Chương 7 Ngày 1 tháng Chín năm 1932
Chúng ta đã nhiều lần chứng kiến công tác an sinh xã hội cần đến sự cống hiến từ những công dân ưu tú nhất. Thật kỳ lạ nếu xã hội không đếm xỉa gì đến những cá nhân đã góp phần xây dựng xã hội vững mạnh, hy sinh để bảo vệ giống loài của chúng ta khỏi sự xâm lấn của chủng gene kém ưu việt. Ba thế hệ đần độn là quá đủ rồi.
— Thẩm Phán Oliver Wendell Holmes phán quyết
trong phiên phúc thẩm vụ kiện giữa Buck và Bell diễn ra tại
Tòa Án Tối Cao bang Virginia năm 1927. Trong phiên tòa,
Thẩm Phán đã chấp thuận triệt sản cho một bà mẹ
có khả năng sinh ra những đứa trẻ kém ưu việt.
Nhiều năm về trước khi bằng tuổi tôi, mẹ đã biết yêu. Người mẹ yêu không phải mấy anh chàng mặt ngựa xoay mũ rơm trên tay hay mấy cậu sinh viên đại học tay cầm bó hoa và ngoan ngoãn gọi ông ngoại tôi là Ngài. Lại càng không phải Harry Beaumont, chàng giáo sư trẻ tuổi kiên trì nhất trong đám người theo đuổi mẹ. Vốn là một nhà khoa học lớn hơn mẹ tôi gần mười tuổi, Harry Beaumont có thể vừa nói chuyện yêu đương vừa giảng giải về quá trình chọn lọc tự nhiên. Harry và mấy chàng trai khác tiễn mẹ tôi về tận hiên nhà, nhưng lúc ấy mẹ lại dõi mắt nhìn theo anh chàng nhân công người Gypsy đang làm thuê trên cánh đồng sau nhà.
Làn da ông ấy tiệp màu với cây đàn piano bóng loáng mà mẹ thường biểu diễn vào tiệc trà chiều. Mái tóc ông ấy còn dài hơn tóc mẹ. Đôi mắt tinh như đại bàng đủ để xuyên thấu rèm cửa dõi theo hình bóng mẹ trong phòng. Lúc mang nước ra cho đám nhân công, bà cảm thấy mạch đập như hòa nhịp với từng chuyển động của ông.
Suốt mười bảy năm trời bà đóng vai đứa con gái gương mẫu. Bà tốt nghiệp trường nữ sinh; đứng ngồi tao nhã và tối nào cũng rửa mặt bằng sữa bơ để giữ làn da rạng rỡ. Bà biết rõ mình được nuôi dạy để trở thành người vợ mẫu mực. Nhưng hình mẫu đó dần giống như chiếc áo choàng xa xỉ để dành mãi trong rương: sau bao nhiêu năm mặc lại vẫn chẳng hề thấy hợp.
Một ngày nọ trên cánh đồng, ông ấy là người cuối cùng đến chìa cái cốc thiếc cho bà rót nước. Mồ hôi chảy dọc theo bờ ngực trần, thêm vết bùn dính trên lông mày. Cơ thể ông ấy toát ra mùi quả việt quất mới thu hoạch xong. Hàm răng ông ấy trắng đến lóa mắt. Ông ấy lên tiếng, “Cô là ai?”
Mẹ tôi có thể đáp, Lily Robinson. Hay là con gái của Quentin Robinson. Hoặc cũng có thể là phu nhân tương lai của Harry Beaumont. Nhưng những danh xưng đó không phải là thứ ông ấy muốn biết. Lần đầu tiên trong đời, bà ấy tự hỏi vì sao mình phải giới thiệu bản thân dưới danh nghĩa của người khác.
Ông ấy bắt đầu để lại những món quà nhỏ cho bà ấy dưới mái hiên; một đôi giày da tí hon; một chiếc giỏ kết bằng cỏ mật; một bản vẽ phác con ngựa phi nước đại. Bà biết tên ông là John.
Lần hẹn đầu tiên, bà nói dối cha mẹ rằng mình sẽ ngủ qua đêm tại nhà bạn gái. Ông ấy đón bà ngay giữa đoạn đường đến thị trấn. Ông ấy nắm tay bà như đã thân thuộc từ lâu và nói rằng thế giới là ngôi nhà còn bầu trời là mái nhà. Hai người ra bờ sông, hôm ấy bầu trời đầy sao thật gần như tấm chăn mềm. Khi ông ngã xuống hôn bà, tóc ông phủ kín mặt hai người như tấm màn che riêng tư.
Ông ấy nhỏ hơn bà một tuổi, chẳng có nét gì giống với những thứ bà nghe kể về dân Gypsy.
John không hề bẩn thỉu, đần độn hay thiếu trung thực. Ông ấy hiểu cảm giác bó mình trong lớp vỏ bị người khác dán nhãn. Lily bắt đầu mong ngày trôi qua mau để đêm mau tới. Bà bắt đầu cãi lời cha và phớt lờ những dặn dò của mẹ. Giấc mơ của bà tràn ngập màu xanh đỏ. Vào đêm John tiến vào trong và khiến bà bừng nở, Lily đã khóc vì người ấy yêu chính con người bà, không phải yêu hình mẫu mà bà luôn cố trở thành.
Lúc mang thai, bà ấy đã sai lầm khi nghĩ rằng cái thai là cơ hội chứ không phải là thảm họa. Bà kích động như con chim ruồi vòng vòng trước phòng làm việc của cha mình trong khi John khoác áo sơ mi và cà vạt đi thuê với giá một đồng, bước vào cầu hôn con gái ông ấy.
Lily không nhớ, hoặc ép mình không được nhớ đến chuyện xảy ra sau đó. John bị đánh bất tỉnh, máu me be bét rồi bị kéo ra khỏi văn phòng. Nắm tay cha bà run bần bật khi ra lệnh cho bà phải sắm vai con điếm lần nữa, bằng cách cưới một gã khờ không chút nghi ngờ bà. Rồi đến nụ hôn gượng gạo trong lễ đính hôn với Harry Beaumont; giây phút kinh khủng ở nhà thờ khi bà suýt thú nhận với vị hôn phu; và còn gương mặt vui vẻ của chồng bà khi biết tin bà đang mang thai.
Bà cố tìm John nhưng tìm một người không có địa chỉ thường trú là chuyện không tưởng. Bà nghe người ta đồn ông ấy đang làm việc tại một quán rượu ở thành phố Vergennes, sau lại có tin ông ấy đi ăn cắp ngựa rồi làm công ở mỏ đá. Lúc bà biết tin đồn cuối cùng là xác thực thi John Delacour không còn làm việc ở đó nữa. Ông ấy đang bị tạm giam chờ xét xử vì tội giết hại tay quản đốc mỏ đá.
Bà ấy viết cho ông một lá thư. Miếng giấy hình vuông được ông gấp và bỏ trong cái túi treo trên cổ. Bức thư không nhắc gì đến chuyện bà kết hôn, sức khỏe của bà hay đứa bé. Thư chỉ có mấy từ, Quay về đi. John không hồi âm, ông biết làm thế thì hơn. Sau tháng đầu tiên, Lily chẳng còn thức giấc với hương vị của John trên đầu môi. Sau ba tháng, bà chẳng còn nhớ nổi giọng nói của ông. Sau sáu tháng, bà bắt đầu mơ thấy ác mộng rằng đứa bé sinh ra có mái tóc đen như cánh quạ và làn da màu vỏ quế.
Lily Robinson Beaumont qua đời vì sinh non, hôn mê sau bốn mươi tiếng chờ sinh. Bà cắn răng giấu kín tên John lúc qua đời. Bà không biết một ngày kia, John thực sự trở về, ngay cả khi đã biết tình yêu đời mình đã sang thế giới bên kia, nhờ thỏa hiệp với mấy tên cai ngục. Bà không biết đứa con gái bà bỏ lại, Cecelia, có mái tóc vàng óng và làn da trắng muốt như phép màu.
Người ta đã có hiểu biết đáng kể về di truyền của loài người - đủ để đảm bảo công tác triệt sản vì ưu sinh là chính sách an toàn, miễn là chính sách này được áp dụng lên những cá nhân suy thoái đến mức chắc chắn gây hại cho xã hội. Trong tương lai, khi tri thức về di truyền học được mở rộng hơn, nên áp dụng luôn chính sách này cho những cá nhân đang bên bờ suy thoái.
