Phần Ba Chương 8
Người chết vẫn không ngừng giao tiếp với người sống. — THOMAS HARDY
Vào những đêm không phải làm việc ở mỏ đá, Az Thompson dành hàng giờ liền phân tích mớ sự kiện lùng nhùng trong trí óc. Cứ thử sống trọn một thế kỷ đi thì người ta tự nhiên sẽ biết rất nhiều thứ, như cách xác định phương hướng bằng ánh sao, nên an ủi bà quả phụ đang đau đớn như thế nào, gấu trú ẩn ở đấu suốt mùa đông. Ẩn giấu sau mớ lùng nhùng ấy là hàng loạt sự thật trần trụi, ví dụ như thứ bạn truyền cho con không phải là huyết thống mà là lòng dũng cảm. Ví dụ như bạn có thể tìm thấy tình yêu ở những nơi không ngờ đến nhất - tới những hòn đá dọc vùng nước nông trên sông, dưới đáy cái tô chứa đầy đậu đã lột vỏ. Tình yêu còn xuất hiện ngay lúc bạn chẳng hề mong đợi.
Đám bác sĩ gọi đó là chứng mất ngủ, nhưng Az tự biết bệnh mình. Ông không ngủ để không phải tỉnh dậy và tự hỏi vì sao đêm qua mình chưa chết. Ông đã đọc về những vị vua Ai Cập, cũng như Ponce de León và Tithonus, bọn họ đã cố gắng để trường sinh bất tử như thế nào. Nhưng cuộc sống vô tận có gì tốt khi bạn sống lâu hơn tất cả mọi người mà bạn yêu thương? Khi bạn chứng kiến cơ thể mình rã rời từng chút một như chiếc ô tô gỉ sét, dù trí óc vẫn minh mẫn thì có gì hay? Một lũ ngu với mớ thuốc trường sinh và ngôi mộ bằng vàng ròng… ông lắc đầu nghĩ bụng, Hãy nghĩ cho kỹ trước khi ước nguyện điều gì.
Dù mệt rũ rượi nhưng Az chẳng buồn nằm xuống giường. Ông lặng ngắm từng giọt mưa rơi trên mái lều như đang thưởng thức một đoạn phim xưa. Sau bốn tiếng nữa, mặt trời sẽ mọc và ông vẫn còn ở đây.
Đột nhiên ông nghe thấy tiếng khóc. Âm thanh ấy như đồng thời phát ra từ khu rừng và tận sâu bên trong Az, như một cơn đau nhói hơn là âm thanh. Ông tự hỏi mình có thể quăng cảm xúc ra xa để nó dội lại như người ta nói tiếng bụng hay không.
Đó… lại là âm thanh đó.
Đó không phải tiếng sấm. Âm thanh quá trầm so với tiếng trẻ con, lại quá khan so với tiếng phụ nữ. Ồ không, đó là tiếng kinh cầu hồn cho một người đàn ông đã mất đi quá nhiều thứ đến nỗi không tìm được chính mình. Ai đó… có lẽ giống ông chăng.
Az thở dài. Ông chẳng hề tin mấy chuyện tâm linh vớ vẩn. Thứ ấy chỉ dành cho đám nửa mùa thích sắm vai thổ dân. Nhưng Az biết quá khứ có thể lặp lại qua nhiều hình thái khác nhau, từ tiếng cú the thé đến ánh mắt soi mói của người lạ mặt dõi theo ông suốt dọc đường. Và ông hiểu rõ hơn ai hết quay lưng với quá khứ chỉ khiến người ta càng thêm mù quáng.
Nhưng nói lại thì vẫn có người trượt ngã trong đêm tối và khiến mình bị thương.
Dù sao đi nữa, Az mệt mỏi nghĩ, cũng phải đi xem thử thôi.
Ross ngồi trong lều, quấn cái chăn hiệu Hudson Bay của Az Thompson. Quần áo anh dính đầy bùn đất. Tóc ướt nhẹp nhỏ nước vào mắt khi anh nhấp một ngụm cà phê hòa tan mà ông lão vừa pha bằng bếp lò chạy pin. Anh không ngừng run rẩy nhưng không phải do ướt lạnh, mà vì một người phụ nữ với hương hoa hồng. Một người phụ nữ mà - anh cố lắm mới dám thừa nhận - anh đem lòng yêu thương. Một người phụ nữ không còn tồn tại trên cõi đời này.
“Anh không sao chứ?” Az dò hỏi.
Anh trông như mới gặp ma vậy.
Ross không tài nào trả lời được. Anh cúi đầu nhấp một ngụm cà phê nóng đến bỏng rát. Cảm giác đau đớn khiến nước mắt trào ra.
Anh đã thấy làn da cô trở nên trong mờ, và hàng cây trở nên sắc nét hơn Lia. Anh đã thấy vẻ bàng hoàng trên gương mặt cô ấy khi nhận ra tên mình trên bia mộ. Cô ấy cũng chẳng biết gì nhiều hơn Ross. Ross, một người chuyên nghiên cứu tâm linh, anh hiểu quỷ dữ sẽ toát ra mùi thối rữa, anh biết chuyện có con yêu tinh hút lấy sinh lực của một cô bé, nhưng anh chẳng hề ngờ rằng một con ma có thể hôn đáp lại mình.
Hồn ma không phải là hiện tượng thường gặp. Họ là những người vì lý do nào đó vẫn còn một chân vướng bận ở thế giới này và không thể bỏ đi được. Ross đã nghe Curtis Warburton kể về những hồn ma quay về trả thù, và cũng có những hồn ma quay lại vì quên trả hóa đơn tiền điện. Ross nhớ mãi những câu chuyện Curtis kể về những hồn ma quay lại vì tình yêu mà họ đã bỏ lại.
Có khi nào hồn ma quay trở về vì một tình yêu chưa từng gặp gỡ?
Cái giường kêu lên cót két khi Az ngồi xuống. Ông siết tay và nhìn chằm chằm vào Ross bằng đôi mắt đen nóng rực. “Anh có muốn tâm sự về chuyện đó không?” Az khẽ hỏi.
Ross lắc đầu. Anh không thể nói ra. Từng câu chữ, từng ký ức: đó là tất cả những gì anh có được từ cô ấy.
Eli đợi trên ghế bành trong lúc Shelby Wakeman đang thay quần áo trên lầu. Lúc đầu anh ngồi phía bên trái, sau đó lại e ngại tư thế mình ngồi gác tay coi bộ thoải mái quá, nên đành dịch ra giữa ghế. Tay anh cứ vặn vẹo cái mũ đồng phục cho đến khi cô bước vào phòng và khiến anh ngừng thở.
“Tôi xin lỗi; Tôi thường không dám mở cửa nếu chưa điểm trang.”
“Sao cơ?” Eli nuốt nước miếng. “Điểm… cái gì?”
“Ý là trang điểm cẩn thận.” Shelby ngồi xuống ghế đối diện Eli, vén tóc ra sau tai và nhoẻn miệng cười ngượng ngùng. “Anh chắc là Ross… không gặp rắc rối chứ?”
“Không hề có rắc rối nào với tôi,” Eli trấn an cô. Cô cũng như bất cứ ai thấy cảnh sát viếng nhà mình giữa đêm khuya đều nghĩ đến trường hợp xấu nhất. Nếu Eli suy nghĩ cẩn thận, lẽ ra anh phải đợi đến sáng mai. Nhưng anh quá phấn khích với manh mối vừa sáng tỏ dựa trên bản xét nghiệm DNA đến mức cần phải tìm đến ai đó giúp anh kết nối từng tình tiết lại với nhau. DNA của Sói Xám không hề có trên sợi dây thòng lọng, nhưng điều đó không đủ để loại trừ khả năng ông ta là kẻ giết người. DNA của Spencer Pike dính trên sợi dây cũng không đủ là chứng cứ kết tội. Câu hỏi đặt ra chính là ai sát hại Cissy Pike? Cô ấy có phải là nạn nhân duy nhất trong đêm đó hay không?
Eli cố nhẩm đi nhẩm lại mấy ý đó, và tự nhủ lý do xui khiến anh đến đây chẳng hề liên quan đến việc Shelby Wakeman cứ phảng phất trong tâm trí anh suốt ba tuần qua. Cơ thể cô ấy thơm mùi táo, giống mùi hương lan tỏa khắp phòng anh sau khi mơ về cô. Ngoài đời cô ấy còn xinh đẹp hơn. Trước khi kịp nhận ra, anh vươn tay về phía cô, rồi giật mình kìm lại.
