cảm thấy bàn tay mình cũng đau rát lên chính là khoảnh khắc sảng khoái nhất của Shelby trong bốn mươi tám tiếng vừa rồi khi em trai cô mất tích. Suốt thời gian đó cô phải gọi điện đến khắp mọi nơi, cố gắng tìm xem có ai gặp được em trai cô hay không. Nhưng rất ít người ở thị trấn Comtosook biết Ross, lại càng ít người nhận được mặt anh. Cô đã gọi đến cục cảnh sát và được nối máy với Thám tử Rochert. Anh ta bảo phải sau hai ngày thì báo cáo mất tích mới được thành lập. Vì vậy cô đành dắt Ethan ra ngoài vào ban ngày, lái xe chầm chậm khắp thị trấn, đi khắp các quán ăn và còn đòi gặp Rod van Vleet, người cuối cùng gặp mặt Ross lúc mười giờ sáng hôm trước.
“Oái, Shel,” Ross bông đùa, mặt anh vẫn bỏng rát. “Em cũng rất vui khi thấy chị.”
“Em đúng là thằng khỉ.” Shelby nheo mắt. “Em có biết chị đã đi đến những đâu không? Chị vẫn bỏ công đi tìm thằng em đã biến mất không dấu vết mà chẳng buồn để lại ít ra một mẩu giấy nhắn nó sẽ đi đâu hoặc bao giờ thì về?”
“Hai mẹ con cháu còn chạy xuống dưới đường cao tốc,” Ethan châm dầu vào lửa. “Có xác một con mòng biển ở đó. Tuyệt cú mèo luôn.”
Shelby nổi xung chỉ muốn túm đầu cậu em mà lắc. “Đúng vậy đó. Dưới đường cao tốc. Vì sợ em nhảy xuống từ cầu vượt trên đường.”
“Em nói với chị rồi mà,” anh uể oải nói. “Em sẽ không tự tử.”
Cô túm lấy cánh tay em trai, ngay gần vết bỏng và gặng hỏi. “Vậy đây là cái gì?”
“Coi như một cách tự sát cực kỳ thiếu hiệu quả đi hả?”
Nước mắt dâng trào, khiến cô lại càng thêm bực bội. Shelby nghẹn ngào, “Chị mừng vì em thấy chuyện này hài hước. Chị nghĩ mình đúng là ngốc khi cho rằng chỉ cần quan tâm đến người nào thì người ta ít nhất phải có nghĩa vụ thông báo cho chị biết về tình trạng sống chết.” Cô gạt nước mắt. “Chị mừng vì em không tự vẫn, Ross, vì nếu làm vậy là em đang giết chị đấy.”
“Con mòng biển ấy?” Ethan vừa kể vừa túm tay áo Ross. “Một con mắt của nó còn bị khoét ra nhé.”
“Đừng lo lắng cho em nữa, được không chị? Em chưa bao giờ yêu cầu chị phải làm vậy cả,” Ross càu nhàu.
“Em không có quyền lựa chọn.”
“Vậy sao chị không quan tâm đến người nào cần chị ấy?”
“Em không cần chị sao?”
“Không cần chị nhiều như chị cần em,” Ross cãi lại. “Vì Chúa, Shel, chị đang sống như con thú đêm ấy. Chị ngăn cách bản thân với tất cả mọi người trừ Ethan. Từ lúc đến đây, em chẳng thấy chị có nổi một người bạn đến nhà uống cà phê. Chị còn chưa hề hẹn hò trong… Chúa ơi, suốt mười năm qua Đức Giáo Hoàng chắc còn hoạt động xã giao nhiều hơn chị. Chị mới có bốn mươi hai tuổi mà sống như cụ bà sáu mươi. Không cần đến em thì chị cũng đang tự giết mình rồi.”
Cô sẽ không khuỵu xuống đây, không phải ngay giữa phòng cấp cứu, không phải trước mặt Ross, đặc biệt không phải trước mặt Ethan. Cô nắm chặt tay và cố gắng kiềm chế. “Em nói xong chưa?” cô gằn giọng.
Ross nắm tay chị gái đến khi chị ngước lên nhìn mình. “Shelby. Em không tự tử đâu mà. Em hứa đấy.”
“Em đã từng hứa như vậy, Ross,” cô thì thào.
“Nhưng hóa ra là em nói dối.”
Shelby biết rõ khi Aimee qua đời, em trai cô sẽ không thoát khỏi bờ vực thẳm. Cô chứng kiến em mình mất ngủ, thân hình gầy còm tàn tạ. Cô nhìn thấy em mình cố gắng trò chuyện nhưng tâm hồn treo tận đâu. Vì vậy cô đã gợi ý cho Ross đến gặp một bác sĩ tâm lý. Đêm hôm đó, lúc ăn tối, em trai thông báo cuộc hẹn rất bổ ích và còn cám ơn cô. Mấy ngày sau, khi Shelby bắt gặp Ross nằm trên vùng máu, anh chỉ kịp thều thào mấy chữ “Em xin lỗi” rồi ngất lịm.
Hóa ra em trai cô chưa hề đến gặp bác sĩ tâm lý.
“Nói cho chị nghe xem,” cô chất vấn, “vì sao bây giờ chị nên tin tưởng em?”
Ross hướng về phía đằng xa, dán mắt vào tấm áp phích khuyến khích người ta hiến tạng. Anh bắt đầu kể cho chị gái nghe một câu chuyện về người phụ nữ đột nhiên biến mất. Sợ hãi… yếu đuối… xinh đẹp… tò mò: Ross dùng hết tính từ này đến tính từ khác để tạo nên một hình bóng mong manh, thế rồi đột nhiên hình dung về người phụ nữ tên Lia Beaumont này rõ dần giữa hai chị em, vừa run rẩy vừa bối rối.
Một từ khiến tâm trí Shelby choàng tỉnh. “Đã kết hôn?” cô nhắc lại.
“Cô ấy sợ chồng mình.”
“Ross à…”
Anh lắc đầu nguầy nguậy. “Chuyện không phải vậy đâu,” anh đáp. Shelby biết em mình đang nói dối; cô chỉ không biết liệu Ross có nhận ra chuyện đó hay không. “Em chỉ thấy lo lắng cho cô ấy. Cô ấy chẳng có chỗ nào để đi. Cô ấy muốn được tự do nhưng lại không tìm được lối thoát. Em nghĩ… em nghĩ cô ấy có thể muốn tự tử.”