— Trích từ thư tín ngày 24 tháng Chín năm 1925 từ
H. H. Laughlin, giám đốc Văn phòng Lưu trữ Ưu Sinh,
gửi đến Harriet Abbott.
Trong mơ, tôi thấy mình sinh ra Ác Quỷ, Đức Chúa Trời, và Gã Khổng Lồ, đứa trẻ xé thân mình mà ra. Máu tuôn đầm đìa và lúc thức dậy, tôi nhận ra chăn đệm ướt đẫm vì mồ hôi. Mấy đêm liền Spencer cố mãi mà không mở được cánh cửa sổ phòng ngủ bị kẹt. Cứ nhìn anh là tôi không chịu nổi.
Đêm nay, lúc tôi giật mình tỉnh giấc, Spencer không ở bên. Tôi kéo chăn ra và trèo xuống giường, rón rén né mấy tấm ván sàn hay kêu cót két. Thảm trải sàn giúp che giấu âm thanh tôi bước xuống cầu thang. Spencer vẫn để cửa phòng làm việc hé mở.
Tôi bật cây đèn bàn. Tôi đã bước vào đây cả ngàn lần nhưng chưa bao giờ có ý định lục lọi thứ gì đó. Spencer giấu nó ở đâu nhỉ?
Trên bàn làm việc của anh ấy là một chồng hồ Sơ ngay ngắn - mớ thư từ của đồng nghiệp trong lĩnh vực ưu sinh, sách vở nhiều thứ tiếng, các tấm phim in hình rải rác khắp bàn làm việc như lá bài. Cuốn sổ nháp của Spencer đầy ghi chép. Tôi thấy được vài từ: sinh đôi, giám sát, bệnh dịch. Lúc mò mẫm quanh bàn, tôi va phải góc bàn khiến cả chồng giấy ụp xuống đất. Ngay lập tức tôi đứng yên, hướng mắt lên trần nhà, tim muốn nhảy khỏi lồng ngực. Nhận thấy xung quanh vẫn yên ắng, tôi hít một hơi thật sâu và nhích về cái bàn đặt sát vách tường.
Tấm bản đồ di truyền về một gia đình mà tôi không biết tên đang hé mở. Tôi lướt mắt qua mấy dòng gạch đậm nối liền quan hệ giữa người bị điên trong dòng họ, giữa mấy kẻ phóng đãng và gái mại dâm, giữa học sinh trại giáo dưỡng và đám tội phạm. Tôi lần theo một nhánh gia phả có vẻ không bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái di truyền của cả dòng họ. Vậy mà vẫn có mấy đứa cháu phải vào trường dạy nghề, bệnh viện tâm thần Waterbury hoặc nhà tù liên bang. Số phận của họ cũng suy đồi như thế hệ ông bà. Tôi đã nghe Spencer nhắc điều này bao nhiêu lần rồi nhỉ? Những đặc điểm di truyền có thể bỏ qua một thế hệ - nhưng cuối cùng dòng máu vẫn nói lên tất cả.
Tay tôi lén sờ lên phần bụng cứng ngắc. Cảm giác vừa rồi gọi là cơn đau chuyển dạ giả. Tôi ráng mở xem thêm mấy cuộn sơ đồ phả hệ cắm trong giá cắm ô cạnh bàn. Mấy cuộn giấy đề họ Delaire, Moulton, Waverly, Olivette nhưng lại không có họ Delacour. Lẽ nào cha tôi… mà ông ấy có phải cha ruột tôi chăng? Hay là anh ấy lưu hồ sơ về gia đình Sói Xám bằng một cái họ khác?
Weber/George.
Cái tên này khiến tôi chú ý. Tôi cẩn thận kéo tấm sơ đồ ra và trải lên bàn. Chẳng khó để tìm ra tên Ruby trong đám tên viết phía dưới; Spencer còn đánh dấu nó bằng mực đỏ. Bên lề là một mớ công thức toán học và ghi chép dự đoán khả năng Ruby trở nên suy đồi như bà con trong gia đình.
Người chị gái yêu dấu của cô bé, cái người đã qua đời, được đánh dấu Sx in đậm, ký hiệu ấy có nghĩa là Vô đạo đức.
Đúng ra mẹ tôi cũng có thể bị gắn nhãn như thế.
“Cissy.”
Giọng Spencer âm trầm đến mức khiến tôi nhảy dựng. Anh đang đứng lù lù ở đó, trong bộ áo choàng ngủ và nhìn tôi chằm chằm. Rồi anh ấy bước vào và liếc mắt qua bàn làm việc.
Khoảnh khắc dằn vặt lúc Spencer nhìn tôi khiến tôi có cảm giác anh ấy biết tôi đang tìm cái gì. Nhưng không biết vì nguyên nhân gì, gương mặt Spencer lại giãn ra thành mặt nạ. “Em yêu, em lại mộng du đấy à.”
“À vâng,” tôi tằng hắng.
Anh đưa tay đỡ lấy tôi, dắt tôi ra khỏi phòng làm việc rồi khóa cửa lại. “Có lẽ tại đứa bé đấy,” Spencer dỗ dành, ánh mắt vẫn không rời khỏi gương mặt tôi.
Hai vợ chồng đều hiểu chúng tôi đang ông nói gà bà nói vịt. “Không,” tôi đáp lại. “Không phải do đứa bé.”
Tôi kêu gọi mọi người nên chú ý đến thực tế số lượng người tâm thần và đần độn đang gia tăng đáng kể, tạo áp lực lên cộng đồng cũng như chính quyền. Chúng tôi đang thực hiện nghĩa vụ chăm sóc cho những người kém may mắn, nhưng trên thực tế lại không thể làm gì để ngăn chặn sự gia tăng về số lượng. Y học cho thấy một phương pháp đang được áp dụng thành công tại vài bang khác… Rất nên dành quan tâm đặc biệt đến vấn đề này.
— Trích từ diễn văn của Thị Trưởng Stanley Wilson
tại Hội Nghị Chung Vermont, Biên bản phiên họp
Thượng Nghị Viện Bang Vermont, năm 1931
Sáng hôm sau, tôi đang ngồi trước gương bên bàn trang điểm thì Spencer nghiêng người hôn lên má tôi. “Em cảm thấy sao rồi?” anh hỏi như thế chẳng có chuyện gì xảy ra vào hôm qua.
Tôi đặt cái lược xuống. “Em khỏe.”
Tay Spencer lén trượt xuống áo tôi, áp lên cái bụng nơi con tôi làm tổ. “Vậy con thì sao?”
“Nặng nề lắm.”
Chúng tôi là một cặp vợ chồng xứng đôi. Những đường nét thon dài dọc xương hàm của Spencer và đôi mắt lam nhạt ẩn sau cặp kính rất hợp với gương mặt trái tim và đôi mắt nâu mật ong của tôi. Đứa bé nếu thừa hưởng nét đẹp hoàn hảo của hai vợ chồng chắc sẽ xinh đẹp lắm. Nếu không tính đến việc thằng bé có thể không giống với những gì Spencer mong đợi.
“Spencer,” tôi thì thào. “Chúng ta cần nói chuyện.”
Lúc này, bàn tay anh ấy lướt dọc cánh tay tôi, từng ngón tay dịu dàng vuốt ve vết sẹo đang lên da non trên cổ tay. Chẳng khó để nhìn thấu suy nghĩ của anh ấy trong thinh lặng: nếu anh ấy không yêu tôi thì chuyện đã dễ dàng hơn biết bao.
Nhưng xét cho cùng thì anh ấy chẳng hề yêu chính tôi. Anh ấy còn chẳng biết tôi là ai. Nếu Spencer xấu hổ khi phải thừa nhận một người vợ chẳng màng sống chết, anh ấy sẽ cảm thấy thế nào nếu biết vợ mình mang nửa dòng máu thổ dân?
Anh ấy có viết thêm tên tôi vào đáy sơ đồ phả hệ dòng họ Delacour không nhỉ? Hay anh ấy sẽ đốt trụi nó? Spencer luôn biết cách che giấu chuyện của tôi với bạn bè và đồng nghiệp một cách tài tình. Có lẽ anh ấy sẽ tiếp tục làm thế. Dù sao thì đứa bé nào sinh ra chẳng đỏ hỏn và gương mặt tròn vành vạnh.
