Phần Hai Chương 5 Tháng 7 năm 1932
Có hai biểu hiện của sự ngu ngốc. Thứ nhất, tin vào điều không có thật; Thứ hai, từ chối tin vào điều có thật. — SOREN KIERKEGAARD
Nước chỉ cần chảy thì sẽ luôn trong lành. Nhưng quỹ gene con người thì không giống như vậy. — H. F. Perkins Bài học từ Nghiên cứu Ưu sinh tại Vermont, Báo cáo thường niên thứ nhất, năm 1927
Một ngày sau khi tôi tự sát bất thành, Spencer bảo hai vợ chồng sẽ đi tham gia lễ hội ở thành phố Burlington. Anh ấy cứ nhắc đến chuyện này trong lúc băng bó vết thương sâu hoắm trên cổ tay tôi. Anh nói, “Cissy, ở đấy sẽ có thầy bói, ảo thuật gia biết nuốt lửa và kịch lịch sử đấy. Còn có vô số trang sức được bày bán.” Anh thắt gút băng và chuyển qua lý do trọng tâm của chuyến đi chơi thị trấn: “Cha sẽ gặp vợ chồng mình ở đó.”
Mặc dù thời tiết nóng đến mức khiến đám hoa bồ công anh và cúc vàng mắt đen héo rũ, anh vẫn giúp tôi mặc một chiếc áo dài tay màu trắng để che đi vết thương. “Không nên để cho ai biết chuyện này,” anh thì thầm, và tôi cứ thế nhìn chằm chằm vào mảng hói bóng loáng trên đầu chồng mình cho đến khi ánh nắng phản chiếu vào đó buộc tôi phải quay mặt đi. “Em đang mộng du, chuyện chỉ có vậy. Em còn chẳng biết mình đang làm gì.”
Đối với Spencer, mặt mũi trước người khác còn quan trọng hơn những gì trong lòng. Mục đích quan trọng hơn phương pháp. Đó là bản chất lý thuyết của Charles Darwin. Và tôi nghĩ rằng Spencer sẽ thờ phụng ngài Darwin nếu không ngại mấy vị tai to mặt lớn trong giáo đoàn gán cho anh cái tội bỏ đạo. Mấy ngón tay thon dài của Spencer ôm lấy mặt tôi. “Thôi nào, Cissy,” anh dỗ dành. “Đừng làm anh thất vọng.”
Tôi còn chưa từng nghĩ đến chuyện làm thế, nên nặn ra một nụ cười. “Được rồi,” tôi đáp.
Thật ra tôi muốn nói: Đừng gọi tôi là Cissy nữa. Đó là cái tên của một nhà tiên tri ích kỷ đạo đức giả, và hãy xem cái tên đó khiến tôi biến thành cái gì. Thật ra tôi muốn nói: Mẹ đặt tên cho tôi là Cecilia, nghĩa là xinh đẹp, một chuỗi âm tiết êm tai. Một lần nọ, lúc đầu óc quay cuồng sau khi uống rượu mâm xôi tại bữa tiệc toàn khoa, tôi bảo với chồng mình rằng tôi muốn được gọi là Lia. “Leah sao?” anh cố tình nghe sai rồi lắc đầu nguầy nguậy. “Trong kinh thánh, đó là tên bà vợ ông Jacob không ưa đâu.”
Anh đỡ tôi đứng dậy, vì “mang thai” là trạng thái sức khỏe mà Spencer chấp nhận được. Lại thêm một chủ đề mà chúng tôi không muốn nhắc đến. Vì công việc của Spencer vốn liên quan chặt chẽ đến sức khỏe tinh thần, nên hai vợ chồng chẳng ai dám thừa nhận rằng tôi có vài điểm tương đồng với đám người nhốt trong bệnh viện thành phố Waterbury.
Tôi không tài nào giải thích cho một người như Spencer hiểu được cảm giác nhìn vào gương và không nhận ra mặt mình là như thế nào. Vì sao có những ngày tôi thức dậy và phải cố gắng hết sức mới mang một lớp mặt nạ và hòa nhập với cuộc sống như bao nhiêu người khác. Tôi từng ngồi cạnh anh ấy, móng tay đâm vào da thịt đến mức bật máu thì mới có cảm giác mình tồn tại.
Tôi tưởng tượng đến cảnh mình bị đẩy ra giữa biển khơi trên một cái bè, ngủ thiếp đi dưới trời nắng gắt: chảy mồ hôi, bỏng rát và không bao giờ tỉnh giấc. Dù tin hay không thì viễn cảnh đó vẫn dễ chịu như áp người vào tấm chăn mát lạnh. Nếu phải chết, tôi muốn được chọn chết lúc nào và ở đâu.
Sau nhiều năm luôn là kẻ bên lề, thật dễ dàng để chấp nhận rằng không có tôi thì thế giới sẽ tốt đẹp hơn biết bao. Spencer hay nói rằng tình trạng của tôi chỉ là do hóa chất trong cơ thể và não bộ mất cân bằng, nhưng tôi thừa biết mình chưa bao giờ hòa hợp với thị trấn này, cuộc hôn nhân này và cả màu da này. Tôi luôn là đứa bé cuối cùng được chọn trong nhóm; tôi là cô gái cười theo mọi người mặc dù chả hiểu gì câu chuyện cười; tôi là một phần trong tính cách mà ai cũng muốn giả vờ bỏ qua. Nhưng những thứ đó chính là tất cả của tôi, luôn luôn như vậy.
Đã hết đâu. Tôi đang mang đứa con trong bụng, nó chưa bao giờ đòi hỏi bất kỳ điều gì. Và nếu tự sát đồng nghĩ với việc tước đoạt sinh mạng của đứa bé, thì coi như tôi đã hai lần giết những người mình có thể mở lòng yêu thương.
Spencer rất khôn ngoan; anh ấy vẫn luôn sử dụng sự thật như mánh khóe để thương lượng. Anh ấy không ngừng trêu chọc và tán tỉnh để đến lúc chúng tôi rời nhà đi đến thị trấn, tôi sẽ cảm thấy mong đợi buổi lễ hội. Tôi ngửi thấy mùi thuốc súng lúc bắn pháo hoa; tôi nghe được âm thanh hoành tráng của lễ diễu hành. Đứa bé trong bụng không ngừng lăn lộn như con cá bạc trong hồ Champlain, khiến tôi vô thức đặt tay lên bụng. Spencer nhìn thấy, đặt tay anh lên tay tôi và mỉm cười. Suốt lúc đi dọc đường Otter Creek Pass, tôi nghĩ đến bà thầy bói; liệu bà ta có tìm thấy gương mặt của mẹ tôi trong quả cầu thủy tinh, hay như tôi chỉ nhìn thấy vực sâu thăm thẳm khi nghĩ về tương lai chính mình.
Câu hỏi: Thứ quý giá nhất trên thế gian là gì?
Trả lời: Quỹ gene của loài người.
Câu hỏi: Làm cách nào để quỹ gene trở nên bất tử?
Trả lời: Chỉ có bằng cách sinh con đẻ cháu.
Câu hỏi: Nhiệm vụ ưu sinh của mỗi cá nhân với văn minh nhân loại là gì?
Trả lời: Phải đảm bảo những ưu điểm được truyền cho thế hệ mai sau nếu ưu điểm vượt trên khuyết điểm. Xét về tổng thể, nếu một người có quá nhiều khuyết điểm, những khuyết điểm đó phải được loại bỏ bằng cách để quỹ gene xấu kia chết đi cùng với người đó.
— Hiệp hội Ưu sinh Mỹ
Nguyên Lý của Thuyết Ưu Sinh, năm 1926
Cái nóng khiến con đường nhũn ra như trái cây chín mềm, lề đường như phập phồng dưới chân tôi. Đàn ông trong bộ âu phục mùa hè nắm tay phụ nữ mặc những chiếc áo đầm vải lanh thời thượng. Có những quầy bán kem chanh và kem cuộn đỏ-xanh-trắng. Sao mà ai cũng cười tươi quá.
“Anh nghe nói có một trận boxing sáng nay nữa đấy,” Spencer kể. “Một người lính ở chỗ công sự vừa bị một tay đấm Ireland từ New York City đánh bại.” Anh dắt tôi ra bên rìa đám đông và cố vươn cổ nhìn về phía khu Đồi nơi cha tôi đang sống hiện giờ, còn vợ chồng chúng tôi lại dọn về nơi tôi sinh ra. “Không phải cha Harry sẽ đến muộn chứ,” Spencer lầm bầm. “Em có thấy cha không?”
