← Quay lại trang sách

Chương 9

Ross nghĩ Eli Rochert xứng đáng xuống Địa Ngục. Đâu không cần phải gặp trực tiếp một người mới gọi là quen biết họ. Sao không thử đọc từng dòng nhật ký và cảm nhận sự kết nối giữa hai tâm hồn? Sao không lật qua từng lá thư tình ố vàng để tái hiện lại tình yêu? Sao không kết nối tâm tình qua hai bàn phím qua khung chat trên Internet? Ross hiểu Lia, gã cảnh sát nhận định sai rồi - nếu cô ấy ngoại tình, anh ắt phải biết.

Vì nếu ngoại tình thì chỉ có thể với anh.

Ngay lúc này, Rod van Vleet đang mời người đến đọc kinh cầu hồn, cố gắng thu hẹp phạm vi linh hồn Lia có thể lang thang. Chắc anh ta cũng bắt đầu thuyết phục Lia, rằng thế giới này không còn thuộc về cô nữa.

Ross cau có rời giường, loanh quanh trong căn phòng ngủ nhỏ như một con vật bị nhốt trong lồng. Anh hiểu Lia nhưng lại không biết cảm giác cơ thể cô áp sát với cơ thể anh là như thế nào, cảm giác ra sao khi móng tay cô đâm sâu vào vai anh giữa màn đêm nhịp nhàng chuyển động xung quanh hai người. Anh hiểu Lia, nhưng như vậy là chưa đủ.

Từng có những lúc Ross tin vào Chúa. Không phải vì Chúa Trời tử tế hay công bằng, mà vì Chúa Trời thích chơi khăm. Chúa thích phạt những người phạm phải lỗi lầm không thể tha thứ bằng cách nhử treo thứ anh ta thích nhất trước mặt, rồi giật lại để Ross ngã sấp.

Những bức tường trong lòng anh đã khép kín, nút thắt trong cổ họng khiến không khí như tắc lại. Anh vô thức nắm lấy chiếc CD của Ethan, tay siết chặt đến nỗi lớp vỏ nhựa gãy làm đôi. Mồ hôi túa ra. Hộp sọ quá chật chội để chứa bộ não.

“Được rồi,” anh lẩm bẩm một mình. “Được rồi.”

Chuyện đang diễn ra - anh nhìn vào gương tủ quần áo nhưng ánh mắt không thấy được ảnh phản chiếu mà chỉ thấy thứ vũ khí có thể dùng. Anh cảm nhận vết sẹo trên cổ tay trở nên ngứa ngáy. Thế giới anh chưa từng bước vào dần hiện ra trong tâm trí anh.

Xông ra khỏi phòng ngủ, Ross phi xuống lầu, lướt qua Shelby. “Em đi đâu…” cô gọi với theo.

“Ra ngoài.”

Anh vọt qua mặt Ethan vẫn đang chơi dưới ánh trăng. Xe anh phóng ra