“Em biết mà,” Spencer dỗ dành, “anh không nghĩ vợ chồng mình nên nói chuyện lúc này đâu. Tâm sự… suy nghĩ… mấy chuyện đó sẽ làm tâm trí em rối bời đấy, Cissy.” Tay anh cố xoa dịu nét nhăn mày trên mặt tôi. “Em cần thứ gì đó cho khuây lãng, bận bịu một chút.” Anh móc từ túi quần ra một tờ giấy, hí hoáy viết tên mười cặp vợ chồng quen biết rồi đặt cạnh lọ nước hoa có mùi hồng leo Pháp. “Mời ăn tối. Hoặc tiệc mừng trước sinh cho con mình. Em và Ruby có thể sắp xếp chủ đề, cách trang hoàng và thực đơn.” Anh hôn lên má tôi. “Em nghĩ sao?”
Tôi vuốt phẳng tờ giấy rồi nhét vào góc gương soi. Chúng ta sẽ ăn sườn nướng kèm khoai lang rưới xi-rô cây thích và cà rốt xốt ngọt. Rồi chúng ta nhấm nháp vang đỏ và cười nói vì mấy mẩu chuyện tẻ nhạt rồi chúc mừng sự ra đời của đứa bé sẽ khiến thế giới của em chia thành hai nửa. Nhưng rồi tôi chỉ đáp, “Anh nói em không nên suy nghĩ nhiều mà.”
Chúng ta vẫn luôn cẩn trọng phối giống cho gia súc nhưng chẳng hề quan tâm đến quá trình phát triển nòi giống của chính loài người.
— Trích phát biểu của Phu nhân Bickford trong cuộc tranh luận về Đạo Luật Triệt Sản, ngày 21 tháng Ba năm 1931 tại Viện Dân Biểu Bang Vermont, được trích đăng trên tờ Burlongton Free Press
Tôi bắt đầu làm mình làm mẩy. Sáng nào tôi cũng cằn nhằn về chuyện thai kỳ bất ổn, rằng tôi căng thẳng, sao không thấy con động tĩnh gì, rồi chứng ợ nóng khiến tôi yếu hẳn. Chứng lo âu tiền sản lại càng khiến mọi thứ trầm trọng thêm nên Spencer chẳng hề vặn hỏi khi tôi nói cứ cách ngày là sẽ đến kiểm tra tại phòng khám bác sĩ DuBois. Tôi chắc Spencer nghĩ dù sao tôi quấy rầy bác sĩ DuBois cũng tốt hơn là giày vò anh ấy.
Thay vì xuống thị trấn, tôi lẻn đến khu trại bên hồ. Người ta cũng ngừng soi mói sau mấy lần thấy tôi đi cùng Sói Xám. Mấy người còn biết tên tôi. Sói Xám luôn giới thiệu với mọi người: “Đây là con gái tôi”.
Cụm từ N’Dadan, nghĩa là “cha tôi” trong tiếng Abenaki, nghe như tiếng tim đập.
Đêm nay trời mưa rả rích. Hai cha con ngồi bên cái bàn sứt sẹo trong lều của Sói Xám. Trong khi ông ấy mải mê đọc tin thể thao trên báo, tôi lục lọi mớ đồ cất trong hộp đựng xì-gà nhỏ. Mặt dây chuyền chạm khắc, dây buộc tóc màu tím và một lọn tóc - đó là tất cả những gì mẹ để lại cho cha. Lần nào đến đây tôi cũng mân mê nghiên cứu chúng như đang tìm tòi lời giải đáp nào đó. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến ngài Houdini và tự hỏi người ta cần thêm thứ gì để trở về từ thế giới bên kia.
Cha bảo nếu muốn, tôi có thể giữ hết kỷ vật của mẹ. Cha bảo ông ấy không cần đến kỷ vật để nhớ về bà. Khác với tôi, ông ấy đã được gặp bà. Tôi không biết làm sao để thú nhận thực ra tôi chỉ muốn có thứ gì thuộc về ông ấy - thứ gì đó để tôi nhớ về cha.
Cha tặc lưỡi rầu rĩ. “Đội Sox lại tiêu tùng rồi,” ông thở dài. “Đúng là lời nguyền của Bambino. Đợt chuyển nhượng tồi tệ nhất trong lịch sử khi bán Manhattan vì vài đồng bạc.” Tôi đứng dậy, vờ như tham quan căn lều. Tôi chạm vào bàn chải cạo râu, dao cạo và lược chải tóc. Lúc cha quay lưng đi, tôi lén cầm tẩu thuốc đặt trên kệ và bỏ vào túi.
“Cha tưởng con thích thuốc lá điếu hơn chứ,” ông lên tiếng, chẳng hề quay lưng lại.
Tôi quay phắt lại. “Làm sao cha biết?”
Ông ngoái đầu nhìn lại. “Cha đánh hơi được con lo lắng như thế nào. Chỉ cần con nói muốn thì cha sẵn sàng đưa tẩu thuốc cho con mà.” Nhe răng cười, ông nói thêm. “Con gái cha lại ăn cắp vặt. Đúng là dòng máu của dân Gypsy mà.”
Con gái cha. Một lần nữa, danh xưng ấy khiến tôi nghẹn ngào. Tôi đáp, “Cha chưa từng hỏi liệu con có định kể chuyện này với Spencer hoặc với cha… với ông Harry Beaumont chưa?”
Sói Xám vẫn nhìn chằm chằm vào tờ báo. “Quyết định ấy không phải ở nơi cha. Cha nói ra sự thật không phải để giành lại con. Chẳng ai thuộc quyền sở hữu của ai cả.”
Tôi nghĩ đến cảnh cha ở trong tù, chấp nhận bị triệt sản để sớm ra tù gặp lại tôi. Dù ông ấy có thừa nhận hay không thì con người ai chẳng liên quan đến nhau. Chỉ cần một lần hy sinh cho ai đó, bạn đã trở thành một phần trong linh hồn của người kia. “Nhưng cha hẳn muốn con thừa nhận cha chứ.”
Khi cha ngước mắt lên, tình cảm mãnh liệt trong đôi mắt ông ấy khiến tôi lùi lại phía sau. “Cha luôn muốn nhận lại con chứ. Bằng bất kỳ giá nào. Cha sẵn sàng đánh đổi bất kỳ thứ gì chỉ để được gặp con. Con hỏi cha có muốn được nghe con nói con là con gái cha, có muốn con nói ra điều đó hay không à? Trời đất, tất nhiên là có. Một phần trong trái tim cha thôi thúc cha làm vậy. Nhưng một phần lớn hơn chỉ mong con bình an.” Ông gấp tờ báo lại, tỉ mẩn miết theo từng nếp gấp như thể có người soi mói. “Nhưng nếu con ra ngoài và kể với thiên hạ về cha, người ta sẽ không quan tâm con tự hào về cha như thế nào. Thiên hạ chỉ để lọt tai chuyện con mang dòng máu thổ dân thôi.”
“Con không quan tâm.”
“Đấy là vì con chưa bao giờ sống như thổ dân. Con chưa từng mặc áo quần của người khác, lấy tên người khác, sống trong nhà người khác và làm công việc của người khác từ năm này qua năm khác. Nếu không làm được điều đó thì con đành bỏ trốn… và như thế càng khiến người ta nói dân Gypsy toàn như thế.” Cha buồn bã lắc đầu. “Cha muốn con có cuộc sống tốt đẹp hơn. Dù cho điều này đồng nghĩa với việc cha con mình phải giữ khoảng cách với nhau.”
Đứa bé trong bụng tôi lại lộn nhào. “Vậy sao cha lại mất công tìm kiếm con làm gì? Sao cha không cách xa con ra?”
Ông nhìn chằm chằm vào tôi một lúc thật lâu. “Sao cha có thể làm vậy được?”
Tôi đáp lại, “Vậy sao cha ép con làm vậy?”
Cha hướng mắt ra cửa, lặng ngắm mưa rơi.
“Khi đứa trẻ ra đời, con sẽ hiểu. Tổ tiên chúng ta có câu, Awani Kia, mang nghĩa ‘Con là ai.’ Không phải hỏi tên con, mà là về dòng tộc. Con sẽ nghe kể nhiều nếu được đi đây đi đó. Mùa đông nào cũng vậy, khi cha đến Odonak và nếu có ai đó hỏi đến, cha sẽ kể ông cố là một thầy mo, rồi nhắc đến Dì Sopi từng là bà lang vườn mát tay nhất thời ấy. Mỗi khi trả lời, cha lại thấm thía, mặc cho thiên hạ đồn đại ra sao, chỉ cần cha biết mình là ai.” Ông ngập ngừng, “Mùa đông năm nay, cha sẽ kể với họ về con.”