Thế chuyện thực ra thế nào? Shelby thầm thắc mắc, nhưng trước khi kịp nói ra thì cô đã chú ý đến nét mặt em trai. Đó là nét mặt cô biết quá rõ - chính là nét mặt của cô mỗi khi ngước mắt lên nhìn mặt trời, hay ngắm gương mặt của Ethan lúc ngủ say. Đó là nét mặt cô từng thấy ở Ross sau mỗi lần cậu tự tử. Có những khi người ta phải đối mặt với thực tế, vô phương trốn tránh. Shelby nghĩ em trai đã phải lòng cô gái đó, nhưng vậy thì có thay đổi được gì đâu chứ.
Giọng Shelby khiến Ross hoàn hồn. “Ross, em không thể cứu nổi tất cả mọi người.”
Anh ngả người ra sau như thể Shelby lại vừa tát anh một phát. “Một lần thôi,” anh thì thầm khe khẽ. “Một lần thôi là tốt rồi.” Anh lảo đảo chạy ra khỏi bệnh viện, cố gạt ký ức ấy đi càng xa càng tốt.
Khi cậu Ross lao ra khỏi cửa kính, mặt trời như con rồng phun lửa nuốt chửng cậu ấy. Ethan đá ghế ngồi, khiến cả hàng ghế nối liền đó phải rung lên. Mẹ ngồi bên cạnh cậu bé, hai tay bưng lấy mặt như lúc không dám xem cảnh người ta bị chém trong phim Thứ Sáu ngày Mười Ba. “Cậu Ross làm sao vậy mẹ?” Ethan thắc mắc. “Người phụ nữ đó không có ở trong bệnh viện có phải là chuyện tốt không?”
Mẹ cậu nhóc chớp mắt. “Con nghe thấy hết à.”
“Trời, con chỉ đứng cách đó hai bước chứ mấy.”
Mẹ thở dài, và Ethan biết mẹ lại đang nhẩm tính trong đầu: tuổi của cậu theo năm nhân tuổi tâm lý rồi lại chia cho hằng số nào đó để ra được chỉ số ngây thơ trẻ con. “Có một lần cậu con cố cứu mạng một người lạ, nhưng lại để mất một người thân vô cùng quan trọng.” Cô siết chặt tay con trai. “Cậu Ross gặp tai nạn xe lúc đang đi cùng với vị hôn thê. Ross là người bị thương nhẹ nhất, cậu ấy bế cô Aimee ra khỏi xe và đặt bên lề đường. Trong chiếc xe đâm phải xe cậu Ross, còn có một người khác đang mắc kẹt. Cậu con đành để Aimee nằm đó rồi chạy đến xem thử người kia có sao không.”
“Và cô ấy mất à,” Ethan thở ra, mảnh ghép cuối cùng đã tìm được vị trí.
“À ừm. Bên ngoài thì Aimee có vẻ không sao, vì vậy nên cậu Ross cho rằng để cô ấy nằm đó một lúc sẽ không sao - nhưng bên trong thì khác. Nội tạng xuất huyết dữ dội. Cô ấy được đưa đến bệnh viện nhưng các bác sĩ không cứu được.”
“Giống con,” Ethan bình thản đáp. Mẹ cậu nhóc quay mặt đi.
Cậu nhóc vung vẩy hai chân, khiến cả hàng ghế lại rung lên bần bật. “Mẹ, liệu cô Aimee có cơ may khỏe hơn nếu cậu Ross lúc đó ở bên cạnh cô ấy không?”
“Chắc là không, con yêu à.”
“Cậu Ross có biết không?”
“Mẹ nghĩ là cậu Ross biết.”
Ethan nghĩ nghĩ một hồi. “Nhưng chuyện cô ấy qua đời… đâu phải là lỗi của cậu con.”
Mẹ cậu nhìn chằm chằm vào đứa con trai. “Đời khi biết là vậy nhưng có đỡ đau được đâu con.”
Lucy ngủ rất nhiều. Thỉnh thoảng cô bé nằm mơ thấy mình đang ngủ, đang nằm trên giường. Thỉnh thoảng cô bé còn mơ thấy mình bị rượt đuổi nhưng đôi chân lại không tài nào chạy nhanh được. Có một lần, cô bé còn tưởng tượng ra một quái vật khổng lồ đã ăn thịt mình, sau đó cô nép mình trong răng hàm đen thui của nó mà cứ thế ngủ vùi.
Cô bé vẫn gào thét trong giấc ngủ, nhưng lại không thể phát ra âm thanh.
Đôi lúc có giọng nói vang lên như cứa vào da thịt. Mẹ nài nỉ cô thức dậy và ăn chút gì đó. Bà Ruby cứ tấm tắc bảo rằng Lucy đang hồi phục rất tốt. Ai cũng thấy được hai má hồng hào của cô bé, đúng không nào? Cô nghe thấy giọng nói của mẹ và bà vọng lại từ đằng xa. Cô như bị rớt xuống một cái giếng, ngửa mặt lên nhìn trời.
Mấy gương mặt thấp thoáng sau mi mắt: mẹ, bà Ruby, và cả người phụ nữ đó. Người phụ nữ treo cổ, đứng ngay đầu giường và ngồi cạnh Lucy trên ghế sofa, gần đến mức khiến hai chân cô bé lạnh toát.
Vẫn là người đó, đúng ra bà ta phải biến mất rồi chứ. Nhưng từ khi bắt đầu uống thuốc, hình bóng người phụ nữ đó lại trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết - làn da xanh xao và đuôi mắt u buồn như thiếu ngủ. Lucy chẳng còn sợ hãi người đó, cô bé còn cảm thấy thông cảm với bà. Cô hiểu được cảm giác đứng trước mặt người yêu thương nhưng người ta lại không thấy bạn là như thế nào.
Đó là lần đầu tiên Eli được gọi đến vì một vụ phá hoại ngược. Rod van Vleet đã nộp đơn than phiền rằng căn nhà vốn đã bị dỡ bỏ nay lại được phục hồi nguyên trạng. Qua một đêm, toàn bộ khung dầm của tầng dưới đã được dựng lại. Anh ta cam đoan rằng đấy là do bộ tộc Abenaki làm. Anh ta muốn cảnh sát thị trấn Comtosook bắt quả tang hành vi đó.