Nhưng Spencer cao hơn tôi gần một cái đầu và anh còn đeo kính. Tôi cố dõi theo hướng anh nhìn nhưng chỉ thấy một cậu bé đi chân trần đang quỳ bên đống phân bò để nhặt mấy đồng xu lẻ do ai đó đánh rơi. Cậu bé thuộc về xã hội mà tôi không biết - những người sống trong khu ổ chuột ở phía Bắc chỉ cách đây chưa đầy trăm mét mà tưởng như cách nhau cả thế giới.
“Con yêu,” cha tôi gọi từ phía sau. Cha hôn lên má tôi. “Xin lỗi Spencer,” ông nói và bắt tay với anh. “Cha vừa xem trận boxing. Hấp dẫn thật đấy. Nếu con nhìn vào sinh lý học của vài kẻ nhập cư…”
Dù lớn lên cùng với khoa học, nó vẫn luôn là thứ ngôn ngữ xa lại với tôi. Cha tôi, Harry Beaumont, là giáo sư môn sinh học tại Đại học Vermont, còn Spencer là giáo sư môn nhân chủng học rất tin định luật di truyền của Mendel. Cả hai người đều là học trò của giáo sư Henry Perkins, chính là người đưa thuyết ưu sinh đến với bang Vermont, đó là môn khoa học cải thiện loài người thông qua chọn lựa di truyền. Giáo sư Perkins đã từng đứng đầu đợt Khảo sát Ưu sinh tại Vermont - một nghiên cứu trên những gia đình tại bang Vermont do tư nhân tài trợ. Hiện ông đang làm tình nguyện tại Hội đồng ủy ban Đời sống tại Vermont, giống như cha tôi và Spencer. Nhiều năm qua, hội đồng đã tập trung vào Nghiên cứu gia đình nòng cốt. Nghiên cứu theo dõi những gia đình dần lụn bại tại Vermont để xác định liệu thành tựu kinh tế và xã hội của vùng có liên quan đến kiểu người định cư ở đây hay không. Tất cả nhân viên cộng đồng và nhân viên tập sự đều có quyển tham khảo sơ đồ phả hệ của từng gia đình để phục vụ công tác. Ngoài nghiên cứu và luật triệt sản mới được ban hành, Vermont sắp gia nhập vào nhóm các bang đi đầu làm mẫu cho đất nước.
Đó là một chiến dịch cải tổ cấp tiến, kích thích đến rùng mình, Spencer luôn nói rằng mục đích không chỉ giúp Vermont tiến bộ mà còn tái dựng bang Vermont đẹp đẽ ngày xưa: một thị trấn xanh, nhà thờ màu trắng, ngọn đồi chấm phá bằng sắc thu đẹp đẽ. Cha tôi và Spencer là một trong những người đầu tiên nhận ra rằng bức tranh ấy dần bị hủy hoại vì nguồn gene Yankee mạnh mẽ dần bị thay thế bởi những cá thể kém ưu việt hơn. Những nhân viên thực địa của nghiên cứu gia đình nòng cốt đã xuống từng thị trấn để kiểm tra xem địa vị kinh tế và xã hội có liên quan gì đến chất lượng của những gia đình sống lâu đời tại đó hay không. Chẳng ai ngạc nhiên khi biết những thị trấn suy tàn chính là nơi nhiều gia đình có người thay nhau vào bệnh viện tâm thần, trại giáo dưỡng và tù giam. Vì vậy những gene lặn như đần độn hay xu hướng phạm tội cứ thế truyền lại cho đời sau - tất cả những điều đó đều được chứng minh từ sơ đồ phả hệ mà cha tôi vẫn trải ra trên bàn ăn. Vermont có thể tái tạo lại khung cảnh nên thơ của quá khứ bằng cách tập trung vào nhóm dân đó và tiến hành ngăn chặn trước khi đám gene xấu sinh sôi nảy nở.
Spencer luôn nói các nhân viên thực địa đang tìm kiếm thứ gọi là “Gia đình lý tưởng của bang Vermont, giống như nhà chúng ta vậy.”
Từ khi kết hôn, tôi vẫn luôn cố làm tròn bổn phận. Tôi tham gia vào ban quản trị cho Hội Bảo trợ Trẻ Em, tôi là thành viên của hội Con gái của Cách mạng Mỹ, và tôi là thư ký của Hội phụ nữ tại nhà thờ. Nhưng mấy người phụ nữ mạnh mẽ ở đó, với mái tóc ngắn, miếng đệm vai và đôi tất da đó, lúc nào cũng nói những câu giống nhau; đưa ra những đề nghị giống nhau; thỉnh thoảng dáng vẻ của họ cũng chẳng khác gì nhau. Và tôi chẳng phải một trong số họ.
Đôi lúc tôi vẫn tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi không kết hôn với Spencer mà đi học đại học, sau đó tham gia làm nhân viên thực địa cho khảo sát ưu sinh như Frances Conklin và Harriet Abbott. Tôi có vui vẻ hơn không? Những người phụ nữ ấy là một phần của chiến dịch thúc đẩy Vermont tiến đến tương lai. Bọn họ tạo ra sự khác biệt.
Spencer thường nói rằng vài người phụ nữ sinh ra là để thay đổi thế giới, số còn lại là để gắn kết thế giới. Vậy hẳn sẽ có những người không muốn tham gia cả hai nhóm đó, như tôi, vì biết rằng dù cố gắng đến đâu thì người như tôi cũng không tài nào hòa nhập được.
Cha choàng tay qua vai tôi. “Cháu trai của cha khỏe không?” ông hỏi, như thể giới tính của đứa bé là chuyện ai cũng đoán được.
“Khỏe như trâu ấy,” Spencer đáp. “Thằng bé cứ đạp Cissy cả ngày.”
Mọi người đều cười tươi. Chẳng ai nhắc đến mẹ tôi, dù cho hình bóng bà vẫn luôn liên quan đến cuộc trò chuyện. Hồi còn trong bụng mẹ, tôi có khỏe như trâu không? Có gặp phải vấn đề gì không?
Mồ hôi chảy dọc xuống ngực và xương sống. Da đầu dưới mũ trở nên ngứa ngáy. Tôi nghe thấy tiếng phà trên mặt hồ kêu lên, hối hả rời bến. “Thưa cô,” một giọng nói phát ra từ bên trái. “Cô không sao chứ?”
Đó là một người đàn ông trẻ tuổi trong bộ âu phục với bông cẩm chướng viền đỏ gắn trên ve áo. Mái tóc chải ngược về một bên có màu đường mật. Tay anh ta chạm vào khuỷu tay tôi.
“Cô hơi xanh xao đấy.” Anh ta mỉm cười. “Đáng yêu hơn bất kỳ thứ gì tôi thấy trong ngày hôm nay, nhưng lại lụi tàn quá nhanh.”
Trước khi tôi kịp trả lời thì Spencer đã cắt ngang. “Anh có gì muốn nói với vợ tôi sao?”
Người đàn ông kia chỉ nhún vai. “Tôi có điều muốn nói với tất cả đám đông.” Lúc bước lên bục diễn thuyết, anh ta còn nháy mắt với tôi.
“Có lẽ năm sau con nên đấu một trận boxing với gã người Ireland,” cha tôi đùa với Spencer.
“Con sẽ làm vậy nếu anh ta cứ cố tình dây dưa với Cissy.” Sau đó lời nói của Spencer chìm nghỉm trước chất giọng nam trầm đầy uy lực của người đàn ông kia.
“Thưa quý ông và quý bà,” nhà diễn thuyết giới thiệu. “Huyền thoại của Champlain!”
Đám đông tụ tập để xem vở kịch lịch sử. Nhạc công tấu lên giai điệu thổ dân châu Mỹ khi bốn người chiến sĩ da đỏ Iroquois hiên ngang bước lên. Trang phục bọn họ đều tơi tả như vừa thua trận, vết thương chằng chịt khắp mặt và ngực. Khi Champlain và đội chiến binh Algonquin đến nơi, chỉ cần một phát súng trường đã tiêu diệt hết toàn bộ kẻ địch. Nhà diễn thuyết nhấn mạnh, “Một thời đại đen tối của quyền lực man rợ đã kết thúc trong giờ đó. Khi Champlain anh dũng băng qua sông… từ trong hỗn loạn mang đến trật tự vĩ đại.”