Đó là lần đầu tiên cha kể về những chuyến lang bạt. Tôi biết cha vẫn luôn lang thang đi đây đi đó. Nhưng lần đầu tiên tôi nhận ra lúc cha đến Canada, cha con tôi sẽ xa cách.
Tôi buột miệng, “Nếu con theo cha thì sao?”
“Đến Odonak sao? Cha không nghĩ con sẽ hạnh phúc ở đó.”
“Nhưng ở đây con cũng có hạnh phúc đâu.”
“Lia,” ông khe khẽ dỗ dành. “Cha sẽ không khuyên con đừng đi; vì cha quá ích kỷ. Nhưng giây phút con đặt chân đến Canada, con sẽ nhớ đến những gì mình bỏ lại ở đây.”
“Cha làm sao biết được.”
“Cha sao lại không hiểu.” Ông liếc sang mặt dây chuyền của mẹ. “Một người không thể sống tại hai thế giới cùng lúc được.”
“Nhưng cha chỉ vừa tìm thấy con!”
Sói Xám mỉm cười. “Ai bảo với con là cha lạc mất con?”
Tôi cúi đầu lảng tránh, chà chà ngón tay lên vết sẹo trên cổ tay trong vô thức. “Con không dũng cảm được như cha,” tôi thì thầm.
“Không,” cha đáp. “Con dũng cảm hơn cha đấy.”
Không ai có quyền làm cha làm mẹ nếu khiến con mình chịu tội.
— Trích phát biểu của ngài Harding trong cuộc tranh luận về Đạo Luật Triệt Sản, ngày 21 tháng Ba năm 1931 tại Viện Dân Biểu Bang Vermont, trích đăng trên Burlington Free Press
Trong phòng chơi bi-da, từng trái bi được đánh vào lỗ một cách chuẩn xác. Cha tôi cười lớn, “Spencer, con không định bại dưới tay một lão già đấy chứ.”
“Cha Harry, cứ im lặng và chơi tiếp đi nào.”
Tôi mỉm cười, đưa tay chống lưng, đứng đếm mớ dao nĩa bằng bạc trong sảnh, Spencer dặn tôi phải kiểm kê mỗi tháng một lần. Chúng tôi chưa từng làm mất cái nào nhưng anh ấy luôn bảo cẩn thận không thừa.
Tôi đang đếm đến cái muỗng bạc thứ bảy thì nghe thấy từ “Gypsy”.
Spencer đáp, “Thực ra con đành tự làm cho xong.”
“Cha chẳng ngạc nhiên tí nào.” Cha tôi gọn gàng thọc trái banh. “Trộm cắp, lừa lọc… cha không ngạc nhiên nếu dối trá cũng là một đặc tính di truyền đâu.”
“Gã ta còn từng ngồi tù vì tội giết người nữa.”
“Ôi Chúa ơi…”
“Đúng vậy.” Spencer gãi đầu càu nhàu. “Con vẫn luôn ủng hộ việc tù nhân tái hòa nhập cùng xã hội. Nhưng con chẳng dám lấy vợ mình ra để thử nghiệm đâu.”
Một tiếng “cách” vang lên, rồi tiếng bi lăn vào lỗ. “Thiếu sót của Đạo Luật Triệt Sản là không loại bỏ đám người hạ đẳng đã được sinh ra,” cha phàn nàn. “Đó là vấn đề tiếp theo cần được quan tâm giải quyết.”
Máu như ngừng lưu thông đến não tôi. Lời ấy không phải vì cha tôi độc ác. Ông ấy và Spencer chỉ muốn thay đổi thế giới, tạo ra một nơi tốt đẹp hơn cho con cháu đời sau.
Bằng cách loại bỏ dòng giống của một nhóm người khác.
Tôi nhìn chằm chằm vào cha và Spencer qua cửa phòng; cảm giác mọi thứ sụp đổ ngay trước mắt mình, Spencer nhe răng cười ranh mãnh. “Diệt chủng là phạm pháp đấy nhé.”
“Chỉ khi con bị bắt mà thôi,” cha tôi phá lên cười rồi cầm lấy cây cơ. “Ván này bi trơn hay bi sọc nào?”
Trước khi kịp trấn tĩnh, tôi nhận ra mình đã vọt qua cửa phòng. Mặt tôi trắng bệch như giấy; cây cơ trên tay Spencer cọ sàn sạt trên đất và anh lập tức xuất hiện bên tôi. “Cissy?” anh hồi hộp gọi. “Có chuyện gì vậy? Con làm sao à?”
Tôi cố lắc đầu. “Con… vẫn ổn.”
Cha tôi nhăn mặt. “Con yêu, trông con như vừa gặp ma ấy.”
Có lẽ tôi vừa thấy một thứ không nên nhìn, một thứ vẫn luôn hiện diện quanh đây nhưng lại vô hình qua cặp mắt mù quáng của tôi. Spencer giật cái muỗng bạc ra khỏi tay tôi. “Em không đủ sức làm việc này nữa. Nên vợ chồng mình mới thuê Ruby đúng không nào? Đến đây. Ngồi xuống nào.”
“Em không muốn ngồi,” tôi gào lên. “Em không muốn… không muốn mà…” Lúc tôi đẩy Spencer ra xa, cái muỗng cũng rơi xuống sàn nhà, gây ra tiếng động chói tai. Tôi òa khóc nức nở.
Cha siết chặt vai tôi. “Cissy, con đang mất bình tĩnh đấy. Ngồi xuống, ngay lập tức.”
“Nghe lời cha đi em,” Spencer tán thành.
Vấn đề là tôi vẫn luôn như thế. Và lúc này tôi thậm chí còn chẳng biết mình là ai.
“Cha gọi bác sĩ DuBois đi,” Spencer ra hiệu cho cha tôi. Ngay lập tức cha gật đầu và nhấc ống nghe.
Spencer quỳ gối bên cạnh và đặt tay lên vai tôi. Một người chồng nên đối xử với cô vợ điên loạn như thế nào? “Cissy?” Sự hoang mang khiến giọng Spencer vặn vẹo như kẹo xoắn.
Cái muỗng bạc lấp lánh dưới chân tôi. “Ôi Spencer,” tôi nức nở. “Nhìn xem anh đã gây ra chuyện gì.”
Tất cả đại biểu nữ tại Viện Dân Biểu Bang Vermont,
ngoại trừ Phu Nhân Farr xứ Monkton vắng mặt,
đều ủng hộ dự luật [về việc triệt sản năm 1931].
— Theo tờ Burlington Free Press,
ngày 25 tháng Ba năm 1931
Bác sĩ DuBois đặt ống nghe lên tai. Lúc tôi ngả người nằm lên gối, thân hình ông ta thay cho màn chắn. Sau đó ông ta bắt đầu cởi áo tôi. Lúc sực nhớ ra mình đang mang túi thảo dược Sói Xám tặng thì đã quá muộn.
Ánh mắt tôi chạm phải cái nhìn của ông ta. Trước khi ông ta chạm vào nó thì tôi kịp nắm lấy vạt áo và cởi luôn túi thảo dược ra. Tôi lắc đầu cương quyết, mắt nhìn chằm chằm vào ông bác sĩ đang cau mày. Sau đó tôi cài nút áo lại và chờ hành động tiếp theo của ông ta.
Ông ta là con rối của Spencer, nhưng tôi mới là bệnh nhân của ông ta. Chuyện này ít nhiều cũng có ảnh hưởng nhất định. Bác sĩ DuBois kéo ống nghe xuống khỏi tai. Đôi mắt ông ta ẩn chứa câu hỏi mà tôi chẳng hề có ý định giải đáp. “Đứa bé của cô vẫn khỏe mạnh,” ông ta chỉ nói vắn tắt. “Tôi cho là cô chỉ cần nghỉ ngơi đầy đủ.” Ông ta lấy hai viên thuốc ngủ ra và chăm chú quan sát cho đến khi tôi bỏ chúng vào miệng và nhấp một ngụm nước từ cái ly đã rót sẵn. “Vậy mới ngoan chứ. Cô sẽ khỏe ngay thôi. Nhưng Cissy, cô biết là cô có thể gọi cho tôi bất kỳ lúc nào có… thắc mắc đấy.”
Sau đó ông ta đứng dậy và tiến lại gần Spencer đang lòng vòng trước cửa. Lúc hai người khẽ trò chuyện, tôi xoay lưng lại, nhổ viên thuốc giấu bên má ra ngoài rồi nhét chúng vào vỏ gối.
