← Quay lại trang sách

Chương 6 Ngày 21 tháng 8 năm 1932

Trích từ bản tin trưng bày tại Hội nghị Ưu sinh quốc tế lần ba: 31 GIÂY Cứ mỗi 31 giây, người đóng thuế trong bang lại phải chi $100 cho việc chăm sóc người tâm thần, thiểu năng, động kinh, mù và điếc tại các Bệnh viện Liên bang. Chỉ tính trong năm 1927.

Giữa đêm khuya, bụng dưới tôi quặn lên. Cơn đau khiến tôi thức giấc, nhìn sang Spencer đang ngủ ngon lành tít ở mép giường bên kia. Tôi cố gắng phớt lờ những chiếc răng đang cắn xé mình từ bên trong.

Nhưng có gì đó rách toác, tôi sửng sốt đến mức không khóc nổi. Tôi nhìn máu thấm qua tà trước của áo ngủ, cái răng nanh sắc như dao. Cái mõm sần sùi lộ ra giữa phần da bị xé mở; sau đó là cái chân với móng vuốt, cái bụng của loài bò sát rồi cái đuôi. Con cá sấu cuộn người giữa hai chân tôi, ngóc đầu lên và ngoác mõm cười.

“Cô Pike…”

Giọng ai đó đang đứng nhìn tôi bị nuốt chửng. Hàm răng cá sấu cắm phập vào đùi tôi.

“Cô Pike… Lia!”

Lúc này, chính cái tên bí mật của tôi khiến con cá sấu biến mất. Khi chớp mắt choàng tỉnh, tôi thấy Ruby mặc áo ngủ đứng trước mặt mình, hai chúng tôi đang đứng giữa đại sảnh khách sạn Plaza. Đôi mắt cô bé thâm quầng như tô chì sáp. “Cô phải quay lại giường ngủ thôi.”

Tôi lại mộng du nữa rồi. Ruby phải chịu trách nhiệm trông chừng tôi trong suốt chuyến đi này. Cô bé dẫn tôi lên căn phòng xa hoa, mở cửa phòng, cố không nhìn đến Spencer, người đang ngủ ngon lành trên giường. “Xa nhà thì có ai ngủ ngon đâu,” Ruby thì thầm một lý do giúp cho tôi. Cô bé vén chăn lên, giúp tôi an vị trên giường như thể cô mới là người chị lớn.

Tôi nuốt khan, để mắt làm quen với bóng tối.

Tôi rút chân lên thật cao, phòng khi con cá sấu còn bơi lội dưới lớp chăn.

Trích từ chương trình

Hội nghị Ưu Sinh Quốc Tế Lần Ba:

I. Giới thiệu và chào đón: Tiến sĩ H. F. Perkins,

Chủ tịch Hiệp hội Ưu Sinh Mỹ

II. “Kiểm tra sinh học đối với dân nhập cư”:

Giáo sư Jap Van Tysediik

III. “Phòng chống sự sụp đổ của nền văn minh phuơng Tây”:

Tiến sĩ Roland Osterbrand

IV. “Loại bỏ dân châu Mỹ bản địa:

Một nghiên cứu về cải thiện tố chất loài người”:

Tiến sĩ Spencer A. Pike

Hội nghị ưu Sinh Quốc Tế Lần Ba nhóm họp tại Bảo Tàng Lịch Sử Tự Nhiên New York, và tôi nghiễm nhiên được mời đến tham dự. Nhưng dù cha tôi đến tham gia hội nghị, chồng tôi là diễn giả danh dự, tôi hoàn toàn có thể bị bỏ lại ở nhà nếu không có vụ tự cắt cổ tay và chuyện lộn xộn lần trước với Abigail Alcott.

Lúc này chúng tôi ngồi trong phòng nghỉ riêng dành cho các vị tai to mặt lớn có mặt tại hội nghị. Spencer đang chuẩn bị sẵn sàng cho bài diễn thuyết còn cha tôi đang đọc tờ giới thiệu chương trình. Ruby ngồi im phăng phắc tại một góc, môi mấp máy theo từng mũi đan.

Chúng tôi là những người duy nhất còn ngồi lại đây; những người khác đều đã trình bày xong phần diễn thuyết hoặc đi xuống hàng ghế thính giả. Tính đến lúc này thì chúng tôi đã gặp được người tiên phong cho phong trào triệt sản bang Michigan, một nhà sinh lý học gốc Cuba đã chúc phúc cho tôi và nói rằng nhiệm vụ của những người phụ nữ tài năng như tôi chính là phải sinh thêm vài đứa nữa để cứu giúp thế giới. Tay bác sĩ người New York nồng nặc mùi tỏi đã dành suốt một tiếng đồng hồ tranh luận cùng Spencer về chi phí chăm sóc cho con cái của gia đình thiểu năng (2 triệu đô-la) so với cái giá cho một lần triệt sản cho bố mẹ (150 đô-la).

Vừa ngồi lột vỏ cam, tôi đưa mắt nhìn qua cửa sổ, ngó đám khách mời hối hả trèo lên từng bậc thềm đá. Cái mũ của người đàn ông bị gió thổi bay đến tay gã ăn xin. Đứa bé ngồi trên bậc thềm cao vùng vằng đá chân lộ cả quần lót hồng như cánh hoa. Và còn có cha và chồng tôi đang tranh cãi về việc Spencer sẽ nói gì trong lúc diễn thuyết.

“Con chắc về ý đó đâu, cha à,” Spencer rối rít đi vòng vòng bên tấm hình minh họa trải trên sàn trông chẳng khác gì cái lưỡi dài ngoằng của loài chó săn. “Chúng ta đã bỏ qua vụ sơ đồ phả hệ từ năm ngoái rồi mà.”

Chiếc giày của Spencer khẽ miết dọc sơ đồ phả hệ. Sơ đồ giống như một con bạch tuộc khổng lồ miêu tả cây phả hệ với một đám xúc tu chồng chéo lằng nhằng như quan hệ giữa các gia đình đang suy thoái. Ký hiệu chi chít trên sơ đồ, còn chú thích được viết dọc mép hình. Chấm tròn màu đen thể hiện Bệnh Tâm Thần. Chấm tròn không tô đen thể hiện Chứng Thiểu Năng. Hình vuông màu đen dành cho mấy đứa bị gửi đến trại cải tạo, hình vuông màu trắng dành cho đám tội phạm tình dục. Sơ đồ phả hệ chẳng khác gì một con báo đốm.

Vào một bữa tối lúc trước, cha tôi và Spencer chợt nhận ra ba thành viên có tiếng nói quyết định trong hội đồng lập pháp lại có tên trong cây phả hệ của mấy gia đình suy thoái nhất tiểu bang. Ngay cả ngài thị trưởng lâm thời cũng có liên quan đến một gia đình khét tiếng. Thế là hai người quyết định hủy bỏ việc vận dụng sơ đồ phả hệ để thúc đẩy phong trào ưu sinh tại bang Vermont. Bọn họ thống nhất phương án khuyến khích đám thị dân lâu năm ở Vermont sinh con, trong khi thành lập một ban khác - Hội đồng Người Khuyết Tật - trực thuộc ủy Ban Người Quyết Tật để vận động ngành lập pháp ban hành quy định ngăn cấm người khuyết tật kết hôn và sinh con đẻ cái. Bằng cách này, tranh luận trái chiều liên quan đến Đạo luật Triệt Sản sẽ không có gì liên quan trực tiếp đến bối cảnh của ba quan chức nói trên.

Đêm hôm đó món súp rùa trên bàn ăn khiến tôi buồn nôn đến mức phải bỏ bữa giữa chừng.

“Chúng ta đã làm việc cần làm, Spencer, để lôi kéo cộng đồng ủng hộ việc đạo luật được thông qua. Chuyện đến đây là xong. Đến lúc phải quay lại với vấn để cốt lõi rồi.” Cha tiến lại gần tôi, lấy một múi cam và thảy vào miệng. Ông ngoắc ngoắc ngón tay trước mặt Spencer. “Con ngửi thấy gì không? Con chẳng thấy múi cam đâu… nhưng con biết nó đã từng tồn lại mà. Spencer, con không cần phải đề cập đến đám sơ đồ phả hệ. Muốn đốt nó cũng được. Nhưng ai trong khán phòng mà không nhớ đến chuyện chúng ta khảo sát mấy gia đình đó năm năm trước. Con không nói thì mọi người cũng biết.” Sau đó ông bước ra khỏi phòng.