Eli liếc nhìn Watson. Xem ra nó tưởng chỉ cần liếm thật nhiều thì nước dãi có thể làm tan luôn cửa kính xe hơi. Anh đã đến khu vực cắm trại của người Abenaki. Ngoại trừ ông già Az Thompson, ai nấy đều ngủ say như chết. Nhưng chỉ lát sau, khi Eli và chú chó Watson tiến vào khu đất nhà Pike thì anh lập tức hiểu vì sao van Vleet lo lắng: phía trong hàng rào dựng tạm, căn nhà vừa được tháo dỡ đã tự ráp lại như cũ.
Bên cạnh anh, chú chó Watson rên ư ử rồi lùi lại. “Nhát như thỏ đế,” Eli lầm bầm, đạp rạp hàng rào dây kẽm tạm để bước qua. Căn nhà xộc xệch như bộ xương vỡ - mấy cây dầm và trụ chống chắp nối theo một cách quái đản nhưng vẫn chịu được sức nặng. Đáng nói là căn nhà còn vượt qua cả giai đoạn dựng khung. Vữa được trát qua loa vào mấy bức tường tầng dưới. Vài chỗ đã được gắn ván. Một đội công nhân xây dựng chắc phải mất một tuần mới làm được thế này, nếu chỉ hoàn thành trong một đêm thì đúng là chuyện không tưởng.
Eli cẩn trọng bước trên đám gạch vụn và kính vỡ, chú chó Watson đã bớt sợ cũng chạy theo. Mấy bậc thang dẫn lên hiên nhà chưa phục dựng nên anh anh phải trèo lên. Eli quét đèn pin kiểm tra xung quanh. Trong nhà vẫn còn thiếu mấy tấm ván cách nhiệt và khung cửa cũng chưa vuông vức, nhưng cấu trúc này chắc chắn và đứng vững. Anh còn ngửi được mùi sơn mới.
“Nếu mấy người thổ dân làm ra chuyện này,” Eli nhỏ giọng nói với Watson, “thì tao sẽ tự nhai luôn cái mũ. Nhưng nghĩ lại thì biết đâu món đó sẽ ngon lành hơn mấy thứ trong tủ lạnh của tao với mày đấy.” Anh rón rén bước vào từng phòng, hoang mang không biết sàn nhà có chịu nổi sức nặng của mình hay không. Lúc anh thử lay tay vịn cầu thang, nó rơi luôn xuống đất. Mấy bậc thang rung rung dưới chân Eli. Lúc cúi xuống, anh nhận ra bậc thang chưa được đóng đinh cố định.
Tầng hai của căn nhà sơ sài hơn. Nguyên một mảng tường còn trống trơn, màn đêm đầy sao là mái nhà. Chỉ có hai phòng tương đối hoàn thiện - một phòng ngủ lớn phía cuối hành lang và phòng tắm cạnh đó. Chân Eli dẫm lên mấy mảng vữa tường và kính. Anh liếc mắt qua Watson vì chợt thấy lo lắng cho nó.
Tiếng nước chảy khiến Eli chú ý, anh tiến thẳng đến phòng tắm. Lại là người phụ nữ đó. Lần này cô ta để mở cửa. Cô ấy đang mặc một chiếc áo choàng tắm màu trắng với khăn lông màu xanh quấn trên tóc như vừa tắm xong. Cô ta nhìn chằm chằm vào anh giống như anh biết mọi câu trả lời.
Watson phục xuống đất, cuộn người lại mà rên rỉ. Sau đó nó cụp đuôi và chạy xuống cầu thang, khiến mấy bậc thang rớt vỡ khắp nơi. “Mày là chó nghiệp vụ K9 đấy,” Eli làu bàu, bước vào phòng tắm. Tiếng nước chảy rõ ràng hơn, mặc dù chỉ cần quét đèn pin là thấy chẳng có vết nứt hay ống nước nào. Khi ánh đèn phản chiếu vào mắt, Eli giật mình quay qua tấm gương treo trên tường. Một thứ dễ vỡ thế này mà vẫn còn tồn tại sau khi căn nhà bị phá bỏ đúng là chuyện thần kỳ, trong khi dưới chân anh đầy kính vỡ. Bề mặt gương mù sương như phủ hơi nước. Anh dùng tay chạm nhẹ vào mặt gương, định quệt đi hơi nước nhưng chẳng hề có gì xảy ra. Nếu không lý trí thì chắc anh đã tin rằng tấm gương tự phả ra hơi nước từ bên trong.
Khi Eli dí đèn pin lại gần để xem tấm gương gắn vào tường như thế nào, bề mặt đầy hơi nước bỗng hiện lên hai bàn tay, với chữ cái hiện lên từ phía sau tấm gương. Eli rút súng chĩa vào đó ngay lập tức. Nhưng chĩa vào đâu? Vào tường sao? Hay vào gương? Làm sao có thể đánh bại kẻ thù mình không thấy được.
Tim anh chực nhảy xổ lên cổ họng. Bàn tay trong gương lại càng rõ nét. Sau đó, từ phải qua trái, một ngón tay từ phía sau tấm gương viết lên mấy chữ trên mặt gương đầy sương. C-Ứ-U.
“Khỉ thật,” Eli thở dốc, đột nhiên mặt gương trở nên sáng trong trở lại, phản chiếu hình dáng anh đang hoảng loạn. Anh lùi ra khỏi phòng tắm, chạy như điên xuống cầu thang về phía Watson. Với chú chó theo sát chân mình, Eli nhảy ra khỏi cửa chính. Anh chỉ vừa chạy tới hàng rào tạm thời bao quanh khu đất thì cả căn nhà sáng lên như cây thông Noel, rực rỡ đến mức Eli phải quay lại, choáng váng vì vẻ đẹp nổi bật của căn nhà lọt thỏm giữa rừng cây.
Tất cả những điều này đều xảy ra tại một nơi chưa từng có điện suốt 20 năm qua.
Ross có thể đánh hơi được cái chết. Cái chết phảng phất trên hành lang, ẩn giấu trong mùi ammoniac, ga trải giường và đám thuốc viên trắng như phấn. Cái chết lén quan sát anh tại góc phòng. Anh tự hỏi liệu những người bước qua cánh cổng của viện dưỡng lão có bao giờ ngẫm đến chuyện họ sẽ không rời khỏi đây nữa.