Tôi không muốn ngủ vì sợ không gặp được Sói Xám theo như dự định chiều nay. Tất nhiên tôi sẽ phải nặn ra một lý do khác vì bác sĩ DuBois vừa khám xong. Có lẽ tôi sẽ nói mình cần đến quầy văn phòng phẩm mua giấy da để viết thiệp mời cho tiệc tối. Bọn họ chẳng hiểu được tôi không cần thuốc ngủ và cũng không màng nghỉ ngơi. Cái tôi cần là một ai đó không muốn ru ngủ tôi suốt cả đời.
Giường lún xuống khi Spencer ngồi cạnh tôi.
Tôi lăn lại gần anh ấy, mắt nửa khép nửa mở. “Em thấy mệt rồi.”
“Không phải chỉ mình em thấy mệt đâu,” Spencer đáp một cách cáu kỉnh.
Tôi chợt thấy nghẹn thở.
“Vì sao bác sĩ DuBois, người mà suốt hai tuần qua em đến khám những sáu lần vì mấy cơn đau nhức - lại không hề nhớ gì về cuộc hẹn khám bệnh với em?” Mặt Spencer tím lại, khiến mái tóc vàng càng nổi bật như bạch kim. “Vợ anh đang làm cái quái gì mà phải nói dối anh hả?” Anh túm lấy vai tôi và lắc mạnh. “Không chỉ một lần, mà hết lần này đến lần khác?”
Tôi rụt cổ lại. “Spencer, chuyện không phải như anh nghĩ đâu…”
“Đừng có bảo anh phải nghĩ gì!” anh gầm lên rồi đột nhiên dịu giọng. “Cissy, vì Chúa, em đã khiến anh biến thành cái gì vậy?”
Nhìn Spencer suy sụp, tôi gượng ngồi dậy, ôm lấy đầu anh. “Spencer. Em chỉ ra ngoài đi dạo thôi. Đi dạo một mình. Em chỉ muốn là chính mình.”
“Chỉ một mình sao?” Spencer rầu rĩ lên tiếng.
“Em đi dạo một mình sao?”
Tôi nhìn thẳng vào mắt anh. “Đúng vậy.”
Trộm cắp, lừa lọc… cha không ngạc nhiên nếu dối trá là một đặc tính di truyền đâu.
Nhìn em này,” tôi nhăn nhó giải thích, chỉ tay vào bụng bầu.
“Anh thấy rồi,” Spencer đáp. “Anh biết.” Anh ôm lấy mặt tôi và khẽ hôn lên môi tôi. Lúc nụ hôn chấm dứt, lời xin lỗi chực chờ thoát ra từ miệng Spencer. “Anh xin lỗi, Cissy.” Tôi siết lấy tay Spencer khi anh đứng dậy. Mãi cho đến khi anh ấy lấy chìa khóa từ trong tủ và bước ra khỏi phòng ngủ, tôi mới nhận ra anh ấy chẳng hề có ý xin lỗi vì những gì đã xảy ra, mà là vì những gì anh ấy sẽ làm. “Bác sĩ DuBois đồng quan điểm với anh rằng em không nên ra ngoài một mình. Đặc biệt là khi cảm xúc của em không ổn định vì thai nghén. Ông ấy bảo em có khả năng… tự làm tổn thương chính mình.”
“Vậy nên Chúa không cho phép tôi gây chuyện khi người khác có thể bắt gặp. Thiên hạ sẽ đồn đại những gì nếu biết Spencer Pike kết hôn với một người phụ nữ giống đám tâm thần trong bệnh viện Waterbury nhỉ!”
Spencer cho tôi một cái tát chát chúa khiến tôi lập tức im thin thít. Anh ấy nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay, sững sờ về hành động của mình. Tay tôi khẽ chạm lên mặt, cảm giác dấu tay anh dần cộm lên như tầng da thứ hai. Spencer cứng nhắc đáp, “Anh làm vậy chỉ vì yêu em.”
Khoảnh khắc cửa phòng đóng lại và khóa kín, tôi nhảy xuống giường. Tôi thử mở cái cửa sổ vẫn bị kẹt cứng. Tôi đập cửa ầm ầm. “Ruby!” Tôi hét lên. “Ruby, mở cửa cho tôi ngay lập tức!”
Tôi nghe thấy cô bé đáp lại phía bên kia cánh cửa. “Em không dám, cô Pike. Giáo sư không cho phép.”
Tôi đấm tay lên cửa một lần cuối cùng. Giằng co cũng chỉ khiến căn phòng khóa kín trở nên nóng nực hơn; tóc tôi ướt nhẹp sau cổ, áo đầm đìa mồ hôi. Tôi chính là cô công chúa bị nhốt trong tháp ngà. Nhưng nếu hoàng tử biết được công chúa chính là một con cóc ghẻ, liệu anh ta có sẵn sàng giải cứu tôi hay không?
Tôi bò trên sàn bằng tay và chân, mở quạt điện và dí sát mặt vào đó. Ngay lập tức tôi cảm thấy mát mẻ. Tôi tự hỏi không khí ở Canada như thế nào nhỉ. Tôi tự hỏi không biết Sói Xám có lo lắng nếu tôi không đến được.
Tôi gào vào chỗ cánh quạt đang quay như trò chơi thuở ấu thơ khiến giọng mình biến thành giọng người khác. “Nia Lia” tôi nói. Tôi là Lia. “N’kadi waji nikonawak-wanawak.” Tôi muốn về nhà.
Vì vậy, chính sách này của liên bang phải được ban hành để ngăn cản sự tiếp diễn của giống nòi đần độn, yếu kém, thiểu năng và điên loạn.
Nhờ vào công tác triệt sản tự nguyện, an sinh xã hội và lợi ích của những kẻ đần độn, yếu kém, thiểu năng và điên loạn mới được nâng cao.
— “Đạo luật Cải Thiện Nhân Sinh bằng Triệt Sản Tự Nguyện”
Luật pháp bang Vermont, Luật số 174, trang 194,
Kỳ họp thứ 31, năm 1931.
“Dùng kèm với sốt hành phi thắng caramel có vẻ ngon,” Ruby nói.
Cô bé là vị khách duy nhất đến thăm tôi, giờ đang ngồi trên ghế đặt cạnh giường. Ngoài trời, trên một cái cây sau vườn, một con chim đang xây tổ. Mỏ chim nhả ra sợi chỉ màu đỏ như nhà ảo thuật kéo mớ khăn ra khỏi tay mình. “Cũng được.”
Trong phòng tôi không hề có vật sắc nhọn. Không có gì để tôi nuốt bậy hoặc dùng để treo cổ. Tôi biết thế vì Spencer ra lệnh cho Ruby phải rà soát khắp phòng. Nhưng anh ấy không hiểu được rằng tôi sẽ không tự sát, ít nhất giờ chưa phải lúc. Phòng khi… phòng khi…, tôi không nói nổi cho hết lời, nghe thật xui xẻo.
Ruby lật sang một cuốn sách nấu ăn khác. “Hay là ướp tiêu đen nhỉ.”
“Ờ,” tôi đáp, “tuyệt đấy.”
Ruby nhăn mặt. “Cô Pike, em không thể làm cả hai loại sốt cho món thịt nướng được.”
Spencer cũng không phải là bạo chúa. Mỗi khi về đến nhà, anh ấy vẫn dắt tôi đi dạo quanh nhà. Anh ấy còn mua sách cho tôi, tự tay mang bữa tối lên và đút khoai tây kèm thịt gà đến tận miệng tôi như hồi hai vợ chồng còn đi dã ngoại. Anh ấy dịu dàng chải mái tóc dài của tôi, khiến tôi thoáng quên mất chúng tôi đang ở đâu và tôi là ai. Nhưng sáng nào cũng vậy, anh ấy lại khóa cửa trước khi đi làm. Và Ruby là người duy nhất tôi tiếp xúc trước khi anh ấy về đến nhà.
Tôi cố tập trung vào Ruby. “Em bảo em cần nướng đến hai mẻ thịt vì quá nhiều khách mà. Làm mỗi phần một kiểu.” Hoặc để thịt sống cũng được. Ai thèm quan tâm chứ.
“Ngăn đông không đủ chỗ để hai phần thịt, lại thêm món tráng miệng nữa. Em phải để một ít trong kho lạnh thôi.” Ruby hí hoáy ghi chép vào danh sách việc cần làm. “Cô nghĩ bánh gato bảy tầng thế nào? Hay là bánh Alaska bỏ lò?”