Spencer nhìn xuống sơ đồ. “Em nghĩ sao?” anh ấy hỏi, khiến tôi suýt nữa thì ngã nhào khỏi ghế.

“Tôi nghĩ gì sao?” Tôi sửng sốt vì được hỏi ý kiến đến mức không nói nên lời. Tôi nhớ đến những người Gypsy có con bị chính quyền bắt đi.

Nghĩ đến Sói Xám cứ tưởng tôi đến phá hoại cuộc sống của ông, chỉ vì màu da tôi trắng.

Danh tiếng, một khi đã thành lập thì luôn đi trước người ta.

Tôi đáp, “Em nghĩ chuyện hỏng thì cũng đã hỏng rồi.” Cửa bật mở, người ta gọi tên Spencer và một tràng vỗ tay vang lên.

Hồi còn bé, tôi từng gặp qua một trận động đất lúc cha dắt tôi đến tham dự một hội nghị nhỏ của những chuyên gia ưu sinh tại San Francisco. Lúc hai cha con đứng trên hành lang chờ động đất qua đi, tôi chợt nhận ra thứ cứng ngắc như mặt đất cũng có lúc chẳng hề vững chắc tí nào.

Tiếng năm trăm người đồng loạt vỗ tay nghe như tiếng mặt đất vỡ vụn dưới chân. Spencer cuộn sơ đồ, kẹp dưới cánh tay và hùng dũng tiến vào khán phòng trong tiếng vỗ tay vang rền như sấm. “Thưa các quý bà và quý ông,” anh bắt đầu bài diễn thuyết, tôi chẳng buồn nghe anh sẽ nói gì tiếp theo.

Tôi đứng dậy, rời khỏi căn phòng, bước thật nhanh xuống lầu và tiến vào gian phòng triển lãm. Một đám trẻ con và bảo mẫu trông thật tí hon trước mô hình khủng long brontosaurus. Cái đầu khủng long quá cao, trông bé đến mức khiến tôi không nhận nổi đâu là hốc mắt của nó. Tôi cho là bộ não của nó chắc chẳng lớn hơn nắm tay mình. Bên kia hành lang mới là đại diện cho trí tuệ, chính là loài tyrannosaurus với hàm răng đáng gờm.

Vậy mà theo lời Spencer, cả hai con khủng long, dù là loài ăn cỏ thấp kém hay giống săn mồi tàn ác, vẫn tuyệt chủng vì biến đổi khí hậu. Rốt cuộc, chuyện ai thông minh hơn, khỏe mạnh hơn hay có khả năng sinh sản hiệu quả hơn cũng chẳng có ý nghĩa gì. Thời tiết xấu, một sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát, vẫn quyết định tất cả.

Tiếng khán giả vỗ tay rầm rầm vọng lại từ trên lầu.

Tôi quay lại nhìn Ruby vẫn đang theo sau tôi chỉ vài bước và mở lời. “Đi dạo xung quanh một tí nào.”

Rosabelle - đáp - kể - khấn,

đáp - nhìn - kể - khấn, đáp - kể.

— Thần chú của Harry Houdini và vợ,

dựa trên một kịch vui cũ về thuật đọc tâm,

nhằm chứng minh ông ta có thể trở về từ cõi chết.

Thành phố New York vào mùa hạ chẳng khác gì địa ngục là mấy. Mùi mồ hôi hòa quyện với mùi mằn mặn toát ra từ mấy thùng dưa muối ven đường, hàng trăm người chen chúc, mấy cậu nhóc bán báo không ngừng la hét đủ loại bi kịch nóng hổi để kiếm mấy xu lẻ, xe taxi tỏa ra làn khói lởn vởn như những bóng ma. Nơi đây đúng là thế giới âm phủ, và bất kỳ ai ở nơi này cũng sẵn sàng chỉ cho bạn lối thoát. Trên thực tế, người chỉ đường cho tôi là một cô bé sống trong túp lều bạt. Nó cuộn tờ đôda tôi đưa rồi giắt sau tai như điếu thuốc, sau đó dắt tôi và Ruby đến một khu giàu có cách đó ba dãy nhà. Phía trên chuông cửa là một tấm bảng nhỏ khắc dòng chữ: HEDDA BARTH, NHÀ NGOẠI CẢM.

Người phụ nữ ra mở cửa còn thấp nhỏ hơn Ruby, mái tóc dài trắng toát dài quá vai. “Xin chào các quý cô,” Hedda Barth, Bà đồng của Thế Kỷ lên tiếng. “Tôi có thể giúp gì cho các cô nào?”

Nếu bà ta có khả năng ngoại cảm thì ắt bà ta phải biết rồi chứ. Tôi suýt quay người bước xuống thềm thì cảm thấy Ruby huých nhẹ từ đằng sau. Cô bé thì thào khe khẽ, “Đã đến đây rồi thì chúng ta cứ thử xem sao.”

Bà Hedda đã xuất hiện trên vài tờ báo. Bà ta chuyên đấu khẩu với Houdini và đã từng gọi hồn ông chú của ngài Thị Trưởng Walker. Cơ hội để tôi được đến đây thêm lần nữa để gặp bà ta là gần như bằng không. Nên tôi đánh bạo, “Chúng tôi gọi hồn, với sự giúp đỡ của bà.”

“Nhưng cô còn không hẹn trước.”

“Quả vậy.” Tôi hất cằm lên như cách cha tôi vẫn làm để khiến bà ta cho rằng đó là lỗi của chính mình chứ không phải do tôi. Và như dự đoán, bà ta nép sang một bên để chúng tôi vào nhà.

Bà dẫn hai chúng tôi lên một cầu thang hẹp và giơ tay mở cửa. Tôi không biết mình có phải là người duy nhất nhận ra bà ấy chưa hề chạm tay vào thì tay nắm đã tự động xoay mở.

Chờ chúng tôi trong bóng tối là chiếc bàn hình lục giác. Hedda nói, “Phải tốn một ít chi phí đấy nhé.”

Tôi đáp lại, “Tiền bạc không thành vấn đề.”

Vậy là Hedda bảo chúng tôi ngồi xuống và nắm tay nhau. Bà ta nhìn chằm chằm vào mặt tôi và Ruby rồi phán, “Cả hai cô đều từng trải qua đau thương.”

Tôi đã từng đọc một bài báo chỉ trích phong trào ngoại cảm. Bài báo viết về một nhà khoa học ở Paris mời người qua đường thử đoán tử vi miễn phí. Chín mươi bốn phần trăm người thử cho rằng kết quả tử vi là chính xác. Nhưng trên thực tế, tất cả mọi người đều nhận lời đoán tử vi như nhau: đều trích từ tử vi của một trong những tên sát nhân hàng loạt khét tiếng nhất nước Pháp.

Chúng ta tin những gì mình muốn tin; chúng ta nghe những gì mình muốn nghe. Ai chẳng đoán được điều Hedda Barth đã phán như đúng rồi; vậy Ruby và tôi đến đây là vì cái gì chứ?

Nhưng đột nhiên cái bàn rung lên bần bật, hai chân bàn nhấc cao khỏi mặt đất như con ngựa đực chồm lên. Đôi mắt Hedda trợn ngược, miệng thì há hốc. Tôi liếc qua Ruby như muốn hỏi chuyện này có bình thường không.

“Ma poule.” Giọng nói ngọng nghịu cao hơn hẳn giọng Hedda. Tim tôi chực chờ nhảy ra khỏi lồng ngực còn đứa bé trong bụng thì vùng vằng đạp chân.

“Simone đấy à?” Ruby thì thào trong cơn hoảng hốt. Lúc này tôi mới nhận ra mình đã nghe thấy ngữ điệu này trước đây. Ruby chỉ để lộ chất giọng của dân Canada gốc Pháp đó trong lúc vô ý hoặc quá mệt mỏi.

“Cherie à, nói với bạn em là không cần phải sợ hãi. Bọn chị ở đây đều đang chờ cô ấy.”

“Đó là chị gái em,” Ruby gào lên. “Là chị Simone. Chị ấy là người duy nhất gọi em bằng cái biệt danh đó - ma poule. Gà con của chị.”

Là người chị đã mất vì bệnh bạch hầu. Nhưng thông điệp của chị ấy lại không mấy rõ ràng. “Chờ” có thể mang nhiều ý nghĩa. Bọn họ đang nói đến mẹ tôi? Hay đang chờ tôi đến với họ?

Đột nhiên đứa bé trong bụng trở nên im lặng. Cánh tay tôi buông thõng; bao lo âu như tan biến.