Hôm nay anh định làm điều tra cho đỡ phải cả ngày cứ nghĩ mãi về Lia. Anh không gặp cô, và cũng chẳng nghe được tin tức gì về cô ấy suốt một tuần rồi. Thay vào đó, anh nhận được hết cuộc gọi này đến cuộc gọi khác từ Rod van Vleet. Van Vleet hỏi Ross có biết chuyện căn nhà của ông Pike đang tự gắn kết không? Hoặc chuyện một viên cảnh sát đã nộp báo cáo tường thuật rằng đèn điện trong nhà dù không nối với dây điện nhưng tự bật sáng?
Ross hoàn toàn tin rằng con người không thể kiểm soát được mọi thứ. Bạn có thể thắt dây an toàn nhưng vẫn gặp tai nạn xe hơi. Bạn có thể nhảy vào đoàn tàu đang chạy nhưng vẫn sống sót. Bạn có thể dành mấy năm trời đi tìm ma, nhưng con ma chỉ xuất hiện khi bạn mải bận rộn với chuyện yêu đương cùng phụ nữ đến mức chẳng thèm để ý. Vì vậy anh đã quyết định ngừng ngóng trông Lia. Vì khi anh ít mong đợi Lia nhất thì cô ấy lại xuất hiện.
Anh đã đến viện dưỡng lão mà không hề báo trước vì không biết liệu ông Spencer Pike có đồng ý gặp mình hay không. Và lúc này, khi ngồi đối diện, Ross cảm thấy thương xót cho ông cụ. Phần duy nhất còn linh động trên người cụ Pike là đôi mắt xanh sáng rực. Những bộ phận còn lại đều rệu rã, vặn vẹo như rễ cây bị hãm trong cái chậu quá chật.
“Dẹp bánh quế nho khô đi,” Spencer Pike lầm bầm.
“Xin lỗi?”
“Đó là thứ vớ vẩn thay tạm cho món bánh vòng thôi. Nói anh biết, bánh vòng không có vị ngọt. Vì tình yêu với Chúa, nó giống như bánh sandwich ấy. Nào có ai phết thạch ngọt lên món thịt muối và pho mát chứ hả?” Ông chồm người ra trước. “Anh làm việc cho van Vleet, vậy anh có thể nói với ông ta là tôi bảo vậy đó.”
“Nói đúng ra thì thì tôi không hề làm việc cho Tập đoàn Redhook,” Ross đính chính.
“Anh bán bảo hiểm?”
“Không.”
“Luật sư hả?”
“Không phải.”
“Anh là ông chủ cửa hiệu bánh vòng?”
“À, không.”
Pike nhún vai. “Cũng còn may. Thế anh muốn biết gì nào?”
“Tôi biết là khu đất vốn thuộc về vợ ông… nhưng được chuyển quyền sở hữu sang cho ông sau khi vợ ông qua đời và ông không hề có con cái.”
“Sai bét.”
Ross ngước mặt lên khỏi cuốn sổ ghi chép. “Đó là thông tin trong di chúc của bà ấy.”
“Dù vậy thì vẫn sai bét. Cissy và tôi có con, nhưng nó chết yểu.”
“Tôi rất tiếc.”
Pike cọ tay vào cái chăn đắp trên đùi. “Chuyện đã quá lâu, lâu lắm rồi,”
“Ông Pike, lý do tôi đến đây là để hỏi liệu ông có biết về lịch sử của khu đất trước khi sở hữu không?”
“Đó là khu đất thuộc về gia đình bên vợ tôi. Truyền từ mẹ sang con gái mấy đời nay rồi.”
“Khu đất đã bao giờ thuộc về người bộ tộc Abenaki chưa?”
Ông Pike chầm chậm quay đầu lại. “Bộ tộc gì cơ?”
“Bọn họ là người đang phản đối việc quy hoạch lô đất.”
“Tôi biết bọn họ là ai!” mặt ông Pike đỏ như gấc và ông bắt đầu ho khan. Cô y tá chạy đến, đong đưa liếc mắt với Ross rồi nhẹ nhàng dỗ dành cho đến khi nhịp thở của ông cụ bình thường lại. “Bọn họ chẳng thể đưa ra bằng chứng nào về chuyện nó từng là khu nghĩa địa, đúng không nào?”
“Có vài… sự kiện,” Ross cẩn thận lựa từng câu chữ, “khiến người ta tin rằng nơi đó bị ma ám.”
“Ồ, chỗ đó bị ma ám thì có gì lạ. Nhưng không phải ma thổ dân châu Mỹ. Vợ tôi qua đời tại đó,” ông Pike thừa nhận với giọng điệu rời rạc và trầm thấp.
Đứa bé chết yểu; cái chết bất đắc kỳ tử của Cissy Pike; khả năng có một hồn ma không chịu yên nghỉ - Ross liên kết mọi thứ lại với nhau. “Vì khó sinh sao?”
Pike lắc đầu. “Vợ tôi bị giết hại. Bởi một người Abenaki.”
Đến giờ nghỉ trưa, Shelby đi bộ từ thư viện khoảng năm phút là đến cửa hàng tạp hóa Gas & Grocery để mua sandwich. Nhưng dạo này, do bài báo đăng trên New York Times, đám phóng viên lúc nào cũng tập trung tại cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu để săn tin về khu đất đang tranh chấp. Abe Huppinworth đang đứng dưới mái hiên, vừa nháy mắt với cô vừa đưa tay quét dọn đám cánh hoa lì lợm. Shelby nhìn ông ta một lúc, rồi đột ngột rẽ sang lối khác.
Trước khi kịp nhận ra, cô đã thấy mình bước vào tòa thị chính. Thư ký văn phòng, cô Lottie đang ngồi tại bàn làm việc với một cuốn sách ăn kiêng. “Tôi chẳng hiểu nổi,” cô rên rỉ, ngước mắt nhìn lên. “Sách viết ‘mười một đơn vị’, làm như tôi sắp ăn cả đội quân ấy.”
Từ hồi Shelby bắt đầu sống ở Comtosook, cân nặng của Lottie vẫn giữ mức tròm trèm trăm ký. Cô thư ký đóng sách lại và cầm một cọng cần tây lên. “Cô biết ai phát minh ra rau xanh không? Quỷ dữ đấy.” Cô cắn một phát. “Lẽ ra tôi không nên bắt đầu ăn kiêng khi tâm tình thế này.”
“Đám phóng viên khiến cô bực hả?”