Eli hắng giọng. “Tôi, e hèm, tôi cho rằng em trai cô đang nắm vài thông tin hữu ích cho một vụ án.”
Cô lắc đầu. “Chắc không đâu. Ross ít khi ra ngoài lắm, còn dạo gần đây cậu ấy ra ngoài làm việc mà.”
“Săn ma,” Eli đáp.
“Đúng vậy.” Shelby ngước mặt lên. “Chắc anh nghĩ cậu em tôi bị điên chứ gì.”
Eli dợm gật đầu. Anh không tài nào tưởng tượng nổi có ai đó lại dành cả đời người tìm kiếm một thứ chỉ tồn tại trong tưởng tượng. Nhưng lúc nhìn vào đôi mắt màu xanh biển và chiếc cằm thon của cô, anh tưởng như từng tấc da trên người tê dại. “Tôi không biết mình nên nghĩ sao nữa,” anh chống chế.
Một luồng nhiệt bốc lên mặt Shelby. Cô vụt đứng dậy, loay hoay đẩy ô cửa sổ đang kẹt, trong miệng lầm bầm than phiền khí trời oi ả. “Để tôi,” Eli nói và bước đến giúp cô một tay. Hai người đứng cạnh nhau bên khung cửa sổ, vai kề vai. Eli huých mạnh cánh cửa sổ, ngọn gió mát mẻ lùa vào như tách hai người ra.
“Cảm ơn.”
Eli nhìn cô. “Không có gì.”
Dù Eli định nói gì - lúc ấy chắc anh cũng chẳng phát âm nổi tên mình - thì cũng đành chịu vì tiếng bước chân lộp cộp vọng từ trên lầu. “Tôi xin lỗi. Tôi không biết có người ngủ trên lầu.”
“Ethan vẫn chưa ngủ,” Shelby trả lời khi thấy cậu nhóc bước vào phòng. Cậu bé nhỏ con, gầy teo nhưng lại mặc quá nhiều áo quần. Cái mũ che khuất đôi mắt cậu bé và chỉ để lộ nửa khuôn mặt, nhưng Eli vẫn nhìn thấy làn da trắng như sứ. Một tay cậu bé đang băng bó, tay còn lại phồng rộp lên như vừa bỏng nước sôi. Cậu bé thừa hưởng nụ cười thẹn thùng giống mẹ.
“Ethan, con ra ngoài chơi đi,” Shelby ra lệnh.
“Nhưng trời đang mưa…”
“Tạnh mưa rồi. Đi đi.” Cô chờ đến khi cửa đóng và tiếng ván trượt ma sát chói tai trên đường rồi mới quay lại nhìn Eli, hai tay khoanh trước ngực. Trông cô như một người phụ nữ khác hẳn với vài phút trước đây. “Đấy là con trai tôi.”
Eli lặng nhìn móng tay cô bấu chặt vào cánh tay. Tư thế cứng nhắc đến mức tưởng như người cô ấy có thể gãy làm đôi.
“Anh cho là nó không bình thường chứ gì,” cô buộc tội.
Anh muốn đưa tay vuốt dọc lưng cô ấy. Anh muốn nắm chặt tay cô, để cô thả lỏng lần nữa. “Thực ra thì,” Eli đáp, “tôi chỉ đang nghĩ cậu bé thật giống cô.”
• • •
Âm thanh tròn trĩnh như hạt đậu, nhỏ xíu như hòn sỏi cứ vang lên trong đầu Spencer Pike. Dù có chặn bao nhiêu cái gối lên đầu, ông vẫn nghe thấy tiếng trẻ con khóc vang, Spencer quằn quại, cào cấu tai mình đến nỗi máu bật ra thấm xuống cổ áo pi-ja-ma.
“Ông Pike! Lạy Chúa. Tôi cần trợ giúp ngay! cô y tá hét vào bộ đàm.
Cần đến hai người điều dưỡng mới trói được tay Spencer vào hai bên giường. Cách xử lý này cũng từng được áp dụng với Joe Gigapoulopous, gã đàn ông bị chứng hoang tưởng đến mức thỉnh thoảng lại tự gặm cắn ngón tay mình. “Đứa bé,” Spencer thở hổn hển trong lúc y tá đang sát trùng mấy vết cào sâu hoắm quanh tai. “Vứt đứa bé đi mau.”
“Chẳng có đứa bé nào ở đây hết. Ông chỉ gặp phải ác mộng thôi.”
Lúc này, gương mặt ông đã giàn giụa nước mắt. Âm thanh đó như khiến đầu ông nứt ra làm đôi. Vì sao bọn họ không nghe thấy gì? “Đứa bé,” ông thổn thức.
Cô y tá tiêm cho ông một liều thuốc an thần. “Thuốc này sẽ giúp ích cho ông.”
Nhưng liều tiêm này chẳng hề có tác dụng. Thuốc an thần chỉ khiến ông ngủ thiếp đi, quay lại nơi đứa bé đang chờ ông. Ông nằm yên, mắt ngước nhìn lên trần nhà, chờ thuốc ngấm. Ông cảm thấy đôi tay mình thả lỏng, tiếp đó là hai chân và cuối cùng là quai hàm. “Chừng nào tôi mới chết?” Spencer nghĩ thành lời.
Cô y tá chăm chú nhìn ông bằng ánh mắt nâu điềm tĩnh. Mắt Cissy cũng có màu nâu. “Nhanh thôi,” cô nhẹ nhàng đáp.
Spencer thở dài. Câu trả lời của cô ấy còn công hiệu hơn thuốc an thần; chẳng có loại thuốc nào khiến ông dễ chịu như vậy. Đối với đàn ông, sự thật làm họ yên lòng.
Meredith hình dung đàn ông giống như một món phụ kiện, ví dụ như chiếc thắt lưng, ví tiền hoặc đôi giày có mang hay không cũng chẳng sao. Đúng là nếu đi chân đất, bạn sẽ nhận được vài ánh nhìn kỳ quái nhưng chẳng phải những phần quan trọng trên cơ thể đều được che chắn kỹ càng rồi sao? Người cô gặp thì cô không thích, người cô thích lại không có duyên, lý trí của một nhà khoa học trong Meredith đơn giản mách bảo chính cô phải ngừng hẳn đi để còn hạn chế thiệt hại.
Bây giờ là gần 11 giờ đêm, cô đang lái xe về nhà. Đoạn đường từ văn phòng mất bốn mươi lăm phút nếu không kẹt xe, chính là khoảng thời gian duy nhất cô để tâm trí tự do suy ngẫm về những thứ nằm ngoài nhiệm vụ phải làm. Đêm nay, do phải nghiên cứu tế bào trích ra từ bốn phôi của gia đình mang bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, Meredith tránh được chuyện phải đi cùng đồng nghiệp đến bữa tiệc tối vinh danh những công ty khoa học tiên tiến. Martin đúng là mẫu người cô thích - cao dong dỏng, đầy trí tuệ với những ngón tay thon dài của một nhà khoa học. Năm đầu tiên làm việc ở Generra, Meredith mê mẩn Martin đến nỗi sau mỗi lần hai người trò chuyện bên máy photocopy, cô phải trốn vào phòng vệ sinh đến khi má hết đỏ ửng. Lời cầu khẩn của cô đã được ứng nguyện một năm trước, khi sếp phái cô đến dự một bữa tiệc gây quỹ cùng Martin. Trong cơn say chếnh choáng vì rượu sâm panh, anh ta đã dẫn dắt cô vào vũ điệu thần tiên.
Mưa rả rích suốt dọc đường Bờ Biển Phía Đông, ít nhất là cơn đau chân khiến Meredith đoán vậy. Chân trái - cái chân khiến cô vào phòng cấp cứu lúc biết tin về sự tồn tại của Lucy - nhạy cảm không thua bất kỳ thiết bị khí tượng thủy văn nào. Lúc đến chỗ rẽ, cô chuyển hướng suy nghĩ của mình từ đời sống tình cảm chưa hề tồn tại sang Lucy. Cô bé vừa ngừng dùng thuốc Risperdal nhưng chẳng hề có biến chuyển gì. Con gái cô làm đủ thứ chuyện kỳ cục như trò chuyện bên bàn ăn sáng với mấy người chẳng hề tồn tại, cài dây an toàn cho ghế ngồi bên cạnh trống trơn. Vốn là người theo chủ nghĩa khoa học, Meredith đành tự nhủ con gái cô có khiếu tưởng tượng bẩm sinh. Một người kiếm sống bằng việc nhận định cái gì là “bình thường”, giờ phải mở rộng khái niệm để bao gồm cả con gái mình trong đó.