Một tràng pháo tay vang lên khi mấy người diễn viên cúi chào, sau đó đám đông tản đi. Spencer hỏi, “Chúng ta nên làm gì tiếp theo nhỉ? Hình như có triển lãm về môn bóng chày hay cuộc đua ca nô gì đấy?”
Xuyên qua đám đông, tôi nhìn thấy bên kia sân khấu có một người đang nhìn tôi chằm chằm. Ông ta có làn da sẫm màu như mấy người thổ dân đóng kịch khi nãy. Đôi mắt ông ta đen đến nỗi có thể khiến người khác hãm sâu trong đó. Ông ta không hề mỉm cười hoặc lịch sự giả vờ dời mắt đi chỗ khác. Tôi không tài nào quay mặt trốn tránh, ngay cả khi Spencer chạm vào vai tôi. Tôi chẳng biết điều gì lôi cuốn mình hơn: cảm giác người đó có thể khiến tôi tổn thương, hoặc cũng có thể là không.
“Cissy?”
“Buổi triển lãm đi,” tôi đáp bừa, hy vọng đấy là câu trả lời hợp lý.
Khi tôi quay về phía bên kia sân khấu, ông ta đã biến mất.
Tự do và Đoàn kết
— Khẩu hiệu của Bang Vermont
Một khu đất trống trên đường Shelburne đã được sắp xếp thành khu vực triển lãm. Khi bọn tôi ngồi trên khán đài xem tiết mục Mèo làm xiếc của Bertie Briggs, tôi cầm tờ chương trình quạt lấy quạt để. Tôi nhấc mớ tóc ướt nhẹp sau gáy và cố gắng cuộn nó vào trong vành mũ. Chỗ ướt mồ hôi dưới cánh tay khiến tôi xấu hổ vô cùng.
Spencer chắc cũng thấy nóng lắm. Nhưng trong bộ âu phục kẻ sọc, anh ấy vẫn tươm tất và bình thản như thường. Anh và cha tôi dõi mắt nhìn theo mấy cô nàng Gypsy đang rao bán đồ thủ công - mấy cái giỏ, mô hình giày đi trên tuyết và nước thảo mộc. Bọn họ hay cắm trại bên bờ sông hoặc bờ hồ suốt mùa hè, sau đó đa phần qua mùa đông ở Canada. Bọn họ thật ra không phải dân du mục mà là thổ dân châu Mỹ - nhưng vẫn được gọi là dân Gypsy vì thói quen lang thang, làn da nâu và là cái nôi sinh trưởng cho những gia đình đông con thường ra ra vào vào trại giam hay trường giáo dưỡng. “Một lũ người sống ngoài lề xã hội lại cứ sinh sôi không ngừng,” Spencer càu nhàu.
Đám người Gypsy đó là đối tượng nghiên cứu của Giáo sư Perkins - cùng với một đám người di truyền bệnh tâm thần và những kẻ dưới đáy biệt danh là “Lũ cướp biển” sống trong mấy căn lều nổi lụp xụp. Sự khác biệt giữa những gia đình này và gia đình khác, ví dụ như gia đình tôi, hoàn toàn là vì di truyền. Một người cha sống nay đây mai đó sẽ có một đứa con trai lang thang. Một bà mẹ lăng loàn cũng sẽ truyền lại tính cách đó cho con gái mình.
“Mới có ba ca phẫu thuật nữa được hoàn thành tại Brandon,” cha tôi thông báo. “Và hai ca nữa trong tù.”
Spencer mỉm cười. “Tuyệt quá.”
“Đó là những gì chúng ta mong đợi. Cha cho rằng tất cả bệnh nhân sẽ tự nguyện một khi họ hiểu được chỉ cần một thủ thuật đơn giản là họ lại được tự do sống theo ý muốn.”
Một con mèo mướp của Bertie Briggs bắt đầu đi thăng bằng trên dây. Chân nó chắc đang run rẩy, tôi nghĩ vậy mặc dù thị lực của tôi cứ thất thường. Tôi nhìn vào bụng, hít sâu và cố gắng giữ cho mình không lăn đùng ra ngất.
Bàn tay nhỏ bé sẫm màu chẳng biết vì lấm bẩn hay vì làn da vốn thế thảy vào người tôi một tờ giấy nhăn nheo in hình trăng và sao. XEM BÓI MIỄN PHÍ. MME. SOLIAT. Lúc tôi ngước lên, cậu bé đã chạy biến vào trong đám đông.
“Em chỉ đến phòng vệ sinh thôi,” tôi thông báo và đứng dậy.
“Anh đi với em,” Spencer lên tiếng.
“Em hoàn toàn có thể tự đi được mà.” Rốt cuộc anh ấy cũng để tôi tự đi sau khi dắt tôi ra khỏi bậc thang trên khán đài và chỉ tôi đi đúng hướng.
Khi biết anh ấy chẳng còn nhìn theo nữa, tôi quay ngoắt theo hướng ngược lại. Tôi lấy ra một điếu thuốc lá từ trong ví tiền - Spencer không cho rằng phụ nữ nên hút thuốc - và chui đầu vào lều của bà Soliat. Túp lều vừa lụp xụp vừa tối tăm với mấy ngôi sao bằng vải màu vàng đính trên tấm rèm. Bà thầy bói đội một chiếc khăn xếp màu bạc và đeo ba khuyên tai ở mỗi bên. Một con chó lai sói thở hổn hển bên cạnh bàn, lưỡi nó hồng hồng như miệng vết thương. “Đến rồi thì ngồi đi,” bà ta nói như đang chờ tôi từ lâu lắm rồi.
Bà ấy chẳng hề có lá trà hay quả cầu thủy tinh. Bà ấy cũng chẳng thèm xem chỉ tay của tôi. Lúc tôi định đứng dậy và rời đi thì bà ấy bảo, “Đừng sợ,” giọng trầm trầm như đàn ông.
“Tôi không sợ.” Tôi cắn chặt điếu thuốc và hất cằm để chứng minh cho bà ta thấy tôi dũng cảm thế nào.
Bà ta lắc đầu và hạ mắt xuống đứa bé trong bụng tôi. “Về nó.”
Mẹ tôi mất lúc sinh con. Chắc tôi cũng sẽ như vậy. Thế thì tôi sẽ không được nhìn con mình… nhưng có thể sẽ gặp được mẹ.
“Cô sẽ làm được,” bà thầy bói đáp lại như nghe được suy nghĩ của tôi. “Điều mà cô không biết sắp trở nên rõ ràng. Nhưng điều đó cũng làm những chuyện khác trở nên vẩn đục.”
Spencer chắc sẽ cho rằng bà ta đang nói toàn những chuyện úp mở đánh đố nhau. Dĩ nhiên Spencer sẽ chẳng bao giờ đi làm một việc phi khoa học như đến gặp thầy bói. Bà ta nói cho tôi biết những chuyện ai cũng gặp phải: rằng tôi sẽ có được một số tiền; một người lạ mặt sẽ đến thăm. Rốt cuộc khi thò tay vào ví lấy ra tờ một đô la, tôi cảm thấy tay bà ấy đang nắm lấy cổ tay mình. Tôi cố giằng tay ra nhưng bà ta siết chặt đến mức đo được mạch đập trên tay. “Cái chết đang kề cận trên tay cô,” bà ta nói rồi thả tôi đi.
Tôi hoảng hốt loạng choạng đứng lên và lao ra ngoài trời. Ồ bà ấy nói đúng; số mệnh của tôi là vậy, từ khi tôi sinh ra và làm chết mẹ của mình.
Tôi bước đi trong vô định; tôi thờ ơ lướt qua vô số gương mặt. Khi thấy mình đang đứng giữa một đám thanh niên trẻ, toàn sinh viên đại học đang kéo đến lối vào Nhà Gương, tôi cố gắng thoát ra khỏi dòng người. Nhưng bọn họ đẩy tôi lên phía trước và chẳng mấy chốc tôi đã bước vào hội trường toàn là gương.
Spencer từng kể với tôi về mê cung tiêu tốn đến $20,000 để xây dựng này. Phía sau vách ngăn là tiếng mấy cậu sinh viên rú lên vì đi nhầm đường. Không khí đặc quánh như kem trứng sữa. Dường như tôi không thể nào chạy thoát; đi đến đâu tôi cũng bắt gặp hình bóng mình.
Cái nóng hầm hập sau gáy. Tôi dựa vào một tấm gương, đặt tay lên bụng nơi con tôi đang làm tổ. Tôi sờ lên má, lên xương hàm. Lẽ nào tôi trông kinh dị thế này sao?