Ruby cứ lải nhải, tôi xoay mặt ra chỗ khác. Con chim cổ đỏ đang quấn sợi chỉ vòng quanh cổ, trông như máu đang chảy.
Sao phải mất công thế nhỉ, trong khi nó sắp bay về phương nam tránh rét?
“Cô Pike.” Ruby thở dài. “Cô có nghe không?”
Con chim cổ đỏ chỉ cách tôi vài mét. Vậy mà tôi chẳng biết làm sao để ra ngoài đó.
Ruby chạm vào tay tôi. “Cissy?”
“Cút đi,” tôi quát vào cô bé và trùm chăn kín mặt.
Bác sĩ cần giữ tàu
Nổi trên mặt biển rộng
Nên động đám ngu si
Dí chúng vào một chỗ
Năm mươi đồng một đứa
Nhắm mắt cứa cổ thôi.
— Trích “Quyền cắt xén” của E. F. Johnstone
in trên báo về chủ đề triệt sản,
lưu tại Hồ Sơ Henry E Perkins, tài liệu lưu trữ UVM
Ngày thứ ba bị giam cầm, tôi chẳng còn để ý đến ăn mặc. Tôi nằm bẹp trên giường, đầu tóc như ổ chuột, áo ngủ vén cao. Ruby đã đến cửa hàng thịt. Spencer đang ở trường đại học. Tiếng nhạc trên đài phát thanh dộng thình thịch như nhịp tim của bé con.
Lúc nghe thấy tiếng ổ khóa mở ra, tôi tự hỏi làm sao Ruby có thể trở về từ thị trấn nhanh thế nhỉ. Nhưng cách Sói Xám bước vào phòng đúng là khác hẳn với bất kỳ ai. Tôi ngồi dậy, không nói nên lời khi ông ấy quỳ gối cạnh giường và ôm chầm lấy tôi. “Con kể với cậu ta rồi sao?”
“Không hề.” Tôi khoan khoái hít ngửi mùi thiên nhiên toát ra từ người ông.
“Cậu ta nhốt con vì chuyện khác sao?” Sói Xám ngạc nhiên thốt lên.
Trước khi tôi kịp giải thích, ông ấy bắt đầu tuôn ra một tràng dồn dập như tuyết lở. “Không thấy con đến, cha tưởng con đã hiểu và quyết định giữ khoảng cách.”
“Con sẽ không…”
“Nhưng cha nghĩ ngay rằng ít ra con phải nói lời tạm biệt chứ. Rồi ngày hôm sau, cả ngày hôm sau nữa con vẫn không đến… cha đành chạy đến thị trấn tìm nhưng không ai gặp qua con. Sau đó khu trại xảy ra chuyện…”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
Cha nhìn tôi. “Khu cắm trại không còn nữa. Cha qua đêm trong thị trấn, lúc quay lại, chỗ đó như bị bỏ hoang. Lều trại trống trơn, áo quần vẫn treo trên dây, đồ chơi vương vãi trên đất - giống như mọi người đã vội vã rời đi.”
“Sao mọi người bỏ đi mà không mang theo đồ đạc?”
“Vì có người cưỡng ép họ,” Sói Xám nói thẳng thừng.
Tôi nhớ đến cụ già ngồi trước lều vừa hút thuốc vừa đan mấy cái giỏ bằng cỏ mật, đứa bé cầm que vẽ trên nền đất và òa khóc vì con chó dẫm lên bức tranh của cậu. Tôi tưởng tượng ra đám con gái cười rúc rích khi nhắc đến cậu trai lực lưỡng. Mọi người bị bắt đi rồi sao? Nhốt vào bệnh viện rồi triệt sản? Hay bị tàn sát?
“Khi con mất tích… sau đó mọi người cũng biến mất…” Cha siết tay. “Một người đàn ông phải tức giận đến thế nào mới gây ra nhiều chuyện như vậy.”
Tôi nhận ra cha đang ám chỉ điều gì đó. “Cha nhầm rồi,” tôi bảo với Sói Xám. “Spencer sẽ không bao giờ làm hại ai như vậy đâu.”
“Sẽ không làm vậy nếu cậu ta phát hiện ra sự thật sao?”
Hai cha con tôi nhìn nhau trong bế tắc cho đến khi một giọng nói vang lên trước cửa. “Sự thật là sao?” Spencer khẽ lên tiếng.
Anh ấy đứng đó với khẩu súng vẫn đặt trong bếp, chĩa thẳng vào Sói Xám. “Mày là tên khốn,” Spencer quát lên. “Tao thấy mày đột nhập vào nhà. Tao tưởng mày định ăn cắp thứ gì đó nên định bắt quả tang.” Anh liếc nhìn vào đôi bàn tay đang nắm chặt giữa hai cha con tôi. “Nhưng mày không cần ăn trộm, đúng không? Thứ mày cần đã được dọn sẵn lên đĩa bạc rồi.”
“Spencer, đủ rồi!”
Trước khi tôi kịp đứng dậy, Sói Xám đã lao vào Spencer, tước lấy khẩu súng, Spencer giằng co với ông ấy trên sàn nhà. Với thế mạnh của tuổi trẻ, lại đang cơn tức giận, Spencer không ngừng đấm vào mặt Sói Xám cho đến khi máu chảy be bét từ mũi và miệng, còn mắt ông ấy trợn ngược.
Tôi kéo tay Spencer nhưng anh ấy giằng ra, khiến tôi té xuống. Cảm giác đau điếng chạy thẳng xuống bụng và thắt lưng; tôi co rúm lại. “Cầu xin anh! Để ông ta đi đi!”
Spencer túm cổ áo Sói Xám. “Lý do duy nhất ngăn tao giết chết mày là vì hành động đó sẽ khiến tao trở nên hạ đẳng,” anh ấy thở hổn hển, kéo cha tôi xuống lầu. Tôi chạy theo, mặc cho máu chảy ròng ròng và cơn đau nhói trên cột sống. Lúc Spencer mở cửa ném Sói Xám ra, Ruby đang đứng ngoài. Cô bé nhìn thấy gương mặt máu me và hét ầm lên, túi đồ vương vãi khắp thềm.
“Lia,” Sói Xám đau đớn hét lên. “Theo ta đi.”
Đứa bé quẫy đạp khiến tôi nhớ đến lựa chọn mình phải đưa ra. “Con không thể.”
Spencer đạp ông ấy xuống bậc thềm, mặt đập xuống đất. “Nếu ngày mai mày còn lảng vảng ở Comtosook,” anh ấy đe dọa, “tao đảm bảo sẽ để mày chôn vùi phần đời còn lại trong Nhà tù Liên bang. Cissy, nói tạm biệt với tình nhân của em thôi.”
“Ông ấy không phải tình nhân của em!” tôi gào khóc với giọng nói vỡ vụn. Spencer chỉ kịp quay lại nhìn tôi khuỵu xuống, nước ối vỡ òa trên sàn.
Giải tỏa căng thẳng về mặt vật chất lẫn tinh thần trong chúng ta chính là nhu cầu cấp bách. Lợi ích chung của nhân loại cần đến chiến dịch này… không được phép bỏ qua một làng xóm nào vì vấn nạn người tàn tật, thiểu năng và nghèo đói nhan nhản khắp nơi… Sau khi nỗ lực hết sức để chăm lo cho những người bệnh tật, làm sao một cộng đồng còn đủ sức cải thiện cuộc sống vì tương lai?
— H. F. Perkins, Những góc nhìn của ưu sinh,
Hội đồng ủy ban nông thôn Vermont, trích báo cáo
Nông thôn Vermont: Một chiến dịch vì tương lai, năm 1931
Thế ra mẹ tôi đã chết như thế này: Bị banh chân ra, ngộp thở vì quá sợ hãi những chuyện sắp xảy đến. Lưng và bụng tôi nóng rực, tử cung co thắt dồn dập. Ruby hoảng hốt thút thít dưới chân giường, vươn tay chờ đón một phép màu.
Lúc này còn quá sớm để đứa bé chào đời, quá sớm để tôi ra đi.
Tôi chuyển dạ suốt mười một tiếng. Ruby vẫn ở cạnh tôi suốt thời gian ấy. Spencer vẫn ngồi trong phòng làm việc, say tí bỉ. Tôi không biết anh đã gọi bác sĩ DuBois hay chưa. Nhưng dù câu trả lời là rồi hay chưa thì tôi vẫn sợ chết khiếp.
“Ruby”, tôi cất tiếng gọi và cô bé đến cạnh tôi. “Em nghe đây. Em phải hứa sẽ chăm sóc đứa bé nhé.”