Cô rẽ vào cổng. Ngọn đèn duy nhất còn sáng là ở phòng khách; mọi người đều đã ngủ say. Meredith vất vả bước ra khỏi xe, cố cà nhắc với cái chân lành. Cô đột nhiên nín thở, trầm trồ trước bầu trời đêm lấp lánh ánh sao đẹp tuyệt vời. Cô đã dành quá nhiều thời gian nghiên cứu những thứ bé nhỏ liên quan đến con người đến mức quên mất thế giới này vốn đơn giản như thế nào.
Meredith mở khóa cửa và bắt gặp Lucy ngồi trên cầu thang, áo quần chỉnh tề với một cái vali đặt dưới chân. “Luce?” cô gọi nhưng con gái không hề phản ứng.
“Con bé không nghe thấy con gọi đâu.”
Ruby bước xuống cầu thang. Mái tóc dài trắng như mây xõa xuống sau lưng bà; hai tay bà siết chặt lấy lan can. “Con bé đang mộng du.”
Mộng du sao? Mắt Lucy vẫn mở to. “Bà chắc không?” Meredith hỏi bà ngoại. “Bà từng bị mộng du sao?”
Ruby nghiêng người lại gần Lucy, đỡ con bé đứng dậy. “Bà từng quen một người bị mộng du.”
Lucy theo bà Ruby lên lầu, ngoan ngoãn như một chú cừu non. Meredith bước theo, chân vấp phải cái vali bị bỏ lại. Cái vali bật mở dưới chân cô. Bên trong là một tá búp bê với đủ loại tư thế như đang ăn, đang khóc hoặc đang bơi lội. Đôi mắt búp bê trơ trơ đờ đẫn như những đứa trẻ ốm.
Ai về đến nhà mà nhìn thấy xe cảnh sát đậu ngay trước cửa hẳn cũng hoảng hồn. Ross chỉ kịp đậu xe rồi ba chân bốn cẳng chạy vào, mở tung cửa và hét gọi tên Shelby.
Cô lập tức đứng dậy. “Ross!” Anh nhìn chị gái, quét mắt qua Ethan vừa xuất hiện sau lưng mình cùng tấm ván trượt, rồi lập tức chú ý đến tay cảnh sát đứng trong phòng khách.
Rồi anh trễ tràng nhận ra cô chị đang soi mớ áo quần rách và mái tóc ướt sũng của mình. Có lẽ Shelby đã gọi cảnh sát vì lo cho em trai - chị ấy có thể làm vậy lắm chứ. “Nhìn vậy chứ không có gì đâu,” Ross càu nhàu, thầm nghĩ chị ấy mà biết anh sợ hãi đến mức nào hẳn còn lo gấp mấy. “Tôi vẫn ổn. Anh có thể kết thúc nhiệm vụ tìm kiếm được rồi.”
Nghe vậy, Eli Rochert tiến về phía trước và nói. “Thực ra tôi đến đây để mời anh tham gia vào nhiệm vụ đó.”
Ross muốn nhốt mình trong phòng ngủ tại nhà Shelby. Trong khung cảnh tối om cùng một chai Jameson bên cạnh, anh muốn dùng mũi dao khắc tên Lia lên cánh tay mình. Có lẽ sẽ đau đớn và chảy máu - mặc dù anh dám cá anh sẽ chẳng chết được. Anh biết rõ một điều mà chẳng ai hiểu được - anh đã chết từ lâu; nơi này chỉ còn cái xác không hồn.
Ngồi trong phòng thẩm vấn tại Cục Cảnh Sát Comtosook cùng Eli Rochert và con chó to xù đúng là một kiểu tra tấn khác lạ. Trên bàn bày la liệt mớ ảnh pháp y chụp lúc Lia treo cổ, đôi ủng cô mang và chiếc váy đầm cô mặc lúc xuất hiện trước mặt anh. Nhìn thấy những hình ảnh đó khiến lòng anh đau đớn hơn bất kỳ vết thương nào từ trước đến giờ.
“Lần trước khi gặp nhau, ừm, anh bảo mình đang điều tra cái chết của Cecelia Pike đúng không,” Eli nói.
“Lia”, Ross lẩm bẩm, “cô ấy thích được gọi là Lia.”
Anh cảnh sát cố lắm mới không ra vẻ sốt ruột. Ross nghĩ bụng, mẹ nó. Làm như tôi muốn ngồi đây lắm vậy
“Anh… đã gặp cô ấy, rồi sao nữa?” Eli thắc mắc.
“Anh còn chẳng tin chuyện tôi từng gặp cô ấy thì thắc mắc làm quái gì?”
“Nghe này. Tôi cũng không ham nhờ nhà ngoại cảm tư vấn… ”
Ross cắt ngang, “Tôi không phải nhà ngoại cảm, chỉ có chút linh cảm thôi.”
Ross không nhịn được, đưa tay lật úp bức ảnh pháp y kinh dị chụp Lia. “Tôi chỉ có phần nhạy cảm với hồn ma. Đặc biệt là cô ấy.”
Eli thoáng do dự trước khi mở miệng. “Anh Wakeman, một tuần trước anh năn nỉ tôi lật lại một vụ án từ bảy mươi năm trước. Tôi đã đi ngược lại lý trí và lật lại vụ đó. Tôi muốn tiếp tục điều tra, mặc dù đấy là việc ngoài giờ và không nằm trong phạm vi công tác.” Anh đập tay lên bàn. “Anh nói vụ này có liên quan đến Spencer Pike. Vì sao anh kết luận như vậy?”
“Bộ tộc Abenaki đòi lại khu đất. Ông Pike hoàn toàn có động cơ gây án. Thêm vào việc nơi đó có ma - theo những gì tôi được dạy ma chỉ quay lại ám một vùng đất vì một lý do nào đó. Tôi cho rằng nếu khu đất bị ma ám, con ma chắc phải là người thổ dân - có thể là người bị buộc tội sát nhân. Nhưng hóa ra hồn ma lại là Lia.” Anh quay lưng lại. “Tôi xin lỗi vì làm anh phí thời gian.”
“Không hẳn là phí thời gian đâu,” Eli đáp. “Dựa trên những gì anh vừa kể, nếu hồn ma Lia Pike quay về thì cái chết của cô ấy có gì đó không hợp lý.”
Gương mặt Lia vụt qua tâm trí Ross. Anh lập tức đứng dậy, định rời đi trước khi không kiềm chế nổi tâm trạng. “Bị giết hại lúc mới mười tám tuổi đúng là chẳng hợp lý tí nào. Giờ thì xin phép anh, thám tử Rochert…”
“Để tôi cho anh xem cái này trước khi anh rời khỏi đây được không?” Eli đưa cho Ross một tờ giấy. Ross nhận ra đây là bản báo cáo hiện trường được viết vào những năm 1930. “Pike khai rằng Sói Xám siết cổ cô ấy. Theo như những cảnh sát có mặt ở hiện trường thì đúng là có dấu vết chống cự. Có ảnh chụp nơi cô ấy treo cổ, ảnh chụp dấu vân tay, ảnh chụp cửa sổ phòng ngủ chính bị đập vỡ. Tôi đã lấy được mẫu DNA trong máu nạn nhân, kèm DNA của hai nam giới khác đã có mặt ở hiện trường.”
Ross cố nhịn cảm giác nghẹn ngào trong cổ họng. “Có vẻ như anh đang thuận lợi trên con đường chứng minh Pike là thủ phạm nhỉ.”
Eli vờ như không nghe thấy lời Ross vừa nói mà tiếp tục lý luận. “Tuy nhiên cũng có bằng chứng phản bác kết luận đó. Những bằng chứng này khiến tôi tự hỏi không biết anh có đúng khi phán đoán Spencer Pike đã ra tay với Sói Xám rồi xử luôn vợ mình.”
“Nghe này.” Căn phòng chao đảo trước mắt Ross. “Bây giờ tôi không thể tiếp tục nói về chủ đề này thêm nữa.”
“Tôi chẳng hề muốn anh nói gì. Tôi muốn anh giúp đỡ.”
Ross ngước mắt lên. “Tôi không phải là thám tử.”
“Đúng vậy,” Eli nói nhẹ. “Nhưng anh biết cách tìm được những chứng cứ mà chúng tôi không thấy được.”