Đây có lẽ là cảm giác người ta cảm thấy trước khi ô tô đâm sầm vào gốc cây. Đây chắc là thứ ánh sáng trắng toát mà người ta hay nói đến; giây phút yên tĩnh đón nhận mọi thứ.

Đây chính là cảm giác mẹ tôi đã từng có.

Có quá nhiều câu hỏi trong đầu tôi - Tôi có được thấy mặt con trai, hay đó là chỉ là mơ tưởng hão huyền? Con trai có nhớ tôi không? Tôi có thấy đau đớn không? Tôi có biết trước chuyện này sẽ xảy ra vào lúc nào không? Nhưng lúc này, chỉ cần biết những gì bản năng mách bảo vẫn luôn đúng cũng đủ lắm rồi.

Bà Hedda đang thoát khỏi cơn lên đồng. Nước bọt chảy dài bên mép trái trông như dấu phẩy. Tôi đặt tờ mười đôla lên bàn, định bụng sẽ nói với Spencer rằng mình đã làm mất tiền. “Hãy quay lại nhé,” bà ta lên tiếng, và tôi nhận ra bà ta ám chỉ tôi hãy quay lại khi đã đến thế giới bên kia.

Một cuộc khảo sát ưu sinh toàn diện cần phải đạt được hai thứ.

Thứ nhất là những người khiếm khuyết tại tiểu bang,

thứ hai là lý do vì sao họ tồn tại.

— Trích từ lá thư gửi ngày 8 tháng Mười năm 1925,

từ H. H. Laughlin, Giám đốc Vàn Phòng Tư Liệu Ưu Sinh,

gửi đến Harriet Abbott.

Văn phòng bác sĩ Craigh tọa lạc tại Đại Lộ Công Viên. Tôi vừa cài nút vừa liếc nhìn con đường chẳng có vẻ gì là xứng với cái tên. Đám cây xanh chẳng đủ mang lại cảm giác công viên; nơi này vẫn là trung tâm thành phố, nơi vỉa hè xi măng áp đảo màu xanh. Tay bác sĩ sản khoa lấy khăn lau tay. Sau khi kiểm tra, gã ta vẫn cố tình lẩn tránh ánh mắt của tôi. Gã ta cất giọng cộc cằn, “Bà Pike, xin mời bà đến văn phòng sau khi sắp xếp xong mọi việc.”

Lúc quay lại bảo tàng, Spencer vẫn đang cao hứng vì những lời tán dương của đồng nghiệp, tôi không nói với anh ấy về việc Ruby và tôi đã đi đâu. Tôi còn chẳng buồn phản đối chuyện anh ấy đã lên lịch hẹn với bác sĩ giỏi nhất vùng Đông Bắc chuyên đối phó với những trường hợp thai khó. Lý do rất đơn giản: quyền quyết định chẳng còn nằm trong tay tôi. Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra, vậy nên cần gì phải đấu tranh.

Hồi còn bé, cha từng mời một bác sĩ pháp y đến nhà ăn tối. Tôi còn nhớ như in cảnh ông bác sĩ hớn hở cắm phập dao vào phần ức gà để mô tả tình trạng chết đuối. Ông ta còn dùng dao chỉ vào xương ức và nói rằng điều kinh khủng nhất chính là khoảnh khắc phổi như muốn nổ tung. Rồi người ta chìm xuống, cố thở nhưng hít vào toàn là nước. Sau đó là yên nghỉ.

Tôi coi như trầm mình lần thứ ba. Tôi sẽ nằm ngửa mặt trên đáy cát mịn và ngắm nhìn ánh hoàng hôn qua tầng nước biển.

“Bà Pike,” cô y tá thò đầu qua cửa gọi tên tôi. “Bọn họ đang chờ bà đấy.”

“Được rồi.” Lúc quay người lại, tôi đã kịp đeo lên mặt nụ cười giấu sẵn.

Cô y tá dắt tôi đi dọc hành lang. “Trông bà thật rạng rỡ.”

Có lẽ nét rạng rỡ lúc mang thai chẳng hề đến từ niềm vui được làm mẹ. Có lẽ hai mẹ con đều hiểu chúng tôi sẽ chết.

Văn phòng bác sĩ Craigh độc một tông màu trầm, trông vừa gai góc vừa nam tính không khác gì một khoang khách mù mịt khói xì-gà trên tàu biển. “Gomez đêm qua toàn thắng,” Craigh hớn hở lẩm bẩm. “Năm nay đúng là cuộc đua gay cấn giữa Lefty, Ruth và Gherig mà.”

Spencer vốn chẳng ưa gì môn bóng bầu dục, anh đáp khiến tôi ngạc nhiên. “Tôi cho là đội Athletics cũng khá đấy chứ.”

“Gehrig kết thúc mùa năm ngoái với 184 cú ăn điểm trực tiếp đấy nhé. Anh không thể nào tin được đâu… ồ, chào bà Pike. Mời bà ngồi xuống đây.” Ông bác sĩ chỉ tay vào cái ghế bên cạnh chồng tôi.

Spencer nắm tay tôi, và hai vợ chồng đều tỏ ra e dè như trẻ con bị mời đến gặp thầy hiệu trưởng. “Tin tốt nhé,” Craigh thông báo. “Thai nhi của hai người vẫn khỏe mạnh.”

Spencer thả lỏng và quay sang bảo. “Em thấy chưa, Cissy?”

“Tôi hoàn toàn thông cảm cho lo lắng của hai người vì tiền sử sinh nở của mẹ cô. Nhưng dựa trên hồ sơ y tế của cô mà chồng cô gửi đến trước đây, biến chứng lúc sinh của mẹ cô là vì vóc dáng gầy yếu và kích cỡ của đứa bé. Cô nhìn khá nhỏ con, cô Pike ạ. Nhưng hông cô đúng là rất thuận để sinh con đấy. May thay, hẳn là cô được di truyền từ cha mình.”

Tôi nhớ lại vóc dáng cao kều thanh mảnh của cha, chẳng giống tôi tí nào. Nhưng tôi vẫn mỉm cười đáp lại.

“Không những bà sẽ hạ sinh đứa bé an toàn,” bác sĩ Craigh tiếp tục thao thao bất tuyệt, “mà tôi còn mong đợi bà mang đứa bé đến đấy thăm tôi đấy.”

Tôi tự hỏi Spencer đã trả trước cho gã bác sĩ này bao nhiêu tiền để nói dối như thế.

Chúng tôi đứng dậy và bắt tay tạm biệt. Spencer dìu tôi xuống ba tầng cầu thang. “Craigh được coi là chuyên gia đấy,” anh ấy nói. “Mọi người, tất cả mọi người, ai cũng biết đến tên tuổi ông ta. Em cứ nói đến chuyện sinh nở, trẻ con là sẽ có người nhắc đến tên Craigh. Vậy nên anh thật yên tâm sau những lời nói của ông ấy.”

Anh ấy hôn phớt lên mặt tôi, tay choàng qua vòng eo đẫy đà, tay còn lại đẩy cửa bước ra ngoài, để hai chúng tôi bị cuộc sống phồn hoa đô thị nuốt chửng một lần nữa. Mặt trời gay gắt đến mức tôi chẳng thấy được gì. Tôi đưa tay lên che nắng, để mặc Spencer dắt mình đi.

Chúng tôi đều biết chứng thiểu năng là gì,

và chúng tôi cho rằng tất cả những ai không có khả năng

thích ứng với môi trường xung quanh, tuân thủ

những quy tắc của xã hội và cư xử một cách bình thường

đều là người bị thiểu năng.

— Henry Goddard, Bệnh thiểu năng:

Nguyên nhân và Hậu quả, năm 1914.

Cuối cùng tôi cũng muốn làm chuyện đó ở một nơi thân quen. Tôi nghĩ đến chuyện đó suốt chặng đường về nhà trên tàu hỏa, thậm chí có phần hưng phấn. “Con biết mà,” Spencer nói với cha tôi lúc nhà tôi ngồi trong khoang riêng trên tàu. “Con biết chuyến đi này sẽ tốt cho cô ấy.”

Chúng tôi về đến nhà lúc gần nửa đêm. Đám ễnh ương kêu lên ồm ộp chào đón khi chúng tôi bước ra khỏi xe Parkard, một con mèo hoang với đôi mắt vàng rực đứng trên mái kho lạnh cứ nhìn tôi chòng chọc. Khi Spencer mở cửa nhà, tiếng mở cửa nghe y hệt tiếng niêm phong bị xé.