“Đám người đó đánh hơi khắp nơi để tìm chuyện quái quỷ gì đó. Tôi rốt cuộc cũng phát hết mớ bản sao giấy tờ đất đai của khu đất nhà Pike sáng nay, nên chắc tôi chẳng bị quấy rầy nữa đâu.” Cô lắc đầu. “Tôi nghĩ bên cô chắc còn kinh khủng hơn nhỉ.”
Shelby nhún vai. “Bọn tôi rút dây điện thoại.”
“Tôi mong bọn họ biến đi cho khuất mắt. Tôi ước tất cả mấy chuyện này qua hết cho rồi. Myrt Clooney kể với tôi là con vẹt Wally LaFleur bỗng dưng bắt đầu hát mấy bản ballad của Eidth Piaf. Còn máy pha cà phê ngay trong văn phòng này sao? Bọn tôi chẳng pha được cái gì khác ngoài nước chanh.” Cô ta đột nhiên mỉm cười với Shelby. “Cô chắc không đến đây để nghe một mụ già ca cẩm rồi. Tôi giúp được gì cho cô đây?”
Mười phút sau, lấy cớ phải tìm hiểu thông tin cho khách của thư viện, Shelby ngồi dưới tầng hầm văn phòng, xung quanh là một đống thùng chứa ghi chép về thị trấn. Hồ sơ đều được cột bằng dây thun nhưng chẳng hề xếp theo thứ tự - chỉ có mấy tấm thẻ màu vàng đánh dấu ngày tháng cho giấy khai sinh và chứng tử của cư dân thị trấn Comtosook từ năm 1877 đến bây giờ.
Ross chưa hề nhờ cô giúp đỡ. Có lẽ cô ở đây vì từ hồi tranh cãi gay gắt tại bệnh viện, Ross vẫn luôn cố tình lảng tránh Shelby, nhưng vẫn lịch sự để lại giấy nhắn báo rằng mình sẽ về nhà khoảng 4 hay 5 giờ chiều; mua một lốc sữa để trong tủ lạnh thay cho phần sữa anh đã uống hết. Những lời đối thoại chưa nói ra như bị giấu dưới tấm thảm, khiến bọn họ đi lại trong mà mà cứ sợ vấp phải. Shelby ước mình đủ dũng cảm để nói với đứa em trai bé bỏng rằng Em có hiểu chị làm vậy chỉ vì thương em không? Nhưng cô lại sợ hãi vì em trai có thể đáp lại bằng một câu tương tự.
Cô chỉ muốn có một phép màu nào đó khiến em trai lại thân thiết với mình. Nhưng vì chẳng tìm được cách nào để nói xin lỗi với Ross vì đã nghi ngờ cậu em nên cô định sẽ giao cho anh thông tin này thay cho lời xin lỗi.
Thùng giấy chứng tử có từ thập niên 1930 đã sống sót qua trận lụt cuối những năm 1950, nhưng mực in nhòe đến mức Shelby chẳng đọc nổi tên người chết, nói gì đến những chi tiết khác. Đáy thùng được lót bằng một bảng Báo Cáo Thị Trấn Thường Niên xuất bản với lịch năm 1966. Cô đọc được từ trang bìa, “Thị trấn Comtosook lấy tên dựa trên từ kôdtôzik theo ngôn ngữ bộ tộc Abenaki, nghĩa là ‘nơi chôn giấu’, nhằm ám chỉ trữ lượng đá granite khổng lồ nằm sâu dưới mỏ đá Angel.”
Shelby thầm nghĩ đúng là chẳng còn nghi ngờ gì nữa.
Cô đào sâu hơn và bắt gặp mớ hồ sơ năm 1932. Chồng giấy không bị nhòe nhiều lắm, nhưng cọng dây thun trở nên khô giòn đến mức đứt ra ngay trên tay cô. Mấy tấm thẻ đánh dấu nằm trên đùi cô phảng phất mùi lưu huỳnh và hoa khô. Shelby bắt đầu lướt qua mấy tấm thẻ. BERTELMAN, ADA. MONROE, RAWLENE. QUNCY, OLIVE.
Hai tấm thẻ đính kèm với nhau; Shelby lập tức chú ý đến chuyện đó ngay khi nhận ra cả hai tấm thẻ đều có họ PIKE. Tấm thẻ đầu tiên là giấy chứng tử của một đứa bé sơ sinh chết yểu được 37 tuần tuổi. Thời điểm qua đời ước tính: 11 giờ 32 phút sáng. Đính kèm với tấm thẻ là một tờ giấy chứng tử khác đề tên bà Spencer Pike. Thời điểm qua đời: 11 giờ 32 phút sáng.
Shelby lạnh run mặc dù dưới tầng hầm cực kỳ oi bức. Không phải vì người phụ nữ này, qua đời lúc mới mười tám tuổi trong khi mang thai. Cũng không phải vì đứa bé này chưa từng được hít thở trên đời đã chết. Shelby lạnh run vì thứ khiến hai tấm thẻ này dính chung với nhau suốt nhiều năm qua. Shelby không phải chuyên gia, nhưng cô biết chất ấy là máu.
Ruby Weber không thích thừa nhận nhưng rõ là bà đang già đi. Bà nói với mọi người rằng mình mới bảy mươi bảy tuổi, nhưng trên thực tế thì bà đã tám mươi ba tuổi. Hông bà như bản lề bị gỉ sét, mắt mờ đi. Tệ hơn hết là bà hay ngủ gục lúc đang nói chuyện, gật gù như một bà già cao tuổi. Rồi một ngày nào đó bà chắc sẽ ngủ luôn không bao giờ thức dậy.
Nhưng chuyện đó sẽ không xảy ra trước khi Lucy được chăm sóc đàng hoàng. Ruby biết thuốc đang có tác dụng với cháu gái, nhưng lại khiến bà trả giá - cơn ác mộng của Lucy đã thoái lui và chuyển sang phòng ngủ của bà. Bây giờ thì dù Ruby ngủ gật ở đâu và bất kỳ lúc nào, bà cũng nằm mơ nhận được cuộc gọi khiến đời mình tan nát.
Cuộc gọi xảy ra vào một ngày thứ Hai, tám năm về trước. Bà nhấc ống nghe và nghĩ rằng chắc cửa hàng thuốc gọi đến báo rằng thuốc viêm khớp đã có; hoặc con gái Luxe gọi điện từ chợ báo rằng mình sẽ đến muộn vài phút. Nhưng giọng nói phát ra từ đầu kia lại là một hồn ma.