Lướt tay theo từng tấm gương, tôi bước theo hình ảnh phản chiếu từ tấm gương này qua tấm gương khác… rồi tôi nhìn thấy một gương mặt khác. Mắt đen, tóc đen, cái miệng quên mất phải cười như thế nào. Chúng tôi đứng cách nhau vài tấc, đủ để chạm vào nhau. Tôi và người đàn ông cứ nhìn tôi suốt vở kịch. Chẳng ai trong chúng tôi thở nổi.
Ôi, nóng quá. Đó là điều cuối cùng tôi nhớ được trước khi mọi thứ trở nên tối sầm.
Mọi cặp vợ chồng bình thường có nghĩa vụ
phải sinh đủ số con để giữ vững quỹ gene tốt
có từ lâu đời của bang Vermont.
— Hội đồng ủy ban Đời sống Vermont,
Ủy ban Nhân tố con người, mục “Con người ở Vermont”,
trong tập báo cáo Nông thôn Vermont:
Chương trình hướng đến Tương lai, năm 1931
“Bình tĩnh nào, Cissy.”
Giọng nói của Spencer vọng lại từ xa. Khi ánh mắt nhìn rõ hơn, tôi nhìn quanh tìm Nhà Gương, khán đài hay quầy bán đậu phộng tẩm muối nhưng thay vào đó lại thấy một chiếc bát kiểu cổ và bình nước đặt trên tủ, chân giường mạ vàng của hai vợ chồng. Mảnh khăn ướt đắp trên trán đang nhỏ nước xuống tóc, thấm vào gối.
Anh ấy nắm tay tôi, khiến tôi nhớ đến thời còn bé hay nắm tay cha băng qua phố Nhà thờ. Tôi kết hôn với Spencer lúc mười bảy tuổi; anh chính là người lớn thứ hai đảm bảo an toàn cho tôi. Khi nằm nghiêng người với cái bụng bầu to tướng, tôi chợt nhận ra mình chưa bao giờ có cơ hội được trưởng thành.
“Em thấy khá hơn chút nào không?” Spencer hỏi, cười dịu dàng đến mức khiến lòng tôi tan chảy.
Tôi yêu anh ấy. Mùi hương toát ra từ mái tóc anh ấy và cánh mũi cao đỡ lấy cặp kính; những cơ bắp thon dài mà bạn không tưởng tượng sẽ thấy sau lớp áo khoác và áo sơ mi phẳng lì. Tôi thích cách thỉnh thoảng anh ấy nhìn tôi với ánh mắt yêu chiều đến mức không đong đếm được. Tôi ước chúng tôi gặp nhau trên con phố đông người ở New York City, hoặc dưới mái hiên nhà hàng xóm tại Iowa, hoặc trên chuyến tàu vượt đại tây dương - bất kỳ tình huống nào cũng được, chỉ cần khiến quan hệ của tôi và Spencer tách biệt với quan hệ của anh với cha tôi.
Anh đặt tay lên bụng tôi, và tôi nhắm mắt. Thật khó để không nghĩ đến Ủy ban Nhân tố Con người nơi Spencer đang làm việc. Ủy ban vẫn luôn khuyến khích việc cẩn thận chọn lựa vợ chồng. Nhưng tôi được chọn vì là con gái của Harry Beaumont chứ không phải vì là chính mình.
Tôi tự hỏi Spencer cảm thấy thế nào sau khi quyết định một cách đầy tính toán như vậy nhưng kết quả lại chẳng ra gì.
“Làm sao em lại ở đây?” tôi hỏi.
“Em ngất đi tại buổi triển lãm.”
“Thời tiết nóng bức…”
“Nghỉ ngơi đi nào, Cissy.”
Tôi cảm thấy khỏe. Tôi muốn gào lên như thế dù sự thật không phải vậy. Hồi còn bé, rất nhiều lần tôi đã trèo lên mái nhà của một căn nhà, đứng dang tay và hét ầm lên để cả thị trấn Comtosook nghe thấy. Chẳng phải vì tôi có chuyện gì quan trọng cần nói, mà là vì cha cứ muốn tôi giữ im lặng.
Tôi thấy tính cách này như một làn khói đen chảy xen lẫn vào máu rồi bùng phát những lúc mình không mong muốn nhất. Giống như hiện giờ, lúc Spencer cứ quẩn quanh chăm bẵm tôi quá mức. Vì tôi hút thuốc. Vì chiều nay chạy đến túp lều của bà thầy bói. Hay tối qua khi tôi cắt tay.
Đôi khi tôi tự hỏi không biết liệu tính nết này có phải thừa hưởng từ mẹ hay không?
“Anh sẽ để Ruby vào chăm sóc em.” Spencer hôn lên trán tôi. “Em sẽ khỏe thôi.”
Nếu Spencer đã nói vậy thì chắc là đúng rồi.
Ruby lấp ló trước cửa phòng, đợi gọi thì mới vào. Cô hầu gái của vợ chồng tôi mới có mười bốn tuổi, tuổi thì gần nhưng em ấy và tôi khác xa nhau. Không phải vì em ấy là dân Canada gốc Pháp hay tôi lớn tuổi hơn. Khi Ruby cho rằng không có ai nhìn thấy, em ấy sẽ nhảy múa giữa những tấm vải trắng treo trên dây phơi - xoay tròn, lắc eo vui vẻ. Còn tôi, tôi chưa bao giờ quên là bất kỳ lúc nào cũng sẽ có ai đó đang nhìn chừng tôi.
Ruby chạy vào với một bưu kiện bọc giấy màu nâu. “Cô Pike,” cô ấy nói, “xem xem cái gì được gửi đến này.”
Cô bé đặt bưu kiện xuống bên cạnh tôi và cố gắng lờ đi vết thương trên cổ tay tôi nhưng thất bại. Dĩ nhiên là Ruby biết chuyện gì đã xảy ra. Cô bé đã cầm một bát nước ấm giúp Spencer lúc anh ấy làm sạch và băng bó vết thương. Cô ấy cũng dự phần giữ bí mật.
Ruby tháo dây buộc và mở bưu kiện ra. Trong đó là một đôi giày Sears, đặt hàng qua công ty Roebuck. Đôi giày giống y như đôi mà Spencer đã tháo khỏi chân tôi. Đôi giày này lớn hơn mấy đôi tôi đang mang một số nên chắc sẽ không chật lắm. Liếc qua mé giường, tôi nhìn đôi giày Ruby đang mang. “Em mang giày cỡ số sáu đúng không?”
“Vâng thưa cô chủ.”
“Em muốn lấy giày này mang không? Tôi nghĩ sinh xong chân cũng không bé lại đâu.” Ruby ôm đôi giày của tôi trong tay như báu vật. “Chị gái cũng thường để lại đồ cũ cho em.”
“Em có chị gái sao?” Làm sao sống chung với cô bé này suốt một năm mà giờ tôi mới biết chuyện này?
“Chị ấy mất rồi. Bệnh bạch hầu.” Ruby tất bật mang ra mấy thứ đồ đạc còn trong hộp. Một đám áo len, tất và áo con nhỏ xíu với đủ tông màu trắng bày ra khắp giường, đúng là một đống áo quần tí hon sợ là đến búp bê còn không mặc vừa, huống gì là một đứa bé.
“Ôi,” Ruby trầm trồ, nhón tay nhấc lên cái mũ đính ren. “Cô đã từng thấy thứ gì bé xíu như thế này chưa?”
Ruby trông chờ đứa bé này còn hơn tôi. Không phải vì tôi không mong chờ em bé chào đời - chỉ là chẳng ai hiểu được tôi sẽ không sống sót sau khi sinh con. Spencer dạy dỗ tôi rất tốt; khiếm khuyết này thuộc về gene của tôi. Nếu tôi tự sát bất thành thì ngày con chào đời cũng chính là ngày tôi ra đi.
Spence đã đưa cho tôi xem rất nhiều tài liệu khoa học chứng minh điều ngược lại; anh dắt tôi đến khám tại những bác sĩ tốt nhất. Tôi gật đầu, tôi cười, thỉnh thoảng tôi còn lắng nghe. Nhưng trong đầu tôi vẫn vạch ra kế hoạch tự sát. Vậy mà lúc cảm thấy bàn chân bé bỏng của con mình quẫy đạp trong bụng, tôi nhận ra mình đã thua cuộc.