“Ruby, đến sáng rồi hẵng dọn dẹp đồ đạc,” Spencer ra lệnh khi dìu tôi lên tầng hai. “Em yêu, em cũng vậy. Em nên lên giường ngủ nào.”

“Em phải tắm đã chứ,” tôi càu nhàu. “Chỉ vài phút thư giãn riêng tư thôi mà.”

Ruby chầm chậm xoay người lại. Miệng cô bé mấp máy câu hỏi mà tôi không cho phép bật ra. “Em nghe giáo sư nói gì rồi đấy,” tôi gằn giọng. Sau mấy tuần chị chị em em thân mật, mấy từ lạnh lùng bén nhọn này là cách đuổi cô bé đi chỗ khác. Cô bé lật đật chạy lên phòng ngủ, chui vào chăn vắt óc suy nghĩ chuyện gì đã xảy ra giữa hai chúng tôi.

Tôi lấy áo ngủ và áo choàng được gấp gọn gàng từ tủ quần áo rồi đứng chờ trước cửa phòng tắm cho đến khi Spencer ló đầu ra ngoài. “Anh vặn nước vào bồn tắm rồi đấy,” anh lên tiếng, gượng cười nhìn vào bụng tôi. “Em chắc là nếu bước vào rồi thì em tự mình bước ra nổi chứ?”

Tôi cố gắng lưu giữ hình ảnh nụ cười và bờ vai rộng của anh ấy. Cảm giác yêu thương cứ thế nghẹn ngào trong cổ họng, khiến tôi không nói nên lời. Mãi một lúc sau, tôi rốt cuộc mới lên tiếng: “Đừng lo cho em”. Ý tôi là mãi mãi cũng không cần lo nữa.

Căn nhà trở lại trạng thái yên tĩnh như gã đàn ông to béo đang ngủ say: đầu tiên là mấy bức tường và sàn phòng khẽ rung lên, trần nhà phát ra tiếng thở dài, cuối cùng là tiếng không gian phập phồng, sau đó tất cả mọi thứ trở nên im lìm. Phòng tắm tràn ngập hơi nước; tôi cởi áo quần, để mặc hơi nước xâm nhập khắp cơ thể. Tim đập nhanh tưởng như nhìn thấu được qua làn da, nhưng khi tôi nhìn vào gương thì tấm gương đã bị hơi nước che mờ. Thay vì vuốt sạch hơi nước đọng, tôi đặt tay lên đó, để lại một dấu tay. Ngón tay tôi nguệch ngoạc từng chữ cái: C…Ứ…U…. Tôi tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra nếu người ta tìm thấy tôi, lặng im và trắng bệch như bức tượng cẩm thạch. Tôi nghĩ đến những lời tốt đẹp người ta nói về mình; ánh mắt họ nhìn tôi đầy thương tiếc.

Một giờ sáng, nước trong bồn tắm đã lạnh. Hai chân tôi co lên hai bên bụng; cổ tay đặt trên đầu gối.

Lưỡi dao cạo râu của Spencer đang nằm lẳng lặng bên mép bồn tắm.

Tôi dè dặt cầm nó lên, vạch một đường trên cánh tay. Máu trào ra. Tôi lấy tay chấm lấy máu rồi vẽ lên môi như người ta vẫn tô son. Máu hơi dinh dính, lại có vị mằn mặn như đồng xu. Rõ ràng nỗi chua cay đã thấm vào tận máu.

Khi vết thương vừa cắt ngừng đau, tôi lại nhấn dao xuống một lần nữa, cách vết thương kia một chút.

Hai đường thẳng song song. Một đường biểu thị sự sống của tôi, đường còn lại là của con trai tôi. Hai vết cắt sẽ giải thoát nó khỏi thân xác tôi, và nó sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Nếu không, chỉ cần con trai rời khỏi cơ thể tôi, nó sẽ lệ thuộc vào người khác - Spencer hoặc cha tôi. Và một ngày nào đó, nó sẽ nhìn tôi bằng ánh mắt giống hai người đó - coi tôi là kiểu người không tài nào hiểu được thứ khoa học mà họ nghiên cứu lâu nay; kiểu người ngây thơ đến mức có thể tin rằng một thứ không đong đếm được như tình yêu lại có sức mạnh ngang thuốc nổ.

Và nếu như có phép màu nào đó, đứa bé này là con gái, chuyện sẽ còn tồi tệ hơn. Tôi sẽ là kẻ thất bại vì Spencer mong muốn một đứa con trai. Không những tôi phải chứng kiến Spencer đối xử với nó giống như với tôi mà tôi còn phải nhìn thấy con gái mắc phải những lỗi lầm giống mẹ nó: đem lòng yêu thương một người đàn ông yêu nó vì những gì nó có, chứ không phải vì nó là ai; kết hôn vì muốn tìm một người bầu bạn nhưng sau đó lại càng thấy cô đơn; sinh một đứa con để rồi nhận ra con bé chẳng thể nào đáp ứng được kỳ vọng của người ta.

Một đường, rồi lại một đường cắt. Máu hòa quyện với nước trong bồn tắm, đỏ chói và ma mị. Cánh tay tôi giờ chẳng khác gì đường ray tàu hỏa. Rốt cuộc tôi cũng lên đường rời đi nơi khác, vì nơi này đã chẳng còn gì dành cho tôi.

Vết cắt cuối cùng, cũng là vết cắt sâu nhất nằm trên cổ tay. Vạch mẫu cho vết cắt này đã có sẵn, một đường gân xanh nhàn nhạt nằm dưới da.

Chỉ cần một nhát dao nữa để cứu lấy đứa bé. Bác sĩ sẽ hoàn tất công việc mà tôi đã bắt đầu bằng cách mổ toang bụng tôi. Rồi bọn họ sẽ dừng tay, vò đầu bứt tai, sửng sốt vì sao trong bụng tôi lại trống rỗng.

Tiếng đập cửa vọng vào tai tôi. Nhưng tôi chẳng còn đủ sức ngẩng đầu dậy. Thân thể cồng kềnh của tôi cứ thế chìm xuống nước.

Cửa phòng tắm bật mở, và Ruby chồm đến bên bồn tắm, hét vào tai tôi rằng hãy cố lên. Cô bé cố gắng giữ lấy tôi khi tôi chẳng còn sức nắm lấy cô bé. Lúc khản giọng gọi Spencer, Ruby hốt hoảng nhưng vẫn cố sức lôi tôi ra khỏi bồn tắm, để tôi nằm trên sàn, ướt đẫm, trần truồng và chảy máu. Spencer chạy đến cửa và lao đến chỗ tôi. “Cissy, ôi Chúa ơi, đừng mà.” Anh quấn khăn quanh cổ tay tôi. Máu thấm qua khăn ngay lập tức, khiến mặt Spencer trắng bệch. Anh ấy lao ra khỏi phòng, không quên quát Ruby: “Ở lại với cô ấy, nghe rõ chưa?” Vọng lại từ xa là tiếng anh ấy gào vào điện thoại với bác sĩ.

Với chút sức lực còn sót lại, tôi kéo áo Ruby và thều thào cầu xin: “Hãy cứu đứa bé.” Nhưng Ruby đang khóc nức nở nên chẳng nghe thấy lời tôi nói. Vậy nên tôi đành dùng cánh tay lành lặn ôm lấy cổ cô bé. Tôi hôn lên môi Ruby để cô bé cảm nhận được sự đau đớn của tôi. “Hãy cứu đứa bé,” tôi thì thào khe khẽ. “Hứa nhé!”

Ruby gật đầu, mắt nhìn chằm chằm vào tôi. “Em hứa.”

“Vậy là được rồi,” tôi đáp và để mặc làn sóng mệt mỏi nhấn chìm mình.

Những quyền lợi của công dân không thể được

đảm bảo toàn diện khi họ bắt buộc phải giúp đỡ

những kẻ coi rẻ pháp luật, coi thường đạo đức,

thiểu năng và có vấn đề về thần kinh.

— H. F. Perkins, Những bài học từ Khảo Sát Ưu Sinh

tại bang Vermont: Báo cáo Thường niên thứ nhất, năm 1927

Mọi thứ đều trắng toát. Từ tay đến vai là lớp băng quấn chặt đến mức khiến tôi cảm nhận được mạch đập dưới da. Tiếng mạch đập như đang nhắc nhở rằng tôi vẫn còn sống dù có chuyện gì xảy ra.