Danh sách tang vật:
Án mạng tại nhà Pike, ngày 19 tháng 9 năm 1932
Thu được từ kho lạnh:
Thòng lọng, bị cắt rời
Túi da
Tẩu thuốc
Ảnh chụp: dấu chân trên mùn cưa trong kho lạnh, xác nạn nhân
Thu được từ nạn nhân:
Đôi ủng
Váy đầm
Đồ lót/ băng vệ sinh
Ảnh chụp: ảnh khám nghiệm pháp y
Thu được từ phòng ngủ chính:
Danh sách tên khách mời cho tiệc tối diễn ra một tuần sau đó
Chăn, gối, ga giường, áo ngủ - dính máu
Chăn giữ ấm cho trẻ sơ sinh
Chậu kim loại
Ảnh chụp: cửa sổ bị đập vỡ
Ảnh chụp: nội thất bị xáo trộn
Ross về đến nhà vào lúc rạng đông. Anh bước vào nhà, thầm cảm ơn Chúa vì Shelby đã ra ngoài. Anh nhanh chóng bước lên lầu, khóa trái cửa, chẳng buồn thay áo quần mà cứ thế trèo lên giường, mặc cho cảm xúc đau đớn dâng trào.
Những lúc suy tính về cuộc sống cá nhân, Ross luôn tưởng tượng mình sẽ độc thân suốt đời. Chuyện xây dựng gia đình chưa bao giờ nằm trong dự định của anh. Anh không hề e ngại trách nhiệm, cũng chẳng phải xấu xí hay quá ham hố cuộc sống tự do. Nhưng cứ mỗi lần muốn trao trái tim cho ai đó, anh chợt nhận ra sự thiếu vắng của một người đã đi xa.
Xung quanh anh vẫn có vài bóng hồng. Cô phục vụ ở Duluth đưa anh về nhà, còn gửi tặng một suất bò hầm đêm hôm nọ, một bà mẹ thương con quanh năm chẳng nhận được một lời tốt đẹp nào từ ông chồng thương gia, cô bệnh nhân mang vết sẹo kinh khủng sau khi điều trị ung thư vú cần được nhắc nhở mình vẫn xinh đẹp như thế nào. Nhưng cũng có những người phụ nữ chỉ muốn anh trong một hai đêm rồi sẵn sàng bỏ rơi anh ngay khi nhận ra anh cần họ nhiều thế nào. Làm sao có người phụ nữ nào dám yêu anh - gã đàn ông không chịu ra khỏi giường mấy tuần liền, dù không ngủ được, lại còn tự tử hụt hết lần này đến lần khác đến mức tin rằng mình bất tử, một kẻ không biết yêu thương chính bản thân anh ta?
Ross kéo gối đè lên đầu. Anh muốn một người phụ nữ có chung cảm xúc với mình - như thể cô ấy luôn thấy bất toàn, cho đến khi họ gặp nhau, sẵn sàng từ bỏ tất cả để theo anh từ thế giới này sang thế giới bên kia, tin tưởng tất cả những giây phút tồi tệ mà cô ấy một mình trải nghiệm chính là dành cho thời khắc họ ở bên nhau.
Anh muốn một người phụ nữ chẳng hề có thật.
Có tiếng gõ cửa, nhưng Ross phớt lờ. Chắc Shelby tưởng anh đã ngủ rồi. Anh vùi đầu vào chăn.
“Này.” Cô ngồi xuống mép giường, nhẹ nhàng đặt tay lên phần vai giấu dưới lớp chần. “Chị biết em chưa ngủ.”
Anh kéo chăn xuống. “Làm sao chị biết?”
“Vì em có bao giờ ngủ đâu.”
“Chuyện gì chẳng có lần đầu tiên,” Ross càu nhàu.
Anh lặng nhìn Shelby lần gấp ga giường thành hình quạt rồi thả tay để nó bung ra. “Anh cảnh sát đó muốn gì?”
“Chẳng có gì.”
“Anh ta đến tận đây, đưa em về đồn cảnh sát mà không có mục đích?”
“Để em yên, Shelby. Nếu chị muốn ra vẻ gà mẹ thì sang thử nghiệm với con trai chị ấy.”
“Nhưng cái đứa đang khóc nhè không phải là con trai chị.”
Ross quệt ngón tay lên má - Chúa ơi, anh chẳng để ý. “Bây giờ em không có tâm trạng.”
“Ross, kể cho chị nghe…”
Anh nằm vật ra giường, lấy tay che mắt. “Shel, nghe này. Em không có bị bệnh gì sắp chết. Em cũng không làm gì phạm pháp. Em chỉ có một đêm khốn nạn nhắc em nhớ vì sao mình chẳng nên tốn công yêu đương làm quái gì. Vậy nên chị làm ơn quay về phòng, đến thư viện hoặc bất kỳ chỗ nào đó, để em tự liếm vết thương, có được không?”
“Em bị cô gái đang hẹn hò đá à?”
“Em chẳng hẹn hò với ai hết.” Thực ra là có. Không hẳn.
“Cô ấy là ai?”
Ross chống tay lên cùi chỏ. “Cô ấy là hồn ma của người phụ nữ bị sát hại bảy mươi năm trước,” anh đáp, hả hê chứng kiến Shelby há hốc mồm rồi nằm lại xuống gối. “Chính xác là vậy đó.”
“Em nhìn thấy ma?”
“Em nhìn thấy ma. Chạm vào ma. Và hồn ma nữa.
“Em đã hôn một hồn ma?”
“Em yêu một hồn ma sâu sắc đến mức lòng mình tan nát.”
“Ross, được rồi đấy…”
“Đừng nói gì hết, Shelby. Đừng nói gì hết. Em hoàn toàn, một trăm phần trăm, chắc chắn biết chuyện gì đã hoặc không xảy ra với mình.”
Giọng anh trở nên quyết liệt, ánh mắt điên cuồng. “Ross,” cô nhẹ nhàng nói, “trên đời này làm gì có ma.”
Anh nổi cáu lên với chị gái. “Sao chị biết? Nếu chỉ vì chưa từng nhìn thấy, làm sao chị biết chắc thứ gì đó không tồn tại. Có thể mắt chị không có khả năng nhìn thấy, hoặc thứ ấy ngụy trang quá tốt, hoặc chị chưa đủ may mắn để thấy được thôi.”
Ross đang tự biện bạch cho bản thân mình, nhưng với Shelby, lời anh nói cũng đúng với căn bệnh của Ethan. Biết đâu trong tương lai các nhà khoa học sẽ tìm ra phương pháp chữa khỏi bệnh khô da sắc tố XP. Cô đột nhiên nhận ra dù con ma đó có thật hay không thì ngay lúc này, anh cần tin là nó tồn tại. Anh cần chị tin rằng hồn ma đó là có thật.
Cô cũng từng trải qua cảm giác đó mà.
Ross đưa tay dụi mắt. “Lạy Chúa, biết đâu em bị điên. Lẽ ra em nên bị cách ly.”
“Người khác cũng chẳng ít điên hơn em. Ai chẳng có lúc như vậy.”
“Nhìn thấy ma sao?”
“Đem lòng yêu một người không hề có thật.”
Shelby vuốt tóc em trai. Mê đắm một thứ gì đó cũng đồng nghĩa với việc nhìn nhận mọi thứ một cách mù mờ. Chỉ khi bắt đầu yêu thương, người đó mới biến thành hiện thực.”
Ross gục đầu vào vai chị, nấc lên. “Cô ấy đi rồi,” anh nghẹn ngào. “Cô ấy bỏ em mà đi rồi.”
Shelby cúi đầu hôn lên trán em trai và bảo, “Vậy thì tìm cô ấy đi.”
Ngày tháng: 21 tháng Chín năm 1932
Thời gian: 1 giờ 15 phút chiều
Người được phỏng vấn: Bà Wilmetta Sizemore
Người phỏng vấn: Cảnh sát Duley Wiggs
Địa điểm: Cục Cảnh Sát Comtosook
Hỏi: Bà nhìn thấy Cissy Pike lần cuối cùng là khi nào?
Đáp: Một tuần trước, tại Câu Lạc Bộ Ethan Allen, vợ chồng chúng tôi đã ăn tối với cha cô ấy, ông Harry Beaumont. Tôi quen biết Cissy được mấy năm rồi; cô ấy là người vợ hoàn mỹ hết lòng yêu thương giáo sư Pike và sắp sinh con đầu lòng.