“Ôi đừng khóc, cô Pike,” Ruby nhẹ giọng khuyên trong khi tôi vẫn chưa kịp nhận ra mình đang khóc. “Em gọi giáo sư nhé?”
“Đừng,” tôi kéo chăn lau nước mắt. ‘“Không sao, tôi khỏe. Chỉ thấy mệt thôi. Thực sự đấy.”
Đêm qua tôi nghĩ nếu cắt sâu thêm tí nữa chắc sẽ thấy được xương tủy và cả tận nơi sâu thẳm khiến mình đau đớn. Lúc băng vết thương ở cổ tay, Spencer bảo tôi phải nghĩ đến đứa bé. Dù sao tôi chỉ còn hai tháng nữa là đến lúc sinh con. Anh ấy không hiểu được rằng tôi chính là đang suy nghĩ cho đứa bé. Tôi đang cố gắng san sẻ với con mình gánh nặng đeo bám tôi suốt cả đời: cảm giác của đứa con khi biết nó là là nguyên nhân khiến mẹ nó phải chết.
Tôi biết hành động của tôi không theo logic vì tự làm hại mình cũng gián tiếp khiến đứa bé gặp nguy hiểm. Nhưng chẳng hiểu vì sao lúc tôi ngồi một mình trong đêm tối với con dao, lý trí chưa bao giờ chiến thắng. Tôi đã thử tâm sự với Spencer rất nhiều lần. Anh ấy chỉ bảo, “Nhưng anh yêu em mà,” cứ như chỉ cần lời nói đó đủ giữ tôi yên ổn sống tiếp.
Lúc này, khi Ruby ở bên cạnh, tôi cố gắng tìm câu chữ để giải thích vấn đề nan giải này. “Em đã bao giờ đi xuyên qua một căn phòng đông người và cảm thấy cô đơn đến mức không dám tiến thêm bước nữa?”
Cô bé chần chừ rồi chậm rãi gật đầu. Tôi ngẩng đầu lên nhìn vào cô bé và tự hỏi có phải nó chẳng hề non nớt như tôi nghĩ. “Cô Pike,” Ruby thì thào một cách rụt rè. “Chúng ta có thể giả vờ như hai chị em.”
Ruby cô hầu gái, và tôi, vợ của một trong những người đàn ông sáng giá nhất Burlington. Tôi đáp lại, “Cứ vậy đi.”
ĐỊNH LUẬT DI TRUYỀN:
Giáo sư H. F. Perkins
Bài giảng, cùng hội thảo và báo cáo chuyên đề về nguyên lý cơ bản của ngành phôi thai học, nền tảng khoa học của cơ chế di truyền, nguyên lý thí nghiệm sinh sản, và thuyết ưu sinh, áp dụng thực tiễn của di truyền đối với nhân loại. Sách giáo khoa:
Khóa luận về Sự tiến hóa, Di truyền học và Thuyết ưu sinh của tác giả Newman.
— Bản tin Đại học Vermont, năm 1923-24
Suốt nhiều năm qua tôi vẫn luôn ngưỡng mộ Harry Houdini. Tôi đã tìm đọc tất cả những cuốn tiểu sử được viết sau khi ông qua đời năm 1926; tôi còn cất một quyển sổ lưu giữ những bài báo kể về những kỳ công của ông. Sự ngưỡng mộ không phải vì những lý do hiển nhiên, như chuyện cũng như ông, tôi hiểu về những giềng mối khiến người ta gắn bó với một nơi chốn nào đó, hoặc cũng như ông, có khi tôi những mong được biến mất. Không phải vậy, điều khiến tôi quan tâm nơi Houdini chính là sự ám ảnh của ông với thế giới những linh hồn.
Tôi đã kể rằng Houdini cũng mồ côi mẹ chưa nhỉ?
Cuốn sách mới mà tôi đang đọc thuật lại cuộc chiến dai dẳng giữa Houdini và Margery, bà đồng ở Boston. Trong những buổi gọi hồn người chết, giọng nói của bà đồng sẽ phát ra từng nhiều phía trong căn phòng, chuông bắt hồn rung lên, cái loa bay qua bay lại trên bàn trong khi những người khác nắm tay bà ta. Houdini tin rằng bà ta chỉ là kẻ lừa bịp nên đã xây một căn phòng chống gian lận và thách thức bà ta thực hiện lễ gọi hồn trong căn phòng đó. Thế nhưng trong buổi cầu hồn, một cây thước gấp đã được tìm thấy dưới chân bà đồng. Bà ta và Houdini đều cho rằng đối phương đã bí mật dàn dựng. Cuối cùng Houdini qua đời mà vẫn chưa vạch trần được bà ta, ông thề rằng nếu có ma hiện về từ thế giới bên kia thì người đó chính là ông.
Mặc dù lễ cầu hồn vẫn được tổ chức vào dịp lễ Halloween nhưng đã năm năm rồi mà ông vẫn chưa quay về.
Tôi nghĩ về Houdini thế này: nếu ông ấy không muốn liên lạc với người mẹ quá cố bằng mọi giá thì đã không gay gắt với Margery đến thế. Ông ấy phản đối thế giới ma quỷ vì sợ rằng đó là thế giới đã vào thì chẳng thể ra.
Tôi cảm thấy mình đúng là ngu ngốc khi trốn trong tủ quần áo. Đây là chỗ riêng tư nhất, tôi kéo theo một cái bàn nhỏ, vì tủ khá chật nên nó ép chặt vào bụng tôi. Tôi có đọc về trò bàn xoay, một phương pháp gọi hồn. Lẽ ra nên có vài người ngồi đây nắm tay nhau, nhưng tôi chắc chắn không thể nào kể với Spencer về việc mình đang làm, và tôi cũng không biết Ruby sẽ phản ứng thế nào nữa.
Làn vải lụa của mấy chiếc đầm trong tủ cọ vào vai tôi. Tôi đặt tay lên bàn gỗ và nhắm mắt. “Mẹ ơi?” tôi thì thầm.
Đột nhiên một bàn tay chạm vào hông tôi. Tôi nhảy dựng và nhận ra đứa bé đang cố sức quẫy đạp. “Suỵt, ngoan nào. Mẹ con mình đang cố nói chuyện với bà ngoại đấy.”
Nếu tìm thấy mẹ, nếu mở được một cánh cửa… vậy thì có thể sau khi chết đi, tôi sẽ tìm được đường quay lại.
Tôi hít một hơi sâu để tập trung tư tưởng. Tôi tập trung hết năng lượng lên cái bàn. “Mẹ ơi, nếu mẹ nghe được thì hãy cho con biết.”
Cái bàn nằm dưới tay tôi vẫn im thin thít. Nhưng tôi nghe thấy tiếng cửa cót két và kịp mở mắt ra khi tay nắm cửa tủ mở ra. Luồng sáng mạnh xuất hiện, ngày càng tỏa rộng, làm nổi lên hình hài một người phụ nữ.
“Trời đất ơi, cô Pike,” Ruby thắc mắc, “cô làm cái quái gì ở đây vậy?”
Tim tôi đập mạnh đến mức mãi một lúc sau tôi mới đáp lại. Tôi giả vờ như chuyện ngồi trong tủ quần áo là hết sức bình thường và hỏi: “Em cần gì sao, Ruby?”
“Bữa trưa với giáo sư… cô sẽ bỏ lỡ bữa trưa nếu không nhanh chân lên.”
Bữa trưa của tôi… tôi đã quên béng đi mất. Vào mùa hè, Spencer và tôi thường hẹn tại sân trường đại học sau giờ giảng sáng thứ Tư của anh ấy cho lớp nghiên cứu sinh. Chúng tôi sẽ ngồi dưới hàng cây sồi và tâm sự với nhau đủ mọi thứ quan trọng như nghiên cứu của Spencer, những sinh viên ưu tú nhất của anh ấy, tên cho con trai.
Ruby đã sắp xếp một cái giỏ đựng nho, thịt nguội, bánh vừng, món nui kiểu salad. “Cảm ơn em nhé,” tôi vừa nói vừa liếc mắt nhìn vào tủ quần áo trước khi đóng cửa lại.
Hôm nay Spencer đi bộ đi làm - nhà cách trường đại học ba dặm - và để lại xe ô-tô cho tôi. Một chiếc Packard Twin 6 với động cơ 12 xy-lanh. Nó là niềm vui và tự hào của anh ấy. Chiếc xe có cửa tự sát, được đặt tên như vậy là vì nó mở ngược, xe đang chạy mà không cài chặt thì người ngồi xe có cơ ngã lăn ra đường.