Phòng ngủ nóng hầm hập. Tôi vẫn nhớ cửa sổ đã được dán kín nên chúng tôi phải dùng đến quạt điện. Nhưng lúc này quạt điện đúng là vô dụng, và khi tôi đạp mớ chăn đệm xuống thì nhận ra Spencer và bác sĩ DuBois đang đứng tại cửa phòng. “Joseph,” Spencer lên tiếng, “tôi biết chuyện này sẽ được giữ kín trong bốn bức tường này.”

Bác sĩ DuBois là bác sĩ nổi tiếng nhất thành phố Burlington. Ông ta là người đỡ đẻ lúc tôi sinh ra; và chắc chắn là người đỡ đẻ cho con tôi. “Spencer…”

“Làm ơn đi. Tôi đang năn nỉ với tư cách là một người bạn đấy.”

“Anh biết đấy, cô ấy nên được chăm sóc ở những vùng nông thôn giữa những cánh đồng bạt ngàn và ghế lắc đan bằng liễu gai - không phải như ở bệnh viện Waterbury đâu.”

“Không được. Tôi không thể đối xử với cô ấy như vậy.”

“Với Cissy à? Hay là với chính bản thân anh?” Bác sĩ DuBois lắc đầu ngao ngán. “Spencer, lần này không phải chỉ là chuyện của anh nữa rồi,” ông nói và bước ra ngoài.

Spencer ngồi xuống bên mép giường và nhìn tôi chằm chằm. “Em xin lỗi,” tôi cố thều thào.

“Đúng vậy, em đúng là có lỗi,” anh đáp. Mặc dù phòng ngủ vẫn nóng hầm hập, một cơn ớn lạnh vẫn chạy dọc sống lưng tôi. Một lần nữa, Spencer lại cảm thấy tôi không hoàn hảo.

Hỏi: Chính sách Ưu sinh Là gì?

Đáp: Chính sách Ưu sinh chú trọng vào công tác loại bỏ những yếu tố di truyền không mong muốn khỏi xã hội. Triệt sản, di dân, ban hành Luật pháp ngăn cấm những cá nhân kém chuẩn không được kết hôn và vân vân đều là ví dụ của chính sách Ưu sinh.

— Hiệp Hội Ưu Sinh Mỹ,

Hỏi đáp về Thuyết Ưu Sinh, năm 1926

Spencer trông chừng tôi suốt một tuần rồi mới đi dạy, để tôi ở nhà với Ruby do những nghiên cứu sinh anh ấy đã bắt đầu học kỳ. Anh căn dặn, “Em biết là em có thể gọi cho anh bất kỳ lúc nào mà.”

Ngừng phết bơ lên bánh nướng, tôi ngước mắt lên. “Được rồi.”

“Vợ chồng mình có thể đi ăn kem tối nay, nếu em thích.” Đó là cách Spencer nhắc tôi phải ráng sống đến lúc anh về nhà. “Dạ, cũng được.” Anh ấy trông thật đẹp trai trong bộ vest mỏng, tóc vuốt ngược ra sau và cà vạt ngay ngắn như cán cân công lý. Tôi biết anh ấy đang nhìn chằm chằm vào con dao phết bơ trên tay tôi và ước lượng mức độ sát thương. Tôi liếm sạch lưỡi dao cùn ngay trước mặt Spencer, chỉ để thử phản ứng của anh ấy.

“Anh sẽ gọi Ruby vào,” anh nói rồi biến mất.

Ruby, người vẫn đang cố tình lảng tránh tôi, lê bước vào bếp khi xe ôtô của Spencer nổ máy. Cô bé khẽ gọi, “Cô Pike.”

“Cô Weber chứ.”

“Nếu cô coi em là bạn,” Ruby òa lên nức nở, “cô phải báo trước về chuyện cô định làm chứ.” Ánh mắt cô bé dán chặt lên lớp băng quấn quanh cổ tay tôi.

“Nhưng như thế thì em sẽ không cho phép tôi làm vậy,” tôi âm thầm tự nhủ.

Tôi không cần phải nói tiếp vì một vụ lộn xộn xảy ra bên ngoài. “Đám gấu trúc Mỹ đấy,” Ruby thốt lên, chộp lấy khẩu súng săn luôn để sau cửa bếp phòng hờ mấy chuyện thế này.

“Thế thì chúng nó lên cơn dại rồi. Trời vẫn còn sáng mà.” Tôi lướt qua người Ruby nhặt mấy viên đạn vẫn để trong tô đựng kẹo trên tủ bếp. Chúng tôi bước ra phía sân sau để kiểm tra xung quanh, nhưng chỉ nhìn thấy hai con chuồn chuồn đang bay.

Ruby chống cây súng săn xuống đất và làu bàu. “Nếu có con gì thì chắc nó cũng chạy mất rồi.”

Tôi suýt lên tiếng đồng tình với cô bé thì nhìn thấy cánh cửa dẫn xuống kho lạnh đang hé mở. Đó là một khu nhà phụ được xây từ hồi bà ngoại còn sống, và được mẹ tôi truyền lại. Vào mùa đông, cứ cách vài ngày là người ta lại chuyển băng tảng từ hồ Champlain vào đây, đặt ngay ngắn trên lớp mùn cưa, để dành đập nhỏ chuyển vào thùng đá trong bếp. Spencer vẫn luôn đóng kín cửa cực kỳ cẩn thận. “Nếu muốn pha thêm nước vào rượu scotch thì dùng nước vòi cũng được mà” anh bảo thế.

Tôi giằng lấy khẩu súng từ trong tay Ruby và nói, “Ở yên đây nhé.” Nhưng tất nhiên là cô bé vẫn đi theo tôi. Chúng tôi bước vào trong kho lạnh, dừng lại một chút để làm quen với không gian thiếu ánh sáng. Chỉ có người hay dành thời gian lang thang trong bóng đêm như tôi mới có cảm nhận được có người thứ ba trong hầm. “Đi ra nào,” tôi lớn tiếng kêu lên, cố tỏ vẻ dũng cảm.

Không có gì.

“Tôi bảo là đi ra đây!” Bây giờ tôi đang tưởng tượng đến bọn cướp, tội phạm cưỡng bức, hoặc đám trộm cắp. Không còn gì để mất, tôi chĩa súng bắn vào khối băng gần nhất. Khối băng vỡ toang, Ruby hét lớn và phía sau vai trái tôi, tiếng một người đàn ông gào lên, “Mẹ kiếp!”

Sói Xám bước ra khỏi chỗ nấp, giơ hai tay đầu hàng như trong phim. Gương mặt ông ta vặn vẹo một cách kỳ lạ vì hãnh diện và kinh ngạc.

“Ông đang làm gì ở đây?” Khi đã xong chuyện, tay tôi bắt đầu run lên bần bật. Ruby co rúm lại một chỗ. Tôi trấn an cô bé, “Không sao đâu. Tôi quen ông ta.”

“Cô quen ông ta?” Ruby há hốc miệng.

Có thể là ông ta đến ăn trộm hoặc hành hung tôi. Nếu vậy, ông ấy chẳng phải có thể dễ dàng bám theo tôi vào cái hôm đến thăm làng Gypsy sao. Còn nếu muốn ăn trộm thì lẽ ra ông ta nên đến vào cái ngày cả nhà đi New York chứ. Và chuyện đôi giày da cũng không giải thích được, vì tôi chắc đó là thứ ông ấy muốn tôi thấy.

Hơn tất cả, trong phút giây này, tôi không muốn mình biến thành đúng kiểu người mà ông ta tưởng lầm trong gặp nhau trước đây.

“Sói Xám, đây là Ruby. Ruby, đây là Sói Xám,” tôi giới thiệu bọn họ với nhau giống như chúng tôi là những quý tộc người Anh đang tụ hội nơi tiệc tùng. Tôi thách ai trong hai người có ý kiến đấy.

Ruby lắp bắp trong hơi thở hổn hển, “Em sẽ báo cho giáo sư.”

Tôi chộp lấy tay Ruby và bảo. “Đừng làm vậy.” Hạt mầm tín nhiệm chạy từ lòng bàn tay tôi sang phía cô bé.

Nhưng cô bé đã sống với gia đình cuồng chủ nghĩa ưu sinh được một thời gian dài. Làn da người Canada gốc Pháp của Ruby cũng chẳng sẫm màu như da của người Gypsy. “Cô Pike,” Ruby thì thào, mắt khẽ liếc nhìn Sói Xám. “Ông ấy… ông ấy…”

“Đói bụng đấy mà,” tôi mớm lời. “Em có thể giúp tôi lấy chút thức ăn trong bếp được không?”