Bà vẫn đang ngồi đó, nắm điện thoại trong tay, run lẩy bẩy khi Luxe đi mua sắm về. “Mẹ không biết là tính tiền mất thời gian thế nào đâu,” Luxe kể lể. “Làm như người ta đang tích trữ đồ đạc để đi chạy nạn đấy.” Rồi cô cẩn thận quan sát mẹ mình. “Mẹ ơi? Có chuyện gì vậy?”
Ruby vươn tay ra nắm lấy tay Luxe, cảm nhận làn da ấm áp và mịn màng như một viên sỏi. Làm sao bạn có thể kể với người nào đó rằng mình không phải là người như họ tưởng?
Lúc này, Ruby nhận thấy có hai bàn tay nắm lấy vai mình và lay nhẹ. “Bà ngoại. Bà ngoại ơi.”
Ruby không tài nào đáp lại vì tâm trí bà chỉ có hình bóng của Luxe vật vã ôm ngực khi Ruby kể với cô về người vừa gọi điện; rằng Luxe thực sự là ai; rằng Ruby là ai. Bà vẫn nhớ đến gương mặt Luxe vàng như sáp, cứng ngắc sau cửa phòng cấp cứu khi vị bác sĩ bước ra thông báo con gái đã qua đời vì suy tim. Bà đúng là ngu xuẩn làm sao. Bà đã giữ gìn trái tim của Luxe suốt bao năm qua; giờ nghĩ lại, nói ra như thế đúng là ngớ ngẩn và vô trách nhiệm.
Ngày mẹ qua đời, Meredith vẫn còn là nghiên cứu sinh tại Boston. Cô chạy như điên đến bệnh viện đòi hỏi một phép màu. Cô điên cuồng đến nỗi bà Ruby suýt cũng tưởng cháu mình sẽ được toại nguyện. Thử tưởng tượng xem: Luxe lật tấm khăn che trên người và ngồi dậy. Bà từng chứng kiến những chuyện kỳ diệu như thế xảy ra. Ruby chưa bao giờ kể với Meredith về chuyện mình đã nói gì với mẹ con bé ngay trước khi cơn suy tim xảy ra. Bây giờ, với tình trạng của Lucy, Ruby có thể hiểu được tình mẫu tử có thể khiến phụ nữ phát rồ đến mức nào. “Merry” Ruby đột nhiên cất tiếng, muốn được kể hết mọi chuyện. “Cháu còn nhớ lúc mẹ cháu qua đời không?”
“Ôi bà ngoại,” Meredith thở dài. “Bà mơ thấy chuyện đó à?”
Bàn tay mát lạnh của cô áp lên má bà ngoại: cử chỉ ấy khiến Ruby hiểu ra mình không thể gây ra cùng một lỗi lầm đến hai lần. Bà quyết định chôn chặt quá khứ một lần cho mãi mãi, để nó cứ phai nhạt rồi biến mất. Bây giờ là cuộc sống của bà.
Spencer Pike chưa bao giờ gọi đến thêm lần nào, lão ta chắc đã xuống địa ngục rồi.
Con chó khiến anh lo lắng. Nó nằm cách Ross khoảng một mét. Một đống to lù lù trông hoàn toàn thư giãn, ngoại trừ đôi mắt nhìn chằm chằm vào Ross không chớp từ khi anh bước vào văn phòng điều tra. Thám tử Rochert lên tiếng, “Anh Wakeman. Anh thử dành một phút đặt mình vào địa vị của tôi xem. Một gã nào đó, chuyên điều tra hiện tượng tâm linh, đến bảo tôi phải điều tra một vụ giết người chưa được giải đáp từ bảy mươi năm trước. Tôi biết tìm ai để lấy khẩu cung - tìm ma à? Và nếu tôi có tìm được hung thủ thì chắc ông ta cũng chết hoặc đã chín mươi tuổi. Chẳng có kiểm sát viên nào ở Vermont chịu thụ lý vụ án đó đâu.”
Ross liếc mắt nhìn qua con chó đang nhe răng. Anh thám tử búng tay, và con chó săn lại gục xuống sàn nhà uể oải như không có xương. “Tôi cho rằng xét tình trạng tranh chấp đất đai, anh có thể thấy vụ án này đến rất đúng lúc chứ. Tất cả những gì tôi muốn nói là có một sự khác biệt rất lớn giữa một người phụ nữ chết lúc khó sinh và một người phụ nữ bị giết hại. Có lẽ ông Spencer Pike đã già quéo, cũng có thể giấy chứng tử năm 1932 có sai lệch. Nhưng nói đi nói lại thì có thể chính thông tin còn chưa biết đó giải đáp vì sao người Abenaki cho rằng họ có quyền sở hữu mảnh đất đó.”
Eli chồm tới trước, đôi mắt đen đột nhiên sắc bén. “Anh đến gặp tôi vì biết rằng tôi mang nửa dòng máu Abenaki, đúng không? Anh nghĩ tôi sẽ mở lại hồ sơ vụ án vì tôi nợ họ sao?”
Ross lắc đầu, sửng sốt vì cơn thịnh nộ kia. “Tôi đến gặp anh vì anh là thám tử duy nhất đang trực,” anh đáp lại.
Lời nói này khiến Rochert im bặt nhưng chỉ được một lúc. “Anh Wakeman, tôi nghĩ anh và tôi làm việc theo phong cách khác nhau đấy. Công việc của anh toàn dựa trên linh cảm, còn tôi phải dựa trên bằng chứng xác thực.”
Từ lâu Ross đã biết mình không nên phí công thuyết phục mấy người hay hoài nghi. Sự thật là có rất nhiều người tin vào ma quỷ, và một khi đã chứng kiến hiện tượng tâm linh thì bạn sẽ gia nhập hội đó thôi. Đám người hay hoài nghi cũng có tác dụng giúp giảm bớt những vụ lừa bịp. Ross sẽ không cố thuyết phục Eli Rochert tin rằng ma có thật. Nhưng anh cũng sẽ không để yên cho thằng cha này cạnh khóe công việc điều tra của mình. “Thực ra công việc của tôi giống với anh hơn là anh nghĩ đấy. Chẳng phải sự liên hệ giữa tội ác và hiện trường là dựa trên ý tưởng ai đi qua cũng để lại dấu vết sao?”