Tôi đã từng nghĩ đến chuyện đó.
Bài giảng của Spencer được tổ chức trong một lớp học nhỏ có mùi dầu hạt lanh và mùi triết học. Ngay trước bục giảng, Spencer đứng thẳng, tay áo xắn lên vì nóng. Những hình vẽ mô phỏng lát cắt hộp sọ được chiếu lên màn hình sau lưng anh. “Hãy chú ý quan sát điểm khác biệt giữa kiểu hộp sọ dài và hộp sọ ngắn của người Negorid,” Spencer nói. “Xương hàm nhô ra, mũi tẹt và hình thái giống với loài linh trưởng… tất cả đều là dấu hiệu của một giống nòi đang suy thoái.”
Một cánh tay giơ lên. “Bọn họ sống sơ khai đến mức nào?” một sinh viên thắc mắc.
“Cực kỳ sơ khai.” Spencer đáp, “Cứ hình dung họ giống như trẻ con, thích màu sắc sặc sỡ và có hình thành tình hữu nghị ở mức cơ bản.” Anh liếc mắt lên đồng hồ treo trên tường và nhìn qua tôi, ánh mắt sáng lên. “Tuần sau chúng ta sẽ khám phá sơ bộ cách phân loại người thành năm chủng tộc khác nhau,” anh hứa hẹn khi cả lớp gom sách vở và rời đi. Spencer vừa cười vừa bước xuống lối đi đến chỗ tôi. “Anh biết lấy gì bù đắp cho vinh hạnh này đây?”
“Hôm nay là thứ Tư,” tôi nhắc anh. “Bữa trưa của chúng mình.” Tôi xòe ra giỏ thức ăn giấu sau lưng từ nãy giờ.
Spencer khẽ nhíu mày. “Chán thật, Cissy à, Harry Perkins yêu cầu anh gặp ông ta trưa nay. Anh sợ là mình không kịp thời gian để ăn trưa.”
“Không sao ạ,” tôi đáp lại Spencer.
“Đúng là vợ ngoan của anh.”
“Spencer?” tôi gọi với theo sau lưng anh. “Em chờ anh nhé?” Nhưng anh không nghe thấy tiếng tôi gọi, hoặc anh cố ý phớt lờ. Thở dài, tôi đành đặt giỏ thức ăn xuống và tiến đến trước bục giảng. Gót giày bốt tôi mang gõ lóc cóc trên sàn, khi đến gần màn hình chiếu, thân người tôi đổ bóng tròn vo như củ hành. Tôi giơ tay lên tạo bóng một con chó sói, rồi giả vờ như nó đang tru lên và nhảy nhót dọc theo hình mẫu hộp sọ ngắn.
“Cô Pike?”
Bị bắt quả tang, tôi xoay người lại và nhìn thấy Abigail Alcott đang trố mắt nhìn. Abigail là một nhân viên xã hội hai mươi mấy tuổi, mắt to tròn, hiện đang làm ở Sở Phúc Lợi Xã Hội. Bộ trang phục công sở với váy màu xanh hải quân và áo sơ mi trắng khiến cô ấy trông sắc sảo lạ lùng. Gần đây cô ấy thường xuyên gặp gỡ với Spencer để trao đổi về những hồ sơ chương trình đang khảo sát. Công việc của cô ấy là theo dõi đánh giá những gia tộc suy tàn nào đang phục hồi, và những gia tộc nào sẽ hưởng lợi từ đạo luật triệt sản mới ban hành.
“Chào cô, Abigail,” tôi chào hỏi một cách lịch sự nhất vì dù sao cô ấy cũng lớn hơn tôi hai tuổi, lại có học vị hẳn hoi, không như tôi, mới xong hai năm trung cấp.
“Giáo sư có ở đây không?” Cô ấy liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Chúng tôi có lịch hẹn phải đến Waterbury chiều này.”
Vậy nên tôi không phải là người duy nhất mà Spencer thất hẹn. Tôi tự hỏi bọn họ có kế hoạch gì ở Bệnh viện Tâm thần Liên bang. Tôi tưởng tượng cảnh cô ấy đi cạnh chồng mình, trao cho anh ấy bó hoa ngôn ngữ dệt từ những đoạn đối thoại khoa học với chủ đề hấp dẫn đến mức Spencer không thể cưỡng lại được. Xét trên phương diện này, tôi vẫn luôn là người ngoài cuộc vì chẳng biết gì về thuyết ưu sinh như chồng hay cha mình. Nếu phải ngồi vào bàn ăn chung với họ, tôi sẽ phải nói gì để vừa thú vị, vừa khiến bọn họ công nhận, thay vì cứ coi tôi như không khí nhỉ?
Tâm tính muốn nổi loạn lại sôi sục trong lòng tôi. Tôi lại quay về là cô bé lúc mười tuổi, trèo lên mái nhà và hét thật to vào đám công dân lương thiện ở Comtosook. “Anh ấy không nói với cô sao?”
“Nói với tôi chuyện gì cơ?”
“Về cuộc hẹn với Giáo sư Perkins ấy mà. Spencer chắc là định để lại lời nhắn cho cô… nhưng chắc anh ấy bận rộn quá, cô biết đấy…”
“Cô Pike,” Abigail cắt ngang lời tôi, “lời nhắn nào cơ?”
“Lời nhắn rằng tôi sẽ thay anh ấy đến Waterbury.”
Abigail nhìn chằm chằm vào tôi, lịch sự chôn chặt những lời xét nét trong lòng: rằng tôi đâu có được đào tạo đàng hoàng cho công tác an sinh xã hội; rằng dù được sinh ra trong một gia đình toàn là học giả thì tôi cũng chưa chắc đã hiểu về thuyết ưu sinh. Ánh mắt cô ấy dừng lại trên bụng tôi. Tôi nói thêm, “Spencer tin chắc chuyến đi sẽ an toàn.”
Câu chốt hạ đã hiệu quả: Abigail thà chặt cánh tay phải còn hơn dám hoài nghi nhận định của Spencer. Môi cô ấy mím lại, ánh mắt dò xét tôi rồi khẽ gật đầu, “Vậy thì đi thôi.”
Vermont cần xác định tất cả các trường hợp bệnh tâm thần trong phạm vi toàn bang thông qua chiến dịch kiểm tra tâm lý đối với tất cả trẻ vị thành niên khuyết tật hoặc có tiền án hình sự.
— Asa R. Gifford, “Báo cáo của Chủ Tịch”,
trích Báo cáo thường niên thứ hai của Hội bảo trợ trẻ em, năm 1921
Bệnh viện Tâm thần Vermont được xây dựng tại thành phố Waterbury vào năm 1890 để giảm tải cho cơ sở tại Brattleboro. Lúc tôi mười ba tuổi, bác sĩ Stanley, nhân viên giám sát bệnh viện có ghé qua nhà ăn tối, sau khi ông đứng ra ủng hộ Đạo luật Triệt Sản năm 1927 vốn không được thông qua. Tôi nhớ như in vệt mồ hôi in trên cổ áo, việc ông ta ghét ăn cải xoăn, và cái kiểu ông cứ đứng sát rạt người tôi khi nói chuyện.
“Có lẽ cô cho rằng nhóm người hiện diện đông đảo nhất ở Waterbury là dòng họ nhà Huntington với bệnh tâm thần mang tính di truyền,” Abigail thao thao bất tuyệt khi chúng tôi đi ra từ bãi đậu xe. Lúc này chắc cô ấy đang tính giảng cho tôi những gì tôi chưa biết trước buổi gặp này. Đúng là một cô nàng liến thoắng, nhưng cũng khá thân thiện. “Nhưng không phải vậy, ở Waterbury còn có nhiều Cướp Biển và Dân Du Mục nữa.”
Lúc này thì chúng tôi đã đến cổng trước của Tòa nhà A, khu mới xây dành cho bệnh nhân nữ.
Abigail quay sang phía tôi với ánh mắt lóe sáng. “Cô cảm thấy như thế nào khi thức giấc và bên cạnh cô là người đàn ông với… tầm nhìn cỡ đó nhỉ?” Vừa thốt ra câu hỏi đó, mặt cô ấy đã ửng đỏ như màu gạch xây.