Cô bé nuốt lời mình định nói xuống, gật đầu rồi chạy vào nhà. Khi chỉ còn lại hai chúng tôi, Sói Xám chỉ tay vào mớ băng quấn trên tay tôi. “Cô bị thương à.” Tôi gật gù. “Tai nạn sao?”

Đưa mắt nhìn chỗ khác, tôi khẽ lắc đầu.

Ông ta chăm chú nhìn mớ băng gạc, tỏ vẻ bực bội ra mặt. “Tôi mang đến một thứ giúp bảo vệ cô an toàn. Nhưng tôi đoán là mình không đến kịp rồi.”

Sói Xám lôi từ túi quần ra một cái túi da có dây làm bằng da sống. Cái túi phảng phất mùi của nắng hạ và mùi của ông. “Gỗ tần bì, cây độc cần nghiền nhỏ, hoa lan hài vàng. Dành cho mẹ con cô.” Sói Xám đảo mắt qua bụng tôi rồi đeo cái túi lên cổ tôi, tôi ngoan ngoãn khẽ rướn người lại gần. Cái túi khiến da tôi bỏng rát. “Kizi Nd’aib nidali”

“Câu đó nghĩa là gì?”

“Nghĩa là ‘Tôi cũng từng trải qua chuyện đó.’”

Tôi nhìn thẳng vào gương mặt Sói Xám và biết mình tin ông ấy. Người đàn ông này biết cảm giác bị ném vào một nơi có thể giết chết ông ấy, nếu ông ấy không kịp tự kết liễu chính mình. Nó thể hiện qua đôi mắt của ông ấy - đen huyền, sắc màu duy nhất còn lại khi tất cả màu sắc trên thế giới này bị nuốt chửng.

“Làm thế nào để nói ‘cảm ơn’?” tôi hỏi.

“Wliwni”

“Vậy thì Wliwni.” Tôi đưa tay chạm vào họa tiết đính trên túi, một con rùa tinh xảo. “Làm cách nào mà ông tìm được tôi?”

Rốt cuộc ông ấy cũng mỉm cười. “Tất cả mọi người ở thành phố Burlington đều biết chồng cô sống ở đâu.”

“Ông để lại đôi giày da trên bậc cửa cho tôi à?”

“Tôi để chúng cho đứa bé của cô.” Ông ta dựa lưng vào cây cột chống hầm lạnh, mái tóc xõa quá vai.

“Ông không nên đến đây,” tôi nhắc nhở.

“Vì sao không?”

“Spencer không thích chuyện này đâu.”

“Tôi chả thèm đến vì gã ta, Lia,” Sói Xám đáp lại. “Tôi đến vì cô.”

Tôi không biết nên nói gì, nhưng cũng không hề gì, vì có thứ khác khiến ông ấy chú ý - Ruby đang bê một khay bày nước chanh và bánh nướng từ nhà ra. Khi chúng tôi tiến lại gần khay đồ ăn nhẹ, tôi cảm nhận được túi thuốc thảo mộc đung đưa quanh cổ mình. Sói Xám và tôi là hai người duy nhất trên thế gian này biết về chuyện đó. Tôi tự hỏi vì sao và như thế nào mà ông ấy lại gọi tôi là Lia, trong khi tôi chưa từng dùng cái tên này khi giới thiệu bản thân.

Đời sống xã hội của những gia tộc Mỹ lâu đời quyết định phong thái của cộng đồng. Họ chính là những thành viên cốt cán của xã hội, và những luật lệ do họ ban hành chính là những phép tắc mà người khác phải tuân theo.

— Elin Anderson, Công Dân Nước Mỹ:

Một nghiên cứu về sự chia rẽ trong xã hội, năm 1937.

Tiếng dao nĩa lanh canh chạm vào đồ sứ, tiếng ly thủy tinh cụng vào nhau khiến tôi tưởng những thiên thần đang ca hát trên mái nhà. Cha tôi, Spencer và tôi đang ngồi tại bàn có vị trí đẹp nhất để ngắm hoàng hôn tại Câu Lạc Bộ Ethan Allen. Nhìn qua khay hoa hồng xen lẫn sen cạn cắm giữa bàn, tôi thấy cha mình đang tâng bốc phu nhân ngài Allan Sizemore, Trưởng bộ môn Khoa Học. “Còn bao lâu thì đến ngày dự sinh nhỉ?”, Allen mỉm cười hỏi.

Lúc đầu, tôi chưa kịp nhận ra ông ta có ý hỏi về đứa bé. Vợ ông ta đáp lời, “Em cá là vẫn còn lâu. Em còn nhớ rõ lúc gần sinh, mình cảm giác mình béo phĩnh như con bọ chét đeo trên mình chó săn ấy chứ.”

Tôi thích bà Sizemore lúc nào cũng thẳng thắn thế. Bà ta vươn tay qua bàn, vỗ về tay tôi. “Cố lên nhé Cissy. Mọi thứ sẽ xong trước khi cô kịp nhận ra đấy.”

“Xong sao?” Allen cười ngặt nghẽo. “Ý em là bắt đầu mới phải chứ. Vì sao ư, Spencer sẽ bắt đầu ngủ gục lúc đang giảng bài vì phải thay tã suốt cả đêm. Và Harry này, chúng ta cũng nên khắc chức danh Ông ngoại lên cửa văn phòng ông nhỉ.”

Cha tôi hứa hẹn, “Đứa bé này sẽ cực kỳ hoàn hảo. Nó sẽ có trí tuệ của cha nó, nghĩa là sẽ biết khôn ngủ trọn cả đêm. Lại thêm sắc đẹp của mẹ nó - đủ sức quyến rũ cô bảo mẫu kiệt sức nếu nó thức giấc giữa đêm.”

“Bảo mẫu sao?” tôi quay sang thắc mắc với Spencer.

Anh ấy liếc sang cha tôi. “Anh định để em ngạc nhiên thú vị.”

“Nhưng em không cần bảo mẫu.”

Spencer đùa giỡn, “Em yêu, đấy đâu phải cho em.”

Mọi người cùng cười ngặt nghẽo. Tôi xấu hổ nhìn xuống bụng. Tôi cố ý kéo tay áo để lộ băng gạc rồi đưa tay lấy ly rượu, ánh mắt vẫn nhìn vào Spencer.

“Ôi trời, Cecelia… vết thương do cô tự mình gây ra sao?” như tôi mong đợi, bà Sizemore lập tức chú ý.

“Thật ra thì…” tôi vừa cất tiếng thì Spencer ngắt lời.

“Cô ấy làm bỏng tay trên bếp.” Anh ấy nhìn tôi bằng ánh mắt không cho tranh cãi. “Cô ấy thật sự nên cẩn trọng hơn.”

“Con chẳng nói gì với cha,” cha vừa nói vừa nắm lấy tay tôi.

“Không có gì đâu mà,” tôi giật tay ra và vô tình làm đổ ly rượu. Rượu cabernet chảy trên bụng tôi, đỏ chói như máu.

Mọi người lập tức ồ lên kêu người phục vụ. Anh ta bước ra từ căn nhà gỗ với một chồng khăn ăn trắng như tuyết. Gương mặt anh ta vừa rộng vừa ngăm đen khiến tôi nhớ đến Sói Xám. Anh ta bắt đầu dùng khăn lau đùi tôi.

Spencer lập tức nổi điên, “Vì Chúa, bỏ tay mày ra khỏi cô ấy!”

Anh ấy giật lấy khăn và lau phần rượu giúp tôi. Tôi nhẹ giọng trấn an, “Chỉ là một cái váy đầm thôi mà, Spencer.” Và tôi quay sang nói với người phục vụ: “Wliwni.” Cảm ơn nhé.

Ánh mắt người phục vụ và tất cả mọi người ngồi đó đều quay về phía tôi. “Vậy à?” Tôi hỏi người phục vụ, giả vờ như anh ta đã nghe nhầm. “Anh nghĩ mình là ai vậy hả?” Tôi hướng mặt về phía bàn ăn và lên tiếng “Xin phép cho tôi đến phòng vệ sinh.” Lúc rảo bước dọc nhà hàng xa hoa, tôi cảm nhận anh chàng Gypsy đang nhìn theo mình. Tôi ước mình có thể xin lỗi anh ta. Tôi muốn nói với anh ta rằng tôi hiểu: hy vọng xa vời bao nhiêu thì sẽ ngã đau bấy nhiêu.