“Khoa học hình sự có thể kiểm tra dấu vân tay, nhưng làm sao lấy được…” Giọng anh ta lạc đi, và Ross nhìn Rochert cau mày suy ngẫm. Sau một hồi, anh ta tiếp tục. “Ngay cả khi vụ giết người này được phá sau bảy mươi năm thì thay đổi được gì? Vợ ông Pike cũng đã mất. Ông ta vẫn là chủ sở hữu hợp pháp của khu đất. Và ông ta vẫn có quyền bán nó đi.”
“Cũng còn tùy,” Ross đáp.
“Tùy cái gì?”
“Tùy vào việc ai gây ra vụ giết người đêm hôm đó.”
Eli chẳng hề ngạc nhiên khi Cục cảnh sát Comtosook lại lưu tập hồ sơ về án giết người chưa phá từ xửa xưa. Chuyện này chẳng phải do các vị tiền nhiệm chăm chỉ cẩn thận, mà do khâu lưu hồ sơ cẩu thả. Nói đúng ra thì chẳng có ai thèm đi dọn dẹp tủ hồ sơ lưu trữ này. Anh phủi đám mạng nhện dính trên tóc và kéo ra một cái thùng đầy tài liệu.
Cảnh sát trưởng Follensbee chẳng buồn bận tâm đến việc Eli làm gì trong thời gian rảnh. Khi bước lên lầu, Eli tự nhủ lý do anh làm việc này chẳng hề liên quan gì đến chuyện anh chứng kiến tại khu đất nhà Pike. Lại không hề dính dáng đến người phụ nữ cứ xuất hiện trong giấc mơ của anh vì nguyên nhân nào đó. Anh xem lại hồ sơ vì vụ án này chưa được phá giải, và những kỹ thuật điều tra hiện trường bây giờ có thể giúp trả lời những câu hỏi chưa được giải đáp từ năm 1932.
Watson ngóc lên nhìn khi Eli bước vào văn phòng, nhưng lười không buồn đứng dậy. Chú chó thờ ơ giương mắt nhìn Eli trút các món trong cái thùng gỗ lên bàn làm việc. Một tập hồ sơ cột dây, một chồng ảnh chụp hiện trường vụ án, một cái túi giấy đựng đồ ăn trưa, một hộp xì gà và một sợi dây thòng lọng.
Eli kéo một cặp găng tay cao su ra và cầm lấy sợi dây. Sợi dây chẳng có gì đặc biệt; kiểu dây bện sản xuất công nghiệp mua ở đâu cũng có. Vị cảnh sát điều tra vụ này đã khôn ngoan không tháo nút thòng lọng; sau mấy chục năm trời mà nút thắt vẫn còn y nguyên.
Anh cầm lấy mấy tấm ảnh hiện trường. Một tấm cho thấy người phụ nữ trẻ đang nằm với dây thòng lọng quanh cổ. Trên ngực và cổ đầy vết trầy xước không phải vì sợi dây, mà là vết móng tay cào - cô ta hẳn đã cố giãy dụa. Một tấm khác chụp ảnh mái hiên trông như mái kho lạnh. Eli dí mắt lại gần hơn; có một tia sáng trên mái che. Dựa trên vũng nước dưới sàn trông như chất dịch cơ thể, anh đoán đây có lẽ là nơi treo xác. Một tấm khác đặc tả đôi chân trần thâm tím của nạn nhân.
Đựng trong túi giấy màu nâu là một cái áo có vết bẩn và đôi giày phụ nữ. Một cái túi nhỏ bằng da với quai đeo da sống đã đứt đôi và một ống tẩu bằng gỗ bạch dương với phần tẩu thuốc làm bằng đá serpentine đặt trong hộp xì gà. Eli nhặt ống tẩu lên săm soi. Ông nội anh đã từng khắc một cái tẩu thuốc như thế này. Anh ngửi thử thì có mùi thuốc lá ngòn ngọt gắn liền với thời thơ ấu.
Đặt nó qua một bên, Eli mở báo cáo điều tra của cảnh sát.
VỤ ÁN SỐ: 32-01
NHÂN VIÊN ĐIỀU TRA: Thám tử F.Olivette
TÊN NẠN NHÂN: Cecelia Pike
(hay còn được biết với tên gọi bà Spencer Pike)
NGÀY SINH: 11-09-13
TUỔI: 18
ĐỊA CHỈ: Đường Otter Creek Pass, Comtosook, VT
THỜI GIAN/ NGÀY XẢY RA ÁN MẠNG:
12 giờ đêm đến 9 giờ sáng,
ngày 19 tháng 9 năm 1932
ĐỊA ĐIỂM XẢY RA ÁN MẠNG: Nhà Pike,
Đường Otter Creek Pass, Comtosook, VT
TƯỜNG TRÌNH SỰ VIỆC:
Vào ngày 19 tháng 9 năm 2032, lúc 09 giờ 28 phút, giáo sư Spencer Pike (sinh ngày 13 tháng Năm năm 1906) gọi đến Cục Cảnh Sát Comtosook để trình báo vụ sát hại vợ mình, bà Cecelia “Cissy” Pike. Giáo sư Pike báo cáo rằng vợ mình đã qua đời tại nhà riêng vào khoảng từ 12 giờ đêm đến 9 giờ sáng. Thám tử Duley Wiggs và tôi đã đến nhà Pike để điều tra vụ báo án.
Khi đến nhà Pike, chúng tôi gặp được giáo sư Pike. Ông ta trông cực kỳ phẫn nộ. ông ta đưa chúng tôi đến kho lạnh nơi xác vợ mình được tìm thấy. Nạn nhân đang nằm ngửa trước cửa kho lạnh. Tôi kiểm tra mạch đập nhưng không tìm thấy. Xác nạn nhân đã lạnh. Sau đó tôi đã liên lạc với chuyên viên khám nghiệm tử thi.
Nạn nhân đang mặc một chiếc váy đầm in hoa và mang ủng. Một sợi dây thòng lọng quấn quanh cổ nạn nhân. Ngực và cổ nạn nhân có những dấu cào sâu chảy máu. Dưới chân nạn nhân có nhiều vết bầm tím. Mái che của kho lạnh được chống đỡ bằng nhiều dầm xà lớn. Kết quả giám định ban đầu cho thấy nạn nhân đã bị treo cổ trên một trong những dầm xà trên cao. Ảnh chụp bao gồm ảnh cơ thể và hiện trường.