Hỏi: Cô ấy có dấu hiệu bất thường nào vào đêm đó không?
Đáp: Tôi không nghĩ vậy… ồ, đợi đã. Cissy có làm đổ một ly rượu. Một anh phục vụ người Gypsy đến thu dọn nhưng lại động tay động chân với cô ấy. Giáo sư Pike tức điên đến mức túm áo đẩy cậu ta xuống đất. [Tạm ngừng] Tôi không biết tên cậu phục vụ người Gypsy ấy. Nhưng anh nên tìm hiểu thử xem.
“Trời đất ơi,” Eli gắt ầm lên khi nghe thấy tiếng rơi đổ ầm ầm. Anh lao ra khỏi phòng tắm với nửa gương mặt còn dính đầy kem cạo râu và chạy xuống lầu, rối bắt gặp Watson đang trốn chui trốn nhủi dưới bàn phòng khách. Nhìn thoáng qua phòng khách, anh lập tức đoán hoặc có ai đó vừa đột nhập hoặc con chó béo gần 70 cân đang rượt đuổi thứ gì đó. Tivi rớt khỏi kệ, gối đệm chẳng còn nằm trên sofa, còn cái ghế dựa lưng thì ngã chỏng chơ bên cạnh ô cửa sổ bị đập vỡ. Eli cúi xuống gần con chó. “Nhả ra nào.” Anh đưa tay ra, và Watson rụt rè há miệng, để con chuột rớt vào tay Eli.
Eli quẳng con chuột qua ô kính vỡ. “Được lắm, giỏi đấy Watson. Giờ nhà mình mở tiệm McDonalds bán mang đi cho xe hơi được đấy hả.” Tai chú chó cụp xuống. “Tao đoán mày sẽ nói đấy không phải lỗi của mày. Ồ phải rồi, mày còn thông minh hơn thế nữa. Mày chẳng buồn nói gì hết cơ mà.”
Chú chó rên rỉ rồi rúc mũi sâu hơn vào tấm thảm. Eli chỉnh lại ghế sofa, rồi đặt tivi lên kệ. May mà tivi chưa tan tành. Thở dài ngán ngẩm, Eli lại gần ô kính vỡ và dựng cái ghế lên. Mấy mảnh kính vỡ lấp lánh bên bậc cửa sổ, nhưng vì cửa sổ bị đập vỡ từ bên trong nên hầu hết mảnh vỡ đều rơi xuống bụi đỗ quyên.
Đột nhiên anh quay ngoắt lại, chạy lên lầu như điên. Lần này chú chó theo sát anh. Trong phòng ngủ, Eli lật tung mớ hồ sơ đặt trên tủ cho đến khi tìm ra tập hồ sơ chứa ảnh chụp hiện trường vụ án. Hình ảnh vụ án mạng ở nhà Pike được chụp từ bảy mươi năm trước, có kèm phim âm bản cỡ 4x5. Đây vẫn là nguồn ảnh tốt nhất và chụp sắc nét nhất tính đến tận bây giờ. Eli quét mắt qua tấm ảnh chụp nội thất phòng ngủ của Cissy Pike. Tiêu điểm của bức ảnh là giường ngủ, nhưng lấy được cả ô cửa sổ phía sau. Có gì đó lấp lánh bên bậc cửa? Còn sàn nhà thì sao?
Eli gãi cằm, giật mình vì mặt còn dính kem cạo râu. “Chờ cạo râu xong,” anh nói với Watson, “tao với mày lái xe dạo một vòng nhé.”
Rod van Fleet dí sát vào mặt Ross. “Nói rõ ràng xem nào,” anh ta gằn giọng. “Có đúng là anh tìm ra một con ma?”
Ross gật đầu. “Không phải anh yêu cầu tôi tìm sao?”
“Không!” Rod vung tay lên trời và lùi ra xa. “Tôi chỉ bảo anh đến kiểm tra khu đất. Tôi chưa từng mong anh sẽ tìm thấy thứ gì cả.” Anh ta ngồi lên chiếc xe kéo đối diện Ross. “Vậy tôi nên làm gì bây giờ? Tưới Nước Thánh lên toàn bộ khu đất hả? Hay chờ xem đầu sếp tôi xoay ngược 360 độ?”
“Khu đất ấy không phải bị quỷ ám. Chỉ là một hồn ma thôi.”
“Ôi, tuyệt vời,” Rod mỉa mai. “Cảm ơn vì lời giải thích của anh. Tôi phải làm sao nếu nó theo ám mấy công nhân?”
“Chuyện đấy khó có khả năng xảy ra. Curtis Warburton luôn khẳng định ma chỉ quan tâm đến chuyện riêng của họ.”
“Vậy chắc cô ta sẵn sàng chuyển đi nơi khác nhỉ?”
Ross lắc đầu. “Theo lời Curtis, ma chỉ bỏ đi khi nào nó muốn. Nếu nó thoải mái với chỗ hiện tại, cảm thấy gắn bó, hoặc đơn giản là nó ương bướng thì không đời nào dời đi đâu.”
“Curtis nói thế này. Curtis nói thế khác. Vậy còn chính anh thì nghĩ thế nào?”
Ross im lặng một lúc thật lâu. Rốt cuộc anh đành thừa nhận, “Tôi cũng không biết nữa.”
“Vậy thì để tôi nói mình nghĩ gì. Nếu tòa án bỗng dưng tin vào câu chuyện vớ vẩn này và cho rằng có một hồn ma còn quanh quẩn tại đây, tôi sẽ bị rút giấy phép xây dựng. Chuyện đó có nghĩa một trong hai phải cuốn xéo… và với một mức phí nhỏ, tôi tin anh sẽ khiến con ma kia chuyển đi nơi khác.”
Mặt Ross trở nên tái mét. “Tôi không thể ép cô ấy rời đi.”
“Vậy tôi sẽ tìm người làm được việc đó.”
Hai người hằm hè nhìn nhau, sau đó, Ross nhảy khỏi xe kéo mà không nói lời nào. Rod lặng nhìn anh bỏ đi. Đám công nhân còn chẳng thèm nháy mắt. Nhưng xét lại thì bọn họ chỉ làm công ăn lương - nên mấy chuyện lẻ tẻ như mặt đất đóng băng vào tháng Tám, cán xẻng chỉ cần chạm vào là gãy ngang, hay đinh chẳng bao giờ chịu đóng cho thẳng chỉ giúp tăng tiền làm ngoài giờ. Trong khu thương mại anh xây có một con ma. Vậy thì sao? Anh có thể kiếm lời từ nó. Mở một nhà hàng mang tên “Nhà hàng An Nghỉ” chuyên bán mấy món rùng rợn. Khi báo chí phỏng vấn, anh sẽ lạnh lùng phát biểu đầu tư cho nơi này đúng là một pha đánh cược lớn.
Hoặc… anh cũng có thể không xây dựng khu thương mại. Chẳng phải vùng New England có đầy nhà nghỉ có chuyện ma ám trên gác mái hay sao. Nếu anh đã có sẵn một con ma, vậy sao không xây khách sạn tại đó?
Dĩ nhiên rốt cuộc anh vẫn phải tìm ai đó trục xuất con ma đi chỗ khác.
Chỉ để phòng hờ thôi.
Rod rút điện thoại ra từ túi áo và bấm 411. “Mỏ đá Angel xin nghe,” một giọng nói đáp lại.
Anh kiểm tra số điện thoại, gác máy rồi gọi lại. Khi tổng đài rốt cuộc nhấc máy, Rod thở phào nhẹ nhõm. Anh cứ tưởng mình lại nghe giọng vừa rồi. “Vâng,” anh đáp, “tôi muốn gặp anh Curtis Warburton.”
Phòng xét nghiệm Pháp y tại Montpelier phân loại vụ án dựa trên mức độ nghiêm trọng. Chuyện này có nghĩa kết quả phân tích bằng chứng tìm được trong vụ giết người có thể xong trong một ngày, nhưng một vụ trộm đơn giản có thể kéo hàng tuần. Eli quá rành quy tắc này nên đã gọi cho Tuck Boorhies, một kỹ thuật viên từng cộng tác trước đây. “Một vụ giết người sao?” Tuck sửng sốt. “Tại Comtosook á?”
“Đúng vậy,” Eli xác nhận. Anh chỉ không nói rõ vụ án này xảy ra vào bảy mươi năm trước.
Tuck lấy ảnh chụp từ Eli. “Trời. Sao lại ảnh trắng đen?”