Số liệu thống kê sơ lược cho thấy bang Vermont là một trong số những nơi có nhiều người khiếm khuyết cả về thể chất và tâm thần nhất. Điều này được cho là vì thành phần dân số có quá nhiều người Canada gốc Pháp.

— H. F. Perkins, Dự án số I, Hồ sơ ESV,

“Dự án - Cũ”, năm 1926

Bằng cách nào đó, Sói Xám luôn biết chọn thời điểm đến. Tôi thấy ông ta đứng dưới hiên nhà khi Spencer đang có tiết giảng và Ruby đã vào thị trấn mua thịt. Ông ta bước ra từ phía sau gốc cây khi tôi thơ thẩn dạo quanh khu rừng lúc chạng vạng. Khi ông ta không xuất hiện, tôi sẽ tìm thấy vài món quà dưới mái hiên: một cái giỏ kết bằng cỏ mật, một chiếc giày đi tuyết tí hon, một bức vẽ hình con ngựa đang tung vó. Khi gặp nhau, tôi tự hỏi sao trước đây chưa từng gặp con người này.

Tôi biết rõ mình không nên khuyến khích chuyện này. Ông ta xuất thân từ thành phần bị xã hội ruồng bỏ, chỉ kết nối bằng sợi chỉ mỏng manh. Còn tôi lại sinh trưởng ngay tại phần lõi vững chắc của cuộn chỉ. Sói Xám có làn da sẫm màu, ít nói và hoàn toàn khác với tôi, đó chính là lý do tôi nên giữ khoảng cách. Nhưng đó cũng là những điều khiến ông ta thu hút tôi.

Đường phố Burlington có đủ loại người - người Ireland, Ý, Gypsy Do Thái - nhưng khi trưởng thành từ một gia đình sống trên Đồi, người ta sẽ học cách đeo đai che mắt như con ngựa kéo xe. Người ta chỉ thấy những người giống mình - phụ nữ với mái tóc dợn sóng, đám trẻ con trong bộ áo có cổ thủy thủ và đàn ông thoang thoảng mùi nước cạo râu. Tôi chưa bao giờ hỏi Sói Xám vì sao vẫn luôn đến tìm tôi, nhưng tôi biết chắc lý do cũng giống như vì sao tôi vẫn đợi ông ta - vì sự mạo hiểm, vì cảm giác kinh ngạc đến giật thót giống như khi ép mũi vào cửa kính thì phát hiện ai đó ở trong cũng đang nhìn chằm chằm vào mình.

Spencer sẽ nói gì nhỉ nếu anh ấy biết tôi cảm thấy tâm hồn mình hòa nhịp với một gã Gypsy vốn chẳng hòa nhập được với xã hội?

Hôm nay tôi chẳng hề mong đợi được gặp Sói Xám, đúng là thất vọng mà. Suốt ngày nay tôi sẽ không ở nhà mà phải đến dự cuộc họp hàng tháng của Câu Lạc Bộ Klifa. Đó là câu lạc bộ phụ nữ cao cấp của thành phố Burlington; tôi nghiễm nhiên là thành viên tại đây nhờ vào vị thế xã hội của mình trong cộng đồng.

Spencer khuyến khích tôi nên dạo phố hôm nay. Chỉ cần mặc áo tay dài để che đi vết thương. Anh ấy còn đề nghị, “Thêm vào đó, một chút âm nhạc giải trí sẽ khiến em thư giãn đấy.”

Vậy nên tôi đã dành hai tiếng đồng hồ ngồi nghe người ta chơi đàn hạc, và thêm nửa tiếng cố không ngủ gật khi một nhà thực vật học thao thao bất tuyệt về những khu vườn ở Ý. Tôi gắng gượng nhờ vào nước chanh và mấy miếng bánh mì kẹp bé bằng ngón tay. Đám phụ nữ thận trọng xoa xoa cái bụng kềnh càng của tôi và trầm trồ điều tôi đã biết rồi - rằng cái thai của tôi là con trai. Tôi lấy tờ chương trình quạt phe phẩy rồi lặng lẽ chuồn xuống cầu thang khi các bà các cô đang bàn tán về sự kiện tháng sau.

Sói Xám đứng dưới mái hiên xanh lục trước ngân hàng, miệng phì phèo thuốc lá, như thể chúng tôi đã hẹn trước. Ông ta sững người khi nhìn thấy tôi trong thị trấn nhưng rồi khẽ nhướn mày và mời tôi một điếu thuốc. Chúng tôi bắt đầu tản bộ. Chẳng ai trong chúng tôi lên tiếng. Không cần phải lên tiếng.

“Câu Lạc Bộ Klifa à,” rốt cuộc ông ấy cũng cất giọng.

“Vâng.”

“Nơi đó thế nào?”

“Tất nhiên là vô cùng xa hoa. Chúng tôi ăn trên đĩa mạ vàng 14-karat và còn tiếp kiến mấy vị vua từ các quốc gia nhỏ thuộc châu Âu. Nếu không thì sao phải kén chọn hội viên như vậy chứ?”

Ông ta phá lên cười. “Chịu thua đấy.” Lúc đến góc phố, ông ta kéo tay tôi, khiến tôi sững người. Dù đã gặp nhau rất nhiều lần, những lần Sói Xám chạm vào tôi đúng là đếm trên đầu ngón tay. Tình bạn này, cuộc trò chuyện thoải mái này là một chuyện, nhưng có những giới hạn mà tôi không thể vượt qua. Ông ta nhận ra vẻ cứng ngắc của tôi nên thả tay ra và bắt chuyện. “Klifa nghĩa là gì vậy?

“Đó là một lỗi đánh vần. Lẽ ra phải là Klifra, nghĩa là người leo núi trong tiếng Iceland.”

“Nghĩa bóng là leo lên địa vị xã hội cao hơn à?”

“Không phải vậy, các bà các cô này đâu cần leo. Bọn họ đã đứng sẵn trên đỉnh rồi.” Tôi nhún vai. “Cái tên hàm chứa điều gì,” tôi nói xong mới sực nhớ Sói Xám chắc chẳng biết về câu thoại trứ danh đó của Shakespeare.

“Đấy là câu hỏi cho Juliet,” ông ta đáp một cách khô khốc như biết rõ trong đầu tôi đang nghĩ gì. “Và để trả lời cho câu hỏi của cô, cái tên có thể là mọi thứ. Trong vài trường hợp, nó là tất cả mà cô có.”

“Ông gọi tôi là Lia,” tôi thắc mắc. “Vì sao vậy?”

Ông ta ngập ngừng, “Vì cô chẳng giống với cái tên Cissy.”

“Tên tôi trong ngôn ngữ của ông gọi là gì?”

Ông ta lắc đầu. “Có ai dùng ngôn ngữ của tôi nữa đâu.”

“Ông vẫn dùng đấy thôi.”

“Đó là vì tôi chẳng còn gì để mất.” Ông ta liếc nhìn tôi nhưng tôi chẳng muốn cho qua dễ dàng như thế. “Không có từ tương xứng. Cô không thể lúc nào cũng lấy một từ tiếng Anh và dịch sang tiếng Alnôbak được.” Sói Xám hất cằm về phía cái kim gài áo của tôi, một cái đồng hồ nhỏ xíu gắn trên áo trắng. “Đây là Papizwokwazik. Nhưng bản thân từ đó không có nghĩa là đồng hồ. Nó có nghĩa là ‘thứ kêu tích tắc.’ Con hải ly có thể được gọi là Tmakwa - con vật cắt gỗ, hoặc là abagôlo - đuôi dẹp, hay là awadnakwazid - con vật kéo gỗ… tùy vào lúc cô nhìn nó thì nó đang thế nào.”

Tôi thích chuyện tên gọi có thể thay đổi tùy theo bạn là ai vào thời điểm nhất định. “Awadnakwazid,” tôi lặp lại từng âm tiết. Từng âm tiết cứ như dính vào miệng tôi. “Tôi ước mình có một cái tên như Sói Xám.”

“Vậy thì cứ tự đặt cho mình một cái tên. Tôi đã làm vậy đó.” Ông ta nhún vai. “Tên khai sinh của tôi là John… Azo. Nhưng chữ Sói Xám hợp với tôi hơn. Vả lại nếu ai cũng coi tôi như dân da đỏ thì tôi phải có một cái tên cho đúng điệu thổ dân chứ.”