“Cô sẽ làm được mà…”
“Tôi không đủ sức.” Tôi hiểu rõ như thế - tầm nhìn đã mờ hẳn; sức yếu đến mức không nhấc nổi cánh tay. “Kể với nó về tôi nhé. Nói với đứa bé là tôi yêu… ôi, Chúa ơi!” Tôi điếng người vì cơn co thắt trong bụng. Tất cả mọi thứ trong bụng như chùng xuống, và tôi gượng cố sức. “Ruby” tôi thì thào. “Làm đi.”
Cảnh vật trở nên tím tái, đại dương vỗ rì rào vào tai tôi. Cơ thể tôi là cơn thủy triều. Tôi để mặc cơn đau xé rách cuốn ra xa. Tôi mở mắt mong đợi mẹ chào đón mình ở thế giới bên kia. Nhưng thay vào đó, tôi lại nhìn thấy gương mặt đứa bé.
Con gái bé bỏng của tôi.
Tôi vẫn tin mình sẽ chết lúc sinh con; tôi luôn tưởng mình mang thai một cậu con trai. Nhưng chẳng có điều nào thành hiện thực. Chỉ sau một khoảnh khắc, thế giới của tôi đã đảo lộn hoàn toàn.
Con bé òa khóc. Đó là thứ âm thanh ngọt ngào nhất mà tôi từng nghe. Lúc Ruby cắt cuống rốn và quấn tã cho đứa bé, Spencer lao vào phòng. Đôi mắt anh ấy đỏ bừng; hơi thở nồng nặc mùi whisky. Anh khẽ khàng cất tiếng, “Em không sao. Ơn Chúa, em vẫn ổn.” Sau đó anh chú ý đến đứa bé trên tay Ruby.
“Ngài Pike,” Ruby nói. “Đến nhìn con gái ngài xem.”
“Con gái sao?” Anh lắc đầu; chuyện này không thể nào.
Tôi chìa tay ra và Ruby trao đứa bé cho tôi. Tôi nhớ mẹ, bà đã không được tận hưởng cảm giác này. Giờ khi đã ôm con trong tay, tôi nghĩ mình không thể nào cam lòng tự tử cho đến khi nhìn thấy con gái trưởng thành. Phải chứng kiến khoảnh khắc con cười với tôi, bước chân con chập chững, lần cắt tóc đầu tiên, ngày đầu tiên đi học, và nụ hôn đầu tiên. Làm sao tôi có thể bỏ qua những thời khắc ấy?
Tôi ôm lấy đứa bé. Sau mười tám năm chật vật tìm cách định vị bản thân giữa cuộc đời này, tôi nhận ra mình vẫn luôn thuộc về đây, ôm chặt lấy con gái mình.
“Tên con là Lily” tôi thông báo.
Spencer tiến lại gần và liếc mắt nhìn đứa bé. Gương mặt đứa bé ngăm đen, tròn vành vạnh như mặt trăng, với những đường nét đặc trưng của ông ngoại.
Khi Spencer nhìn sang tôi, tôi nhận ra anh ấy vẫn luôn mong đợi đứa bé này sẽ là sự khởi đầu mới, chứ không phải dầu thêm vào lửa. “Lily’ anh lặp lại và nuốt khan.
“Spencer, không phải như anh nghĩ. Sói Xám, người đàn ông đó… ông ấy là cha em. Anh hiểu về di truyền mà… anh biết diện mạo con bé vì sao mà có mà. Nhưng con bé là con anh, Spencer, anh phải tin em.”
Spencer lắc đầu. “Bác sĩ DuBois nói đầu óc em có thể hỗn loạn sau khi sinh con… Chúng ta nên gọi cho ông ấy đến khám cho em.” Anh giằng đứa bé ra khỏi tay tôi, quay lại nhìn Ruby và ra lệnh thẳng thừng. “Ruby, sao em không lái xe đi tìm bác sĩ đi?”
“Lấy xe…” Cô bé chưa từng lái chiếc Packard, nhưng vẫn hiểu đây không phải lúc làm trái lời Spencer. Ruby lí nhí đáp, “Vâng thưa ngài”, rồi rụt rè bước ra ngoài.
Spencer theo sau, trên tay vẫn ôm đứa bé.
“Không được,” tôi hét lên. “Spencer, em muốn ôm con.”
Anh ấy nhìn chằm chằm vào tôi thật lâu, khiến tôi tưởng tượng anh ấy đang tua lại kỷ niệm giữa hai chúng tôi như một bộ phim. Đôi mắt anh lóng lánh nước mắt. Sau đó anh kéo ghế sang cạnh giường và ngồi vào đó, ôm Lily để tôi ngắm con. Anh khẽ mỉm cười, khiến tôi thoáng tin tưởng Spencer sẽ hiểu được thứ gắn kết gia đình không phải dòng máu mà là tình yêu thương giữa người thân. “Cissy, em nghỉ ngơi đi,” anh dỗ dành tôi. “Anh sẽ chăm sóc con.”
Trong bất kỳ thời đại nào, chúng ta luôn chịu toàn bộ ảnh hưởng từ những giá trị đạo đức của xã hội…
Những định kiến dân tộc hay tôn giáo đang tồn tại dai dẳng trong cộng đồng có thể trở thành công cụ cho kẻ xấu chia rẽ xã hội và ngăn cản sự phát triển của nhân loại.
— Elin Anderson, Công Dân Nước Mỹ:
Một nghiên cứu về sự chia rẽ trong xã hội, năm 1937.
Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang chạy trốn. Mặc cho mưa rơi xối xả, bùn đất lầy lội dưới chân, tôi phải chạy trốn khỏi kẻ đang truy đuổi mình. Lúc ngoái nhìn ra sau, tôi nhìn thấy người đàn ông thường xuất hiện trong mơ, với mái tóc dài và đôi mắt trầm lặng. Anh ta gọi tên tôi, và khi quay lại, tôi thấy anh ta trượt ngã sõng soài trên mặt đất. Lo rằng anh ta có thể bị thương, tôi ngừng lại và nhận ra tôi đang hướng thẳng đến bia mộ mang tên mình.
Choàng tỉnh, tôi cảm thấy có gì nằng nặng trên đùi. Spencer đang gối trên đùi tôi. Lúc đầu, tôi tưởng Spencer đang ngủ nhưng chợt nhận ra anh ấy đang sụt sùi. Mùi rượu toát ra từ cơ thể và tia máu in hằn trong mắt khiến tôi hoảng sợ.
“Cissy,” anh lên giọng. “Em tỉnh rồi sao?”
Cơ thể tôi đau đớn như vừa bị đập nhừ tử hết ngày này qua ngày khác. Chân tôi yếu đến mức không cử động được. Ai đó, hoặc Spencer, đã ép gạc lạnh vào giữa hai chân tôi để ngừa băng huyết. Tôi hỏi, “Lily, con bé đâu rồi?”
Spencer hôn lên tay tôi và nghẹn ngào đáp. “Cissy.”
“Con gái em đâu rồi?” Tôi gượng dậy.
“Cissy, con bé quá non tháng. Hai lá phổi…”
Tôi chết lặng.
“Con bé không qua khỏi, Cissy.”
“Lily!” tôi hét lên, gượng bước xuống giường nhưng Spencer ngăn tôi lại.
“Em không thể thay đổi được gì đâu. Không ai cứu nổi nó.”
“Có bác sĩ DuBois mà.”
“Ông ấy có ca phẫu thuật ở Vergennes. Ruby đã để lại lời nhắn để ông ấy về nhà là thấy ngay. Nhưng khi Ruby về đến nhà, con bé đã…”
“Em cấm anh nói ra lời đó,” tôi gằn giọng, “Anh không được phép nói vậy.”
Anh ấy cũng òa khóc. “Con bé qua đời trong vòng tay anh. Con bé ngừng thở khi anh đang ôm nó.”
Tôi chỉ muốn con. “Em phải nhìn mặt con bé.”
“Không được.”
“Em phải nhìn mặt con bé!”
“Cissy con bé được chôn cất rồi. Chính tay anh đã chôn con.”
Tôi bật dậy, đấm túi bụi vào người Spencer. “Anh không thể làm vậy. Không được mà!”
Spencer ghìm chặt tay tôi, kéo tôi lại. “Chúng ta không thể rửa tội cho con, không thể chôn con trong nghĩa trang nhà thờ.” Tiếng thổn thức bật ra từ cổ họng Spencer. “Anh sợ nếu nhìn thấy con bé, em sẽ đi theo nó. Anh không thể lại mất thêm em nữa. Chúa ơi, Cissy em muốn anh phải làm sao?”