Toàn bộ khu vực được kiểm tra lấy chứng cứ. Một cái túi nhỏ bằng da nối với dây đeo da sống được tìm thấy phía bên trái nạn nhân. Sau khi kiểm tra, chúng tôi phát hiện dây đeo đã đứt lìa. Trong túi nhỏ có chứa một ít thảo mộc gì đó. Bên dưới túi nhỏ là một ống tẩu làm bằng gỗ bạch dương và đá serpentine. Không có bằng chứng nào chứng minh nạn nhân tự treo mình trên xà nhà đuợc tìm thấy tại hiện trường.
Giáo sư Pike khai báo mình kết hôn với Cecelia vào năm 1931. ông ta xác nhận mình đang là giảng viên hướng dẫn bộ môn nhân chủng học tại Đại học Vermont. Ông ta khai rằng bà Pike có thai chín tháng và vừa sinh con vào đêm ngày 18 tháng 9. Theo như lời kể của giáo sư Pike, cô hầu gái của gia đình giúp bà đỡ đẻ một đứa bé gái chết yểu vào lúc 11 giờ đêm. Ông ta nói rằng bà Pike vừa suy sụp vừa kiệt sức sau khi sinh. Theo như lời khai của giáo sư Pike thì vợ ông ta đi ngủ vào lúc gần nửa đêm. Theo báo cáo, đó là lần cuối cùng bà Pike được nhìn thấy lúc còn sống.
Giáo sư Pike khai rằng sau khi vợ mình đi ngủ, ông ta vào phòng làm việc và uống vài ly rượu, ông ta ước lượng mình đã uống hết sáu ly rượu scotch bỏ đá. Ông ta khai rằng mình ngủ gục trên ghế ngồi trong phòng làm việc và không hề thức dậy mãi cho đến 9 giờ sáng. Lúc đó, giáo sư Pike vào phòng xem chừng vợ mình nhưng lại thấy giường trống trơn còn cửa sổ bị đập vỡ. Giáo sư Pike nói rằng ông ta rà soát khắp khu nhà để tìm vợ mình rồi tìm thấy cô đang bị treo cổ trên xà nhà trước kho lạnh. Giáo sư Pike trình báo rằng ông ta đã dùng dao cắt dây đỡ vợ mình xuống.
Chiếc tẩu thuốc và túi da được giáo sư Pike nhận diện, ông ta nhận ra hai vật dụng trên là tài sản của một người đàn ông thuộc bộ tộc Abenaki có tên là Sói Xám. Ông ta trình báo rằng mình đã phải đuổi Sói Xám ra khỏi nhà vào chiều ngày 18 tháng 9. Giáo sư Pike khai rằng anh đã chứng kiến Sói Xám theo đuổi và quấy rối vợ mình. Giáo sư Pike nói rằng ông biết người đàn ông đó sống lang thang, vừa mãn hạn tù vì tội mưu sát ở Burlington. Giáo sư Pike kể rằng anh đã chất vấn Sói Xám và yêu cầu anh ta rời khỏi nhà. Theo như lời khai bên khác, Sói Xám đã bị ném khỏi nhà.
Giáo sư Pike cũng không thể giải thích cô hầu gái có thể đang ở đâu khi không hề xuất hiện sau khi anh ta thức giấc vào lúc 9 giờ sáng. Vật dụng tư trang của cô hầu gái vẫn còn nguyên tại căn nhà. Phòng ngủ của cô hầu gái không có dấu hiệu xô xát. Giáo sư Pike khai rằng cô hầu gái mười bốn tuổi chắc không đủ sức để ra tay sát hại vợ mình, ông còn cho rằng ông chẳng ngạc nhiên nếu cô bé bỏ chạy vì hoảng sợ khi nhìn thấy vợ anh bị treo cổ.
Chuyên viên khám nghiệm, Tiến sĩ J. E; DuBois đến hiện trường lúc 10 giờ sáng đã tiến hành kiểm tra tử thi. Kết quả ban đầu cho thấy người chết vì nghẹt thở, phù hợp với việc bị treo cổ.
Eli lật sang vài trang khác. Mô tả căn nhà, vật dụng trong phòng ngủ của Cissy Pike. Dấu vết đột nhập và chống cự. Báo cáo khám nghiệm tử thi. Một bộ vân tay lấy sau khi nạn nhân đã tử vong. Một tờ khai của Pike và một tờ khai của Sói Xám đã tự nguyện đến cục cảnh sát để chịu thẩm vấn. Một tờ khai của mấy người đàn ông chứng minh Sói Xám có chứng cứ ngoại phạm vào đêm hôm đó. Một lệnh bắt giam Sói Xám được thẩm phán cấp vài ngày sau đó nhưng không được thực thi vì Sói Xám đã biến mất.
Eli liếc qua sợi dây, áo ngủ và ống tẩu. Ít nhất anh cũng gửi vật chứng đi xét nghiệm DNA xem thử Sói Xám có để lại dấu vết gì hay không. Có thể Sói Xám bỏ trốn khỏi thị trấn vì biết rằng mình sẽ bị kết tội giết người. Nhưng cũng có thể Sói Xám không bao giờ được tìm thấy vì đã bị chôn dưới sáu tấc đất ở căn nhà đường Otter Creek Pass - tác phẩm của Spencer Pike.
Nếu vậy thì chỗ đó đúng là khu đất chôn thổ dân châu Mỹ.
Khi nhìn thấy từng tia chớp nhiệt nối liền những vì sao lại với nhau như trò chơi nối điểm, Ross nhớ đến lần đầu tiên mình suýt chết. Anh không nhớ được nhiều, chỉ biết rằng lúc đó anh đang nhìn lên bầu trời bị chớp xé rách, thấy cơ hội được chết đang tới và dang tay đón nhận. Phải cố lắm anh mới nhớ đến mùi tóc khét; cảm giác cơ bắp cứng lại khi dòng điện bổ vào thân thể anh. Anh thực tình rất muốn biết cảm giác bước sang thế giới bên kia là như thế nào, ánh sáng trắng rực rỡ ấy trông ra sao, nhưng nếu mấy chuyện đó có xảy ra thật thì sao anh chưa từng cảm nhận gì nhỉ.
Bầu trời chợt bị xé toạc trong khoảnh khắc chớp sáng, nối theo là tiếng sấm đì đùng. Ross cảm nhận được hạt mưa đầu tiên rơi trên trán.
Có rất nhiều quy định đối với quá trình điều tra hiện tượng tâm linh ngoài trời, dựa vào nhiệt độ và điều kiện thời tiết. Đâu ai muốn chụp những bức ảnh tưởng