Thợ chụp ảnh hiện trường là người theo chủ nghĩa thuần túy. Mất bao lâu vậy?”
“Còn tùy anh định đứng đó thúc hối tôi trong bao lâu,” Tuck đáp, quét hình chụp vào máy vi tính có cài Photoshop. “Anh muốn phóng to chỗ nào?
Eli chỉ tay lên màn hình, máy tính tập trung vào cửa sổ phòng ngủ và sàn gỗ cạnh đó. Anh kỹ thuật viên bấm vài nút, chỉnh lại độ tương phản tối sáng. “Anh thấy gì không?” Eli hỏi.
“Sàn nhà.”
“Anh thấy trên sàn nhà có gì không?”
“Không có gì hết,” Tuck trả lời.
Eli nhe răng cười. “Vậy thì đúng rồi.”
Mười phút sau anh đã lấy được hình chụp phóng to sàn gỗ kèm vài tấm hình khác, trong số đó có một bức ảnh chụp cảnh ngoài sân, ngay dưới cửa sổ bị đập vỡ. Trên thảm cỏ, ngay dưới chân thang dựa vào nhà là vài mảnh nhỏ lấp lánh như kính vỡ. “Trong nhà không hề có mảnh kính vỡ,” Eli nói với Watson lúc nó đang thở hổn hển trong xe trên đường về nhà. “Nhưng lại có mảnh kính vỡ ngoài sân. Nghĩa là chẳng có ai vào bắt cóc cô ấy, mà cô ấy bỏ ra ngoài. Nhưng nếu không bị bắt cóc, vì sao cô ấy phải trốn ra ngoài?”
Eli giảm ga nhường đường cho xe khác. “Cô ấy không hề bị bắt cóc, đúng vậy. Cô ấy đang bỏ trốn. Vì sao người ta lại trèo cửa sổ thay vì đi bằng cửa chính? Vì bạn không muốn để người khác biết mình bỏ trốn. Hoặc có thể bạn muốn xuống lầu nhưng không xuống được vì cửa phòng ngủ và cửa sổ đều bị ai đó khóa trái, nhốt bạn lại trong phòng.”
Anh quay qua nhìn chú chó cưng. “Câu hỏi tiếp theo: Vì sao đồ đạc dưới tầng trệt bị xáo tung? Trong lời khai với cảnh sát, Pike nói Sói Xám đột nhập vào nhà qua cửa sổ. Nếu đúng vậy thì Sói Xám sẽ không tẩu thoát bằng cách kéo nạn nhân xuống tầng trệt - anh ta phải rời đi bằng lối vào mới đúng. Nghĩa là có người khác xáo trộn căn nhà.” Anh thầm dựng lại tình tiết vụ án và thử kết luận. Anh bật đèn xi-nhan rối rẽ sang lối khác. “Mọi manh mối,” anh lẩm bẩm, “đều hướng đến Pike.”
BÁO CÁO ĐIỀU TRA
NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT: TREO CỔ
CÁCH CHẾT: TỰ TỬ
Tình tiết liên quan đáng lưu ý:
vừa mới sinh con
KHÁM NGHIỆM BÊN NGOÀI
Xác chết là phụ nữ da trắng đã trưởng thành và khỏe mạnh với diện mạo phù hợp với lứa tuổi đã ghi nhận. Tóc vàng. Mắt nâu. Con ngươi đồng đều với kích thước mỗi bên đạt 6mm. Xác chết có chiều cao 158 cm, nặng 58 kg. Không có sẹo. Tình trạng cơ co cứng ở mức trung bình. Tình trạng tụ máu tử thi được ghi nhận ở hai bàn tay, cẳng tay, bàn chân và cẳng chân. Phía sau thân người có tụ máu nhẹ.
Hai mắt lồi. Trên cổ có vết đỏ dài 2cm hiện rõ phía trước, vết đỏ kéo dài từ ngay trên sụn tuyến giáp đến ngang tai. Có chấm xuất huyết trên da ngay trên vết đỏ. Dịch nhầy lẫn máu rỉ ra từ miệng và hai lỗ mũi. Lưỡi lè ra ngoài, đầu lưỡi có màu tối và khô nứt. Phần da dưới cổ có nhiều vết cào dài.
Khám nghiệm vùng ngực cho thấy hai bên vú bị sưng. Không có dấu hiệu tụ máu. Khám nghiệm vùng bụng cho thấy bụng lồi lên với nhiều vằn kẻ. Tử cung nằm trên xương mu 10 cm đã được khám nghiệm. Khám nghiệm tứ chi cho thấy có nhiều vết tụ máu trên hai cổ chân và cổ tay.
XÉT NGHIỆM NỘI KHOA
Xác chết được mổ bằng vết rạch chữ Y thông thường. Vị trí nội tạng vùng ngực và bụng bình thường. Dịch màng phổi và dịch màng bụng không đáng kể. Khám nghiệm cổ cho thấy không hề có dấu hiện thương tổn tại sụn tuyến giáp hay xương móng. Chỉ có dấu hiệu tụ máu dưới vết đỏ nêu trên.
Phổi trái nặng 300 gram còn phổi phải nặng 280 gram. Phía sau thùy phổi dưới có dấu hiệu sung huyết. Tim nặng 350 gram. Không có dấu hiệu nào bất thường. Gan nặng 1200 gram, khi mổ gan có 600cc máu ở dạng lỏng. Ngoài ra, gan có dấu hiệu nhiễm bệnh gan sung huyết nhẹ. Tuyến tụy, túi mật và ống dẫn mật đều bình thường. Lá lách nặng 100 gram, trong và ngoài lá lách không có dấu hiệu bất thường. Khám nghiệm bao tử cho thấy một ít thức ăn đang được tiêu hóa. Không có dấu hiệu dùng thuốc. Không phát hiện ra điều gì bất thường ở đường ruột.
Hai quả thận, ống dẫn nước tiểu và bàng quang bình thường.
Tử cung nặng 450 gram. Màng trong tử cung dày và đang xuất huyết. Thành tử cung dày 2cm. Khám nghiệm buồng trứng cho thấy buồng trứng phải có u nang dài 2cm. Buồng trứng trái bình thường.
Động mạch và tĩnh mạch vùng bụng bình thường. Có dấu hiệu băng huyết nhẹ sau khi sinh. Khám nghiệm vùng sọ và xương sống không phát hiện điều gì bất thường.
KHÁM NGHIỆM HIỂN VI
Lát cắt tụ máu bên sườn phải cho thấy nhiều tế bào bạch cầu trung tính bị vỡ bao quanh những tế bào hồng cầu xuất huyết. Lát cắt phổi cho thấy tình trạng sung huyết và phù nề nhẹ. Không có dấu hiệu viêm phổi. Lát cắt nơi gan sung huyết cho thấy có máu tụ. Lát cắt của những nội tạng khác đều bình thường.
“Wesley, giải thích giúp tôi nào!” Eli năn nỉ. Anh ngồi trước hiên nhà ông bạn già, trên tay là ly nước chanh đá đang đổ mồ hôi. Watson lẳng lặng cuộn mình thành tấm thảm xù cuộn tròn dưới xích đu treo trên cây tuyết tùng.
Wesley Sneap là bác sĩ thị trấn từ hồi chỉ có lèo tèo vài ba bác sĩ - và nghiễm nhiên trở thành bác sĩ pháp y của quận mãi đến năm 1985. Khi các tổ chức chăm sóc sức khỏe nở rộ, cộng thêm bàn tay cầm dao mổ bắt đầu run rẩy, Wesley buộc phải nghỉ hưu. Nhưng ông vẫn giữ kính hiển vi và một phòng thí nghiệm dã chiến dưới tầng hầm. Trên tủ trong phòng khách là hộp thuốc màu đen cũ kỹ phòng khi ai có cần trợ giúp y tế.
“Ồ,” ông thở dài, “cô ấy treo cổ chết. Anh có thể nhận ra dựa trên gương mặt và mấy vết cào trên cổ.”
Ông bác sĩ đọc lướt qua báo cáo thêm lần nữa. “Có nhiều chi tiết cho thấy cô ấy vừa sinh con… như độ dày thành tử cung, sữa non, cân nặng của quả tim. Ổ, cô ấy có xô xát với người khác vài giờ trước khi treo cổ. Trên cẳng chân và cổ tay cô ấy có vết bầm, nhưng dấu hiệu viêm do vết thương chỉ xuất hiện trên cổ tay. Vết bầm nơi cẳng chân cô ấy không có dấu hiệu viêm vì cô ấy đã chết trước khi phản ứng tế bào xảy ra. Chắc cô ấy đã đạp chân vùng vẫy điên cuồng để thoát đi.”