Một hồi ức lóe lên: Tôi đến Văn phòng Khảo sát Ưu sinh tại phố Nhà Thờ để báo với Spencer rằng chúng tôi sắp có đứa con đầu lòng. Tôi mở cửa ra và bắt gặp anh ấy với Abigail đang cười rũ rượi vì câu nói đùa nào đó. Cô ta đang ngồi cạnh mép bàn làm việc của Spencer, tay còn đặt trên cánh tay của anh ấy. “Cissy!” anh lớn tiếng gọi tôi và mỉm cười, không biết vì thấy tôi đến hay vì cô ta đang ở đó.
Đột nhiên cánh cổng tòa nhà bật mở. Chúng tôi bị hút vào trong như lỡ bước vào vòng xoáy địa ngục. Mấy cô y tá đội mũ trắng gấp nếp thẳng tắp như sếu giấy kiểu Nhật Bản đi lại lặng lẽ, chẳng buồn để ý đến cô bệnh nhân đang sụt sùi cạnh quầy văn thư. Lại có một cô gái trần truồng chạy dọc hành lang với mái tóc ướt đẫm. Một cô gái bẩn thỉu tầm tuổi Ruby ngồi trên băng ghế với cái áo có đai khóa vào chấn song bằng gỗ sau lưng. Dưới băng ghế là một vũng nhớp nháp; tôi nghĩ chắc là nước tiểu.
“Cô Alcott!” Bác sĩ Stanley tiến đến trong chiếc áo choàng trắng tinh. Tôi tự hỏi ông ta làm sao giữ được áo quần sạch sẽ đến thế trong môi trường thế này. Ông ta quay sang nhìn tôi. “Tôi không nghĩ rằng tôi đã có cơ hội gặp nhau…”
“Có đấy ạ,” tôi đáp, duỗi tay ra. “Cecelia Beaumont Pike.”
“Cissy sao? Cissy! Cháu cao lên nhiều đấy.” Ông ta liếc qua cái bụng bầu. “Còn tăng cả bề ngang nữa. Chúc mừng cháu nhé.”
“Cảm ơn bác.”
“Hôm nay cô Pike sẽ thay thế giáo sư,” Abigail giải thích.
Bác sĩ Stanley giấu vẻ ngạc nhiên một cách tài tình. “Tuyệt vời. Nào, bây giờ thì hãy đi theo tôi, chúng ta có thể trò chuyện kỹ hơn trong văn phòng của tôi.” Ông ta đi dọc hành lang để dẫn đường. Abigail nối gót theo sau. Tôi cứ đứng đó, không dứt khỏi ánh nhìn trống rỗng của cô gái ngồi trên băng ghế.
“Cô Pike!” Abigail gọi giật và tôi đành phải quay đi.
Bác sĩ Stanley nhận ra cơ hội gây ấn tượng với Spencer thông qua tôi nên đã cố ý đi đường vòng. Bệnh nhân tụ tập dọc hành lang đông đến mức chúng tôi phải lách người đi hàng một. “Cơ quan lập pháp vừa thông qua quyết định xây dựng thêm một tòa nhà mới cho bệnh nhân nữ bị tâm thần nặng. Các cô cũng thấy bệnh viện này quá tải như thế nào rồi đấy.”
“Tổng số bệnh nhân là bao nhiêu?” Abigail thắc mắc.
“Chín trăm chín mươi bảy” Stanley đáp lời nhưng lại nhìn thấy y tá áp tải một cô gái đang quắc mắt giận dữ lên cầu thang, nhân viên điều dưỡng theo sau, xách một vali nhỏ. “Giờ thì là chín trăm chín mươi tám.”
Ông bác sĩ chỉ về phía hành lang dẫn đến một căn phòng rộng rãi tràn ngập ánh nắng nhưng quá tải vì bệnh nhân. “Tôi tin con người là phải chăm chỉ lao động. Vô công rồi nghề sẽ khiến đầu óc trì trệ hẳn đi.” Dọc theo dãy bàn là mấy người phụ nữ ngồi đan giỏ mây hay lắp ráp kẹp phơi quần áo. Bọn họ ngước lên nhìn tôi, một quý cô giàu có trong bộ đầm bầu thời thượng, không nhận ra tôi cũng có khác gì họ đâu.
“Chúng tôi bán sản phẩm thủ công,” Stanley nói với vẻ tự hào. “Lợi nhuận thu được sẽ phục vụ cho nhu cầu giải trí của bệnh nhân.”
Dưới đáy mấy sản phẩm đó có đóng dấu không? Kiểu như “miễn cưỡng làm ra bởi một người không cách nào thích nghi với thực tế của cuộc sống”.
Giám thị lại dẫn chúng tôi đi dọc hành lang, đến một cánh cửa khóa kín. “Không may là không phải bệnh nhân nào cũng hợp tác,” bác sĩ Stanley cất giọng, khẽ liếc mắt sang phía tôi. “Tôi không chắc phu nhân đang mang bầu thì có nên…”
“Tôi ổn mà.” Để chứng minh cho lời nói đó, tôi tự tay mở cửa.
Và rồi tôi ước giá như mình chưa bao giờ làm vậy.
Hai gã đàn ông lực lưỡng chia ra đứng hai bên bồn nước, hai tay giữ chặt vai một bệnh nhân nữ trần truồng. Trước khi cô ta bị nhấn đầu xuống, tôi chỉ kịp nhìn thấy đôi môi tím tái và bầu ngực rúm ró như trái cây héo quắt trên giàn. Một dòng nước chảy chậm đều đều từ vòi nước gắn phía trên đầu cô ấy. Ngay bên cạnh cô ấy là một người khác nằm úp mặt trên bàn với tấm vải quấn quanh thân trên. Y tá cứ thế dùng vòi bơm nước thẳng vào trực tràng của bệnh nhân. “Thủy liệu pháp và súc ruột là hai biện pháp rất hiệu quả với bệnh nhân hung hãn,” Stanley giải thích. “Nhưng tôi dẫn mọi người đến đây để thấy một thứ khác. Thưa quý cô, tôi xin vinh dự được giới thiệu bệnh nhân đầu tiên tự nguyện triệt sản tại bệnh viện của chúng tôi. Cô ấy ở ngay đây này” Ông ta dẫn chúng tôi đến cuối căn phòng. “Hai buồng trứng đã được cắt bỏ khi cô ấy nhập viện điều trị rối loạn đường ruột. Cô ấy xuất thân từ một trong mười gia đình có tiền sử bệnh trầm cảm và tâm thần được theo dõi trong cuộc khảo sát. Bác sĩ Kastler và tôi đã ký tên xác nhận.”
Chúng tôi dừng lại trước giường bệnh nhân đang run lập cập. Đứng cạnh giường bệnh là một bác sĩ giám thị trong áo choàng trắng giống như bác sĩ Stanley. Ông bác sĩ tâm thần vẫn hào hứng khoa tay, “Bây giờ thì cô ta ổn rồi. Mấy thứ tào lao này chẳng liên quan gì đến liệu trình chữa trị hết.” Bác sĩ giám thị túm lấy cái chăn vừa lạnh vừa ướt quấn quanh người bệnh, khiến bệnh nhân chẳng khác gì xác ướp với hàm răng va vào nhau lập cập. “Chăn ướt thường rất hiệu nghiệm với mấy bệnh nhân cứng đầu,” bác sĩ Stanley nói thêm.
Tôi buột miệng hỏi, “Cô ta đã làm gì?”
“Tự tử không thành. Lần thứ ba rồi đấy.”
Lúc này tôi mới nhận ra hai cổ tay được băng bó thò ra khỏi tấm chăn. Tạ ơn Chúa, may mắn thật. Nếu tôi không có cha là ngài Harry Beaumont, không có chồng là giáo sư Spencer Pike, liệu tôi có phải nằm trên cái giường này không nhỉ?
“Tôi… xin phép chút…” Bước nhanh qua bác sĩ Stanley, tôi lao ra khỏi phòng và rảo bước dọc hành lang bệnh viện. Tôi vội vã lách qua dãy phòng bệnh đông nghẹt và chỗ cô bé bị trói vào băng ghế, rồi đâm sầm vào một bệnh nhân ngay góc cua khuất tầm nhìn. Đó là một cô gái nhỏ thó đen đúa với mấy bím tóc bết dầu. Vết thương chi chít từ vai đến cổ tay. Cô ta thì thào, “Bọn họ cũng sẽ cướp đứa bé trong bụng cô thôi.”