Phải mất một lúc tôi mới hiểu được những lời Spencer nói. Vợ chồng tôi không thể rửa tội cho con, không để chôn con trong nghĩa trang nhà thờ vì đối với Spencer, con bé là con ngoài giá thú. Spencer ôm choàng lấy tôi trong khi tôi vẫn chưa hết sửng sốt. Anh ấy thì thào, “Em yêu, không nên để người khác biết.”
Mắt tôi bỏng rát, cổ họng đau buốt, “Spencer, vậy những lần sau em sinh con ra vẫn giống vậy thì sao? Anh phải buộc tội vợ anh ngủ với bao nhiêu thằng Gypsy trước khi nhận ra em đang nói thật? Trước khi anh ném em đến bệnh viện để triệt sản?” Tôi lắc đầu. “Mẹ em đem lòng yêu một người thổ dân. Bà ấy gây ra lỗi lầm, không phải em. Còn em sai chỉ vì em lỡ yêu anh.”
Tôi rất muốn hỏi Spencer sẽ cảm thấy thế nào nếu nhìn thấy tên mình nằm ngay dòng cuối của mấy sơ đồ phả hệ do chính tay anh vẽ ra? Nhưng thay vào đó, tôi vươn tay nhặt cái chăn dành cho trẻ sơ sinh rớt dưới chân giường. “Đưa em ra chỗ ngôi mộ.”
“Em vẫn còn quá đau buồn. Em cần phải… ”
“Em cần phải thấy mộ con gái em. Ngay bây giờ.”
Spencer đứng dậy, nhặt từ trong khay dụng cụ đặt cạnh giường ra một cái kéo và một con dao, đút chúng vào túi áo trước để đảm bảo an toàn. “Ngày mai đi,” anh ấy hứa hẹn và hôn lên trán tôi. “Cissy, vợ chồng mình làm lại từ đầu nhé.”
Tôi nhìn chằm chằm vào anh ấy lâu đến mức toàn thân cứng đờ. “Được thôi Spencer.” Tôi đáp bằng chất giọng cố hữu của mình. Hai tay tôi đang run lẩy bẩy, nhưng tôi phải theo được trò chơi của anh ấy đến cùng. Tôi phải cân nhắc đến nước cờ tiếp theo.
Giữa phong trào voelkisch, quan điểm nhân sinh
voelkisch rốt cuộc đã thành công trong việc
tạo ra một kỷ nguyền nơi tầng lớp quý tộc không còn
quan tâm đến việc nâng cao chất lượng giống nòi của
chó, mèo hay ngựa mà tập trung vào công tác cải thiện
nhân loại. Đó chính là kỷ nguyên khi nhiều cá nhân
công khai hoặc âm thầm từ bỏ cả tín ngưỡng
để sẵn sàng hy sinh và cống hiến.
— Adolph Hitler, trích tự truyện Mein Kampf, Quyển II,
viết trong tù năm 1924, trước khi “Đạo luật bảo vệ xã hội khỏi
giòng giống hạ đẳng” vốn là một phần trong Chương Trình
Diệt Chủng của Đức Quốc Xã được thông qua năm 1933
Lily vẫn còn sống. Sau một hồi suy ngẫm, đây là đáp án duy nhất. Nếu không thì vì sao Spencer cứ khăng khăng từ chối không cho tôi thấy con bé, hay cỗ quan tài, thậm chí là ngôi mộ? Hàng trăm phỏng đoán hiện lên trong tâm trí tôi: anh ấy chắc chỉ tạm giấu con bé đi, chờ đến khi có cơ hội mang đến bỏ ngoài bậc thang nhà thờ; hay anh ấy đã bảo Ruby mang con bé đến bỏ tại trại mồ côi; cũng có thể anh ấy đang chờ bác sĩ DuBois đến giải quyết. Còn một lý do nữa khiến tôi cố sống sau khi sinh con: Tôi phải tìm thấy con gái mình.
Tôi chờ đến khi biết chắc Spencer đã vào phòng làm việc thì mới dám thay quần áo. Động tác như rùa bò vì cái đầu nặng trịch và đôi chân run rẩy vì cơn sốt. Tôi nhét tẩu thuốc của Sói Xám vào túi áo đầm và thắt dây buộc ủng hai lần. Quan trọng hơn hết, tôi phải sẵn sàng để bỏ trốn. Tôi cẩn thận vặn tay nắm cửa như điệp viên tình báo và rón rén bước dọc hành lang.
Đầu tiên tôi tiến đến phòng tắm, âm thầm rà soát từ giỏ áo quần đến bồn tắm. Tôi ép mình phải nhìn vào trong bồn xả nước toilet. Khi chẳng tìm thấy gì, tôi xộc thẳng đến phòng Ruby trên lầu ba, trút hết đồ đạc trong hộc tủ và ngăn kéo ra ngoài, lật tung giường ngủ và đảo lộn toàn bộ giá sách. Làm xong hết từng đó việc, tôi khuỵu xuống.
Nghĩ kỹ lại nào, tôi ra lệnh cho chính mình. Dùng đầu óc của Spencer ấy.
Vòng xuống tầng trệt, tôi lục soát từng ngõ ngách và tất cả những nơi có thể giấu một đứa bé sơ sinh. Tôi nhón chân bước vòng qua phòng làm việc của Spencer, nơi có tiếng ly tách thủy tinh lanh canh phát ra. Lúc đến được nhà bếp, tôi gần như bật khóc. Lúc này con bé chắc đang đói bụng lắm; chắc đang lạnh lắm. Khóc lên con ơi, để mẹ tìm thấy con.
Tôi sẽ ôm con bé vào lòng thật chặt; tôi sẽ ủ ấm cho nó. Trên hành trình đến Canada, tôi sẽ kể cho con bé nghe những khung cảnh dọc đường: đàn bò thơ thẩn trên đồng cỏ, hoa cỏ lửa nở rộ hai bên đường, dãy núi nhấp nhô như đường cong của phụ nữ. Hai mẹ con tôi sẽ đứng cạnh Sói Xám bên khu định cư ở Odonak. Sói Xám sẽ chỉ vào chúng tôi mỗi khi ai đó hỏi ông rằng: “Anh bạn là ai?”
Tôi bước vào phòng bếp tối om, thầm nghĩ tới tủ rượu, thùng bột, hầm rượu. Chỉ trong phòng bếp này mà có đến hơn hai mươi chỗ để giấu con bé. Vừa mới bước một bước vào căn bếp tối đen và lạnh buốt, có ai đó đâm sầm vào tôi từ đằng sau.
Tôi cố gắng không hét lên, túm lấy sợi dây trên đầu để bật đèn lên cho sáng. Mọi thứ xung quanh trở trên rõ ràng. “Ruby, em đang làm gì ở đây?”
Cô bé run như cầy sấy. “Lấy một ít… thỉnh thoảng mất ngủ, em lén pha một ly chocolate nóng. Em xin lỗi. Em biết đây là ăn cắp.”
Tôi nheo mắt tra hỏi. “Con bé đâu rồi?” Hai tay không ngừng lục soát mấy cái kệ, lật tung mớ giẻ lau và kéo mấy cái thùng qua một bên.
“Ai cơ?”
“Đứa bé. Em đang giúp anh ấy giấu nó đi phải không?”
“Ôi, cô Pike,” Ruby đáp với đôi mắt to mọng nước. “Đứa bé không còn nữa rồi.”
“Ruby, em không hiểu. Con bé vẫn khỏe, con bé chẳng có chuyện gì hết. Tôi chỉ cần tìm được con bé. Tôi phải tìm thấy nó và mang nó rời xa nơi này.”
“Nhưng giáo sư, ngài ấy bảo… ”
Tôi túm lấy vai Ruby. “Em có thấy cái xác không? Có hay không?
“Em thấy… Em thấy…” răng Ruby lập cập va vào nhau nhưng chẳng thể thốt ra câu trả lời tôi muốn nghe.
“Mẹ nó, Ruby, trả lời tôi đi!” Tôi lắc Ruby mạnh hơn nhưng nó giằng ra khỏi tầm tay tôi. Tay Ruby va phải cái kệ chứa củ cải đường và đậu đóng hộp. Một lọ thủy tinh rớt xuống sàn vỡ tan tành. Mặc kệ mùi dấm hăng hắc lan tỏa ra xung quanh, tôi lật mở mấy cái thùng đựng bột yến m?