“Thời điểm tử vong là lúc nào?”
“Để xem nào,” Wesley nhíu mày. “Chẳng có gì nhiều trong dạ dày, nhưng chắc là vì cô ấy mới chuyển dạ. Nhưng chúng ta có thể đoán từ thời điểm bị treo cổ… phải mất một thời gian để tình trạng tụ máu tử thi, tức là máu đọng thành vùng, xuất hiện trên tay và chân… cũng phải bốn đến năm tiếng. Xác cô ấy không thể nào bị treo lâu hơn bốn đến năm tiếng, vì quá thời gian đó thì máu sẽ tụ lại một chỗ cố định. Nhưng máu lại dồn ra sau lưng khi xác được hạ xuống.”
“Người chồng khai với cảnh sát là anh ta hạ cái xác xuống khoảng mười giờ ba mươi phút sáng… nhưng kẻ giết người đã đột nhập vào nhà lúc nửa đêm.”
Wesley lắc đầu. “Lời khai không khớp. Dựa trên báo cáo khám nghiệm tử thi, nếu xác cô ấy bị hạ xuống lúc mười giờ ba mươi phút sáng… thì thời điểm treo cổ phải là khoảng sáu giờ sáng.”
“Nếu cô ấy bị treo cổ lúc nửa đêm thì sao?” Eli thắc mắc.
“Vậy thì xác cô ấy bị hạ xuống lúc sáu bảy giờ sáng. Không thì vết tụ máu tử thi đã cố định một chỗ và không dồn ra sau lưng.”
Ông bác sĩ lôi một tiêu bản nhét trong hồ sơ pháp y và giơ ra trước ngọn đèn. “Hả?”
“Ông thấy gì sao?”
“Này, tay bác sĩ pháp y có nhắc đến vết bầm bên sườn phải kèm theo dấu hiệu gan sung huyết. Có vẻ gã ta đã gom hai chuyện thành một và cho rằng đấy là vì chấn thương vật lý. Nhưng ở đây, anh ta còn nhắc đến chuyện gan có hình quả nhục đậu khấu, thấy không? Anh ta cho rằng đấy là vì mạch máu giãn nở vì hội chứng suy tim phải.”
“Vậy thì sao?”
“Cứ tưởng tượng gan là đường cống dự phòng: khi tim không hoạt động bình thường thì mọi thứ sẽ nghẽn lại trong gan. Nhưng cô ấy qua đời đột ngột nên những triệu chứng này chưa kịp phát tác.” Ông liếc mắt qua tiêu bản rồi bảo. “Xuống tầng hầm với tôi. Tôi sẽ cho anh xem kỹ hơn.”
Eli theo Wesley xuống tầng hầm. Đàn ông bình thường sẽ dành nơi này làm xưởng thủ công hoặc phòng tập thể hình, nhưng Wesley lại dành không gian cho một bàn xét nghiệm bằng thép không gỉ và một quầy chất đầy dụng cụ và kính hiển vi. “Tôi vẫn nhớ vụ án này,” ông ta nói, vươn tay lấy chất nhuộm màu đặt trên kệ. “Hồi tôi chuyển đến Comtosook năm 1943, người ta vẫn nhắc mãi về vụ này. Tôi còn nhớ mỗi lần đến đêm Halloween, đám thanh niên choai choai còn rủ nhau vào rừng sau nhà Pike để hôm sau có chuyện mang đi khoác lác trên trường học.”
“Thật sao? Bọn chúng nói gì?”
“Thật ra cũng chẳng có gì nhiều. Bọn chúng vào rừng là vì thách đố nhưng khi trở ra thì im thin thít. Tôi đã từng chữa trị cho một cậu nhóc vốn là ngôi sao bóng bầu dục. Cậu ta không thể nói gì suốt tháng Mười Một, phải đưa đi Boston gặp một chuyên gia chảnh chọe để kiểm tra thanh quản và mấy bộ phận khác.”
“Rốt cuộc chuyện gì xảy ra với cậu ta?”
“Không có gì, xét về mặt sinh lý. Một ngày nọ lại nói chuyện bình thường như chưa hề có chuyện gì xảy ra.”
“Ông cho rằng có chuyện gì xảy ra với cậu ta tại khu đất nhà Pike sao?”
Wesley nhún vai. “Tôi cho rằng có những chuyện tác động lên cơ thể người nhưng không được ghi chép trong sách vở. Ví dụ như trầm cảm có thể giết anh, hoặc yêu đương có thể khiến thế giới quay cuồng. Dù đám bác sĩ kia cứ bắt cậu ấy thử hết xét nghiệm này đến xét nghiệm khác, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng dây thanh quản của cậu ta có vấn đề gì. Suy luận của tôi đã đúng… đó là hậu quả do phải nén đau buồn.” Ông đẩy tiêu bản xuống kính hiển vi rồi hít một hơi. “À há.”
“Cái gì vậy?”
“Tơ huyết đọng lại bên trong mao mạch hình sin và có vài vùng xuất huyết. Còn có hoại tử vi nghẽn mạch tại tế bào gan.”
“Lạy Chúa, Wesley, nói cho người thường nghe hiểu đi.”
Wesley gỡ kính rồi đưa tay dụi mắt. “Tiền sản giật là một biến chứng nguy hiểm lúc mang thai. Ảnh hưởng còn nghiêm trọng hơn nếu dẫn đến hội chứng HELLP - nói ngắn gọn là bệnh tan máu, men gan tăng cao, tiểu cầu suy giảm. Hội chứng này chỉ được phát hiện cách đây hai mươi năm. Sau khi biết rõ triệu chứng, người ta đã tìm ra phương pháp chữa trị. Nhưng hồi đó lại là chuyện khác… bệnh tình chuyển xấu nhanh lắm. Tôi cho rằng gan sung huyết là vì hội chứng HELLP… chứ chẳng phải vì va đập đâu đó như tay bác sĩ pháp y đã phán bừa đâu.”
“Điều này có ảnh hưởng gì đến hướng điều tra của tôi không?”
Ông bác sĩ lắc đầu. “Không hẳn vậy. Chuyện này chỉ có nghĩa là nếu không chết vì treo cổ, Cissy Pike cũng sẽ qua đời vì nguyên nhân tự nhiên vài ngày sau đó.”
Làn da Spencer Pike ngả vàng xỉn như giấy da mục. Ống thở oxy cắm thẳng vào mũi. Ông ta lặng nhìn Eli bật băng ghi âm với vẻ bất mãn của một người biết mình chẳng còn sống được bao lâu và không muốn dành quãng thời gian ít ỏi đó với một người xa lạ. “Theo tôi biết thì bán một mảnh đất thuộc quyền sở hữu của mình đâu có gì phạm pháp.”
“Đúng vậy,” Eli tán thành. Anh liếc qua mấy cụ già trong viện dưỡng lão đang ngồi trong nhà ăn nhấm nháp món gì đó không rõ nhưng hẳn là thích hợp với người rụng hết răng. “Chẳng qua tôi tự hỏi vì sao ông lại quyết định bán khu đất.”
Pike cười khùng khục. “Tôi chỉ muốn tiếp tục lối sống sung sướng đã thành thói quen. Thám tử à, anh cứ nói với mấy gã thổ dân rằng mảnh đất ấy là của tôi. Tôi có quyền tổ chức lễ hội ở đó nếu muốn. Tôi có thể quyên tặng nó cho mấy gã da trắng có chức có quyền nếu muốn. Và nếu tôi muốn giao mảnh đất cho mấy gã quy hoạch đất để đổi lấy tiền, thay vì chờ chính quyền bang Vermont sung công sau khi tôi qua đời, thì đó cũng là đặc quyền của tôi.”
Lúc đó, Eli chợt nhận ra hai điều: Spencer Pike nghĩ anh đến để xoa dịu căng thẳng với đám thổ dân Abenaki đang nổi loạn, và Spencer Pike không hề nhận ra Eli mang một phần dòng máu thổ dân châu Mỹ bản địa. Anh lập tức nắm lấy thời cơ. “Có vẻ như ông đã vài lần va chạm với bộ tộc Abenaki?”
“Mẹ kiếp, đúng vậy! Một trong số chúng còn giết hại vợ tôi.”