Tôi lập tức đưa tay bảo vệ bụng. Ngay trước khi cô ta kịp chạm vào, tôi đã quay lưng rảo bước thật nhanh qua hành lang mê cung dẫn ra cổng bệnh viện. Lúc đẩy cửa bước ra khỏi nơi đó, tôi chỉ biết ngồi bệt xuống bậc thang lát đá thở hổn hển. Một lúc sau, tôi xắn tay áo lên, tháo bỏ lớp băng trên cổ tay. Vết cắt thật sâu trên da vẫn chưa khép miệng.
Spencer nói rất đúng, có vài phụ nữ trời sinh ra để phục vụ công tác xã hội, nhưng tôi không nằm trong số đó. Tôi sinh ra chỉ để làm mẹ của con anh ấy, vậy mà còn chưa làm nên trò trống gì.
Mười lăm phút sau, Abigail tìm thấy tôi trong tình trạng đó. Tôi xấu hổ về hành động của mình đến mức chẳng dám nhìn thẳng vào mắt cô ấy. Cô ấy ngồi xuống cạnh tôi. Tôi biết cô ấy nhận ra vết sẹo nhưng chẳng hề đưa ra một lời nhận xét nào. “Lần đầu tiên nhìn thấy phương pháp điều trị ở đây,” Abigail thú nhận, “tôi đã quay về văn phòng nộp đơn từ chức và nói với sếp rằng mình không còn nhiệt huyết với công tác an sinh xã hội. Cô có biết sếp trả lời như thế nào không? Đó chính là lý do vì sao tôi phải dấn thân vào công tác an sinh xã hội. Để đến một ngày nào đó, càng lúc càng ít người phải chịu đựng đau khổ.”
Những lời ấy hoàn toàn hợp lý. Đó đúng là định nghĩa tóm tắt cho an sinh xã hội - làm những việc trong khả năng hiện tại để thay đổi thế giới ngày mai. Nhưng tôi vẫn tự hỏi trước khi trói nghiến bệnh nhân lại, người ta đã bao giờ hỏi vì sao cô ấy chẳng hề muốn tiếp tục sống. Phải chăng nguyên nhân sâu xa có liên quan đến việc cô ấy không thể nào sinh con nữa?
Tôi đặc biệt thắc mắc vì sao Abigail và bác sĩ Stanley tán thành phương án triệt sản mà không cho phép cô ấy tự kết liễu mạng sống. Đằng nào thì cũng đạt mục đích không để cô ấy duy trì nòi giống. Vậy sao không để cô ấy được lựa chọn?
“Thế là cô đã không từ bỏ,” tôi đáp.
Abigail lắc đầu. “Cô cũng không được từ bỏ đâu đấy,” cô ta nói, không hề ác ý, kéo tay áo xuống giúp tôi. “‘Ngày mai, tám giờ sáng. Gặp tôi ở văn phòng trên Phố Nhà Thờ.”
Hỏi: Vì sao phải triệt sản?
Đáp: Để loại bỏ những cá nhân có khả năng di truyền những tính trạng gây hại cho nhân loại. Để giảm thiểu trợ cấp từ thiện. Để giảm thuế. Để hạn chế nghèo đói và đau đớn. Để làm tiếp chọn lọc tự nhiên nhưng bằng phương pháp nhân văn hơn. Triệt sản không phải để trừng phạt. Triệt sản là để bảo vệ.
— Hiệp hội Ưu sinh Mỹ
Hỏi đáp về Thuyết Ưu Sinh, năm 1926
Lúc lái xe về nhà, mặt trời đã xuống thấp đến mức rọi thẳng vào mắt tôi, phủ lên đám cúc vàng nhị đen giống như dãy vương miện mạ vàng khảm dọc con đường Otter Creek Pass. Tôi mong chờ đến ngày hôm sau đến mức suýt nữa thì phát điên.
Tôi đậu xe rồi leo lên mấy bậc thang dẫn đến cổng vòm. Lúc bước đến cửa nhà, tôi đá phải thứ gì đó vừa nhỏ vừa nhẹ. Nhìn xuống chân, tôi bắt gặp một cái giỏ chỉ bé bằng nắm tay. Cái giỏ được viền tinh tế, sợi mây đan chỉn chu và chắc chắn, khác hẳn với thành phẩm của mấy bệnh nhân mà tôi đã thấy hôm nay.
Đút món đồ ấy vào túi váy đầm, tôi bước vào nhà. “Cissy?” giọng nói của Spencer hút lấy tôi như nam châm. Tôi thấy anh ấy đang đứng ngay cửa phòng làm việc, trên tay là ly rượu scotch. “Anh vội vàng từ đại học về nhà để xin lỗi cô vợ đáng yêu vì đã bỏ rơi cô ấy vào bữa trưa, nhưng cô ấy lại đi đâu mất và bỏ anh bơ vơ.”
“Chỉ một lúc thôi mà,” tôi đáp, hôn nhẹ lên má anh.
“Chuyện gì làm em vui thế?”
Tôi bắt gặp Ruby đang đứng như trời trồng dỏng tai nghe trộm từ đằng xa. “Hội Bảo trợ Trẻ Em,” tôi nói dối cho qua. “Em vừa có một cuộc họp ấy mà.”
Mắt Ruby trợn lên. Nếu có cuộc họp thì tôi đã nói cho cô bé biết rồi; trước giờ vẫn thế. Lúc nào tôi cũng báo cho cô bé biết giờ giấc và hoạt động của tôi, phòng khi Spencer hỏi đến.
“Có tin tốt gì sao?” anh hỏi.
“Tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp.”
Ruby theo chân tôi đến phòng ngủ và bắt đầu giúp tôi cởi khuy váy đầm sau lưng, mấy chỗ mà tôi chẳng với tay đến. “Chị biết em đang nghĩ gì,” tôi cất tiếng nói. Nhưng cô bé chỉ im lặng giúp tôi kéo váy qua khỏi đầu và đưa đến một chiếc váy mỏng cotton dành cho bữa tối. Cô bé giúp tôi thắt dây váy rồi loay hoay treo chiếc váy rực rỡ kia lên. Cái giỏ mây rớt ra khỏi túi áo.
Tôi nhặt cái giỏ lên, ném vào ngăn kéo tủ cạnh giường. Tôi biết cô bé tò mò về vật này nhưng vẫn tỏ ra thản nhiên. Tôi chẳng hề nợ cô bé lời giải thích nào hết - về cái giỏ hay về chuyện tôi đã đi đâu chiều nay. Lúc này, tôi hào hứng vì cuộc hẹn ngày mai đến mức chẳng hề lo lắng chuyện gì sẽ xảy ra nếu Spencer biết được chuyện hôm nay.
Tôi nhận ra Ruby đang mang đôi giày tôi tặng. Cô bé leo vào tủ quần áo đã được dọn dẹp sau buổi cầu hồn sáng nay để treo chiếc váy lên rồi tiến đến cạnh giường. Đưa tay xuống gối, cô bé rút ra đưa tôi cuốn sách cô đã giấu hộ.
Đó là cách cô bé nói rằng Spencer không biết được bí mật của tôi. Ánh mắt chúng tôi gặp nhau. “Cảm ơn nhé,” tôi lí nhí.
“Cô Pike, cô có tin vào chuyện đó không?” Ruby thì thào trong ghê sợ. “Cô nghĩ người ta có thể quay về từ cõi chết không?”
Tôi siết chặt tay cô bé và gật đầu. Dù sao tôi chính là bằng chứng sống.
Trong quá trình nghiên cứu phả hệ những gia đình
vốn là gánh nặng của tiểu bang và thị trấn, chúng tôi
nhận thấy nhiều gia đình có tổ tiên là người Pháp
hoặc Ấn Độ, đôi khi có lai với Mọi Đen.
— H. F. Perkins, “Dự án số I”, Hồ sơ ESV,
“Tổng hợp dự án - Bản cũ,” năm 1926
Oxbury một thị trấn nhỏ nằm bên bờ Hồ Champlain. Trong hồ sơ của Abigail Alcott, thị trấn được đổi tên thành Fleetville nhằm bảo vệ danh tính của người vô tội. Abigail càu nhàu dọc đường đến khu cắm trại của dân Gypsy, “Tra cứu sơ đồ phả hệ của dòng họ này chẳng khác gì điều tra dòng giống của bọn ếch trên sông.”
Sau khi xác định được gia đình cần điều tra, nhân viên thực địa sẽ rà soát hết hồ sơ tại thành phố Waterbury, Nhà tù Liên bang, Trường dạy nghề Vermont và trường công dành cho người thiểu năng tại vùng Brandon để nhận