Chúng tôi rẽ sang Phố Đại Học đông đúc và tấp nập. Tôi biết người mẹ đang dạo phố cùng con gái kia, thêm vị doanh nhân đang chống gậy ngà voi và cả hai lính đi ngang kia nữa, đều tự hỏi một người như tôi đang làm gì với một kẻ như Sói Xám. Tôi tự hỏi còn ai khác sẽ bắt gặp chúng tôi. Cảm giác ấy làm chuyến dạo bộ thêm phần kích thích.

“Tôi từng leo lên mái nhà của cha và muốn nhảy xuống,” tôi kể.

“Nhà của cha cô à,” ông ta lặp lại.

“Ồ giờ thì là nhà của vợ chồng tôi. Có một lần tôi nhảy xuống thật, thế là gãy tay luôn.”

“Vì sao cô muốn nhảy xuống?”

Chưa có ai từng hỏi tôi câu này. Cha tôi cũng không; những bác sĩ nối xương cho tôi cũng không hề hỏi đến. “Vì tôi có thể,” tôi đáp và quay lại nhìn ông ta. “Đặt cho tôi một cái tên đi nào.”

Ông ta nhìn chằm chằm vào mặt tôi một lúc lâu rồi nói. “Sonoki, nghĩa là kẻ trốn chạy.”

Đột nhiên, tôi nghe thấy ai đó gọi tên mình từ phía sau. “Cissy?” giọng Spencer vang lên, “Có phải em không?”

Có lẽ tôi đã muốn bị phát hiện như thế; có lẽ tôi luôn mong đợi chuyện này xảy ra. Nhưng khi Spencer xuất hiện ngay trước mặt Sói Xám, lòng tôi nhũn ra, tay chân run rẩy, suýt tí nữa thì ngã xuống nếu Spencer không kịp đỡ. “Em yêu?”

“Em chỉ hơi choáng váng sau buổi tụ họp ở Câu Lạc Bộ Klifa thôi.”

Spencer nhìn về phía Sói Xám một cách đe dọa. “Tù trưởng, ông nên đi tiếp thôi.”

“Tôi đâu phải tù trưởng.”

Tim tôi chực chờ nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi đành thò tay vào túi áo và lôi ra tờ một đô la. “Được rồi đấy,” tôi cắt ngang như thể Sói Xám và tôi chỉ đang có một cuộc giao dịch nho nhỏ, “đây là giá chót rồi đấy.”

Ông ta diễn theo tôi, nhưng ánh mắt tràn ngập thất vọng. “Cảm ơn quý cô.” Ông ta trao cho tôi một bọc nhỏ gói trong chiếc khăn tay. Đó là thứ đầu tiên ông ta tìm thấy trong túi quần để ngụy tạo cho vụ giao dịch vớ vẩn kia. Sau đó ông ta biến mất giữa đám đông hướng về trường đại học.

Spencer túm lấy tay tôi mà dạy dỗ, “Anh đã bảo là em không nên nói chuyện với lũ ăn xin rồi mà. Chỉ cần bọn nó thấy em dễ lừa là sẽ bám theo em không ngừng đấy.”

“Đó là quỹ từ thiện Thiên Chúa Giáo mà anh,” tôi lẩm bẩm.

“Thế thằng cha đó bán cho em cái gì vậy?”

Tôi liếc qua cái thứ gói trong khăn tay và bắt đầu thấy choáng váng. “Một món nữ trang rẻ tiền mà thôi,” tôi đáp, tay nhét bức chân dung tí hon vào túi xách trước khi Spencer kịp nhìn thấy. Bức chân dung giống y hệt tấm ảnh về mẹ mà tôi đặt trên bàn trang điểm.

Những gia tộc lâu đời tại Mỹ có rất nhiều cá nhân vượt trội về mặt lý luận, ham nghiên cứu xem xét hiện trạng đời sống, biết suy nghĩ sáng tạo về những vấn đề cộng đồng và xã hội nhằm hướng đến việc xây dựng một thành phố Burlington khác biệt và tốt đẹp hơn. Xã hội sẽ luôn nâng đỡ những cá nhân như vậy, chỉ cần họ không vượt quá khuôn khổ. Nhưng vì biết rõ cái giá phải trả nên rất ít người dám vượt quá khuôn khổ.

— Elin Anderson, Công Dân Mỹ: Nghiên cứu về

sự phân chia giai cấp tại thành thị, năm 1937.

Trong giấc mơ tôi cũng cảm nhận được thân máy hình vuông với mặt số màu trắng và cái kim mảnh đang đung đưa. Trên bề mặt máy là dòng chữ “Máy đo điện từ trường TriField.” Một người đàn ông với mái tóc dài như phụ nữ đang giảng giải về cách thiết lập thông số: điện từ, tổng số, điện thế, sóng radio/vi sóng, thử pin. Ông ta mặc quần jean và cái áo thun đã sờn như nô lệ ở đồn điền.

Điện thoại di động là cái gì?

Tôi tỉnh giấc, mồ hôi đầm đìa. Quạt máy thổi vù vù cũng không làm giảm được sự bít bùng vì cửa sổ khóa kín. Bên kia giường trống trơn. Không ngủ được, tôi đành lê bước đến phòng tắm hất nước lên mặt rồi lại lạch bạch xuống lầu tìm Spencer.

Anh ấy đang ở trong phòng làm việc. Đèn trong phòng đều bị tắt đi, ngoại trừ ngọn đèn bàn màu xanh. Một đống sơ đồ phả hệ trải la liệt dưới sàn gỗ. Ngoài cửa sổ, đám ễnh ương ồm ộp gọi tên anh. Khi Spencer ngẩng đầu lên, tôi nhận ra anh ấy đang uống rượu.

“Cissy mấy giờ rồi?”

“Hơn hai giờ sáng rồi.” Tôi e dè tiến thêm một bước. “Anh nên đi ngủ thôi.”

Spencer lấy tay ôm mặt tôi. “Chuyện gì làm em thức giấc vậy?”

“Nóng quá.”

“Nóng à.” Spencer nhấc ly rượu lên và nốc cạn. Một con kiến đang cuống cuồng bò trên bàn, bằng một động tác gọn gàng, Spencer hạ cái ly xuống nghiền nát con kiến.

“Spencer?”

Anh ấy dùng khăn tay lau sạch ly rượu và nhìn sang tôi rồi lẩm bẩm. “Em có cho là nó cảm nhận được không? Nó có biết chuyện gì sẽ xảy ra không?”

Tôi bối rối lắc đầu. “Anh nên đi ngủ rồi.”

Trước khi tôi kịp nhận ra thì Spencer đã bế tôi ngồi lên đùi anh ấy. Anh chụp lấy tay tôi rồi chạm vào chỗ băng trên tay. “Em có biết anh sẽ chết nếu mất em không?” Spencer trầm giọng. “Em có biết em có ý nghĩa như thế nào với anh không?”

Môi tôi mấp máy không thành lời. “Em không biết.”

“Ôi, Cissy.” Anh ấy dụi đầu vào ngực tôi, hơi thở của anh ấy phả vào bụng tôi. “Em là lý do anh làm việc này.”

Nhờ vào tư tưởng truyền thống cho rằng người Anglo-Saxon mới là chủng tộc thượng đẳng, những gia tộc lâu đời tại Mỹ mới giữ vững vị trí chủ đạo của mình.

— Elin Anderson, Công Dân Mỹ: Nghiên cứu về

sự phân chia giai cấp tại thành thị, năm 1937.

Ruby báo với tôi rằng ông ta đang đợi.

“Spencer đang ở nhà đấy,” tôi hốt hoảng khi nhìn thấy Sói Xám đứng trước mái hiên, ánh nắng trải dài trên vai ông ta như chiếc áo choàng của kỵ sĩ đấu bò tót.

“Cứ hỏi đi,” ông ta ra lệnh.

Tôi liếc vào nhà. Spencer vẫn đang tắm. Và tôi có muôn vàn thắc mắc. “Anh biết mẹ tôi sao?” Khi ông ta gật đầu, tôi chẳng lấy gì làm ngạc nhiên. “Bà ấy trông thế nào?”

Mắt ông ta dịu xuống. “Giống cô.”

Tôi chẳng nghĩ ra được thêm câu nào nên chỉ biết hối thúc, “Còn gì nữa không?”

Vậy nên ông ta kể cho tôi nghe về mẹ tôi, đứng trước hiên nhà này, ngay tại căn nhà này, nơi bà lớn lên trước khi kết hôn với cha tôi. Ông ta mi