“Đúng vậy, báo cáo cảnh sát có ghi nhận. Chắc chuyện đó đau khổ lắm.”
“Cô ấy là tình yêu của cuộc đời tôi. Không ai muốn chôn vợ và con mình trong cùng một ngày cả.”
“Tôi được biết là mộ của hai mẹ con nằm trong khu đất phải không?”
“Phải.”
Eli nghiêng đầu. “Không chôn trong nghĩa trang nhà thờ sao? Ông rất năng nổ trong giáo đoàn suốt những năm qua mà…”
“Con tôi chết lúc mới sinh,” Pike kể. “Rồi vợ tôi qua đời. Tôi… chưa chuẩn bị tinh thần để họ ra đi. Tôi muốn vợ và con ở một nơi mà họ có thể tìm tôi và tôi có thể tìm họ.” Ông quay lưng đi, sau khi chắc chắn Eli nhìn thấy mình đang khóc.
Hồ sơ gốc chẳng hề đề cập đến cái xác đứa bé. Eli đã rà soát và đoán cảnh sát hồi đó chẳng chịu điều tra đến nơi đến chốn. Nếu không thì bất kỳ bác sĩ pháp y nào cũng sẽ thực hiện khám nghiệm tử thi. Mặt khác, nếu một người đàn ông giàu có đầy quyền lực gọi đến báo án rằng vợ anh ta bị giết hại, chẳng cảnh sát điều tra nào lại muốn xát muối vào vết thương của anh ta. Nếu Pike khai đứa bé mất lúc mới sinh, họ đành phải tin là vậy.
Eli biết người ta chỉ nhìn thấy thứ mình muốn nhìn, và cảnh sát điều tra cũng không ngoại lệ. “Ông đã phát hiện ra vợ mình,” Eli nhắc lại.
“Tôi là người cắt dây hạ xác cô ấy xuống. Tôi biết mấy người các anh muốn… giữ nguyên hiện trường. Nhưng tôi không thể chịu đựng được khi nhìn thấy cô ấy như vậy. Giống như là…” Giọng ông ta lạc hẳn đi. “Giống như cô ấy đang rất đau đớn.”
“Còn cha của bà nhà thì sao?”
“Cụ Harry? Ông ấy sống trên khu Đồi. Ông ấy đang dự hội nghị tại Boston và lập tức quay về nhà. Không bao giờ gượng dậy nổi sau khi biết Cissy bị giết hại… chìm trong rượu chè rồi mất hai năm sau đó.”
Ông cụ ở Boston. Vậy là có thể loại ông ta ra khỏi diện tình nghi. “Ông có nhìn thấy cái ghế nào để vợ ông đứng lên không?” Eli thắc mắc. “Vật gì đó mà vợ ông có thể dùng để trèo lên cao?”
“Vợ tôi bị giết hại,” Pike đính chính, giọng khô khốc. “Nếu muốn tự tử thì cô ấy phải với tới nóc nhà - chỗ ấy cách sàn nhà đến ba mét, và chẳng có vật gì đủ cao để cô ấy đứng lên hết.”
Eli thẳng thắn đáp lại cái nhìn chằm chằm của ông già. “Thưa ông Pike, tôi chỉ muốn tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Dựa trên những tranh chấp xung quanh chuyện bán mảnh đất kia, chúng tôi đã có vài manh mối mới về Sói Xám. Theo suy luận của tôi thì vụ án này vẫn chưa được giải quyết hợp lý.”
“Tôi cũng thấy vậy.”
Eli chờ một lúc, biết rằng im lặng chính là cách gây áp lực mạnh mẽ nhất, nhưng Pike không thú nhận thêm điều gì. Một cô y tá mỉm cười tiến lại gần. “Đến giờ trị liệu rồi.”
Eli đứng dậy nhìn theo ông già đang bị đẩy ra ngoài. Anh chờ đến khi y tá rẽ xe lăn vào góc và mấy bệnh nhân khác mải xúc ăn, rồi lôi từ trong túi ra một đôi găng tay cao su, mở túi zip mang theo từ nhà và chôm cái ly nước để trên khay của ông cụ.
• • •
Mọi thứ tại Comtosook đã trở lại bình thường.
Mấy cái đồng hồ ngừng đúng nửa đêm mấy tuần trước đã hoạt động lại; mấy cái xích đu trong sân chơi không còn rên rỉ khi trẻ con ngồi lên; đám bươm bướm xám xịt đã lấy lại sắc màu tươi tắn. Mấy bà mẹ rón rén ra khỏi nhà thả bọn trẻ chơi đùa trên phố. Đám bọ cánh cứng phát sáng bám đầy cây bạch dương đã biến mất. Mớ ảnh chụp nhanh chóng phai màu trong tiệm rửa ảnh nay lại hiện rõ, đúng là đã có thay đổi.
Những gã làm nghề mai táng từ khi tìm thấy một bông hoa mẫu đơn nguyên vẹn trong miệng mỗi khách hàng đến giờ vẫn giữ thói quen kiểm tra răng miệng của người chết. Abe Huppinworth sáng nào cũng ra quét sân trước cửa hàng bách hóa mặc dù trên sàn sạch bong kin kít. Mấy người thương nhân trung tuổi thường ngủ quên giờ lại nghe tiếng chuông báo thức, nhưng vẫn lại ngoan cố trùm chăn kín đầu, như thể cứ thế là đi vào cõi mộng. Nói chung, ai trong thị trấn cũng cảm thấy trống rỗng vì thiếu vắng thứ gì đó mà họ không hình dung được.
Shelby chỉ kịp chạy ra khỏi văn phòng luật sư, vọt vào bụi cây và nôn. Một lúc sau, cô chùi miệng bằng khăn giấy, ngồi bệt bên lề đường thầm mắng nhiếc chính mình. Viết di chúc là chuyện hết sức bình thường, người lớn ai cũng đến lúc phải làm vậy, nhất là khi cô còn có một cậu con trai.
Nhưng Shelby biết rõ Ethan sẽ chẳng bao giờ được thừa hưởng chỗ tài sản mà cô vừa chuyển lại cho con mình trong di chúc.
Shelby sinh con giữa lúc trời nổi cơn giông tố. Thomas lái xe đến bệnh viện bằng chiếc xe mui xếp cũ của hai vợ chồng. Mui xe bị kẹt lúc mở ra rồi không đóng lại được nên dọc đường cao tốc, người Shelby ướt đẫm nước mưa giữa cơn đau xé lòng. Khi họ đỡ lấy đứa bé sơ sinh và đặt nó lại gần Shelby, nhìn đứa bé mềm nhũn như không xương, nhớp nháp như con ếch mà cô không kìm được nước mắt. “Nhìn xem,” cô cứ lặp đi lặp lại với Thomas. “Anh đã thấy đứa bé nào như thế này chưa?”
Ethan là đứa bé trai xinh xắn nhất. Lúc Shelby đưa Ethan về nhà, ai cũng phải trầm trồ với dáng vóc khỏe mạnh, mái tóc đen, bàn tay nắm lại như nắm đấm và đôi mắt màu ngọc lam của cậu nhóc. Người ta cứ mãi xuýt xoa, “Đấy là một đứa bé hoàn hảo.” Nhưng hóa ra thiếu sót của Ethan không phải là thứ dễ nhận ra bằng mắt thường.
Lần đầu tiên cậu bé bị ánh mặt trời làm bỏng da là hồi sáu tháng tuổi. Lúc đó Thomas và Shelby vẫn sống gần bờ biển tại New Hamsphire và đang lái xe đến Khu bảo tồn chim Plum Island. Vào tháng Mười, chẳng có ma nào đến bờ biển. Trên bãi cát dài hoang sơ, bên cạnh đám chim hải âu đang tranh nhau mấy cái bánh quy giòn, hai vợ chồng đặt Ethan đang ngủ say xuống bãi cát rồi hôn nhau, tay luồn vào trong áo người kia, từng sợi tóc rin rít vì không khí đẫm vị muối. “Em cảm giác mình là học sinh trung học,” Shelby đùa lúc Thomas tháo cúc quần jeans và luồn tay vào giữa hai chân cô. Thomas cười phá lên, “Học sinh trung học không đi xe hơi có ghế trẻ em đâu,” anh đáp.
Mải đắm chìm vào nhau, hai vợ chồng không để ý đến việc làn da con trai đã biến thành màu quả dâu tằm, càng lúc càng sậm màu dưới ánh mặt trời. Hai người không biết những vết tưởng như vết phát ban hóa ra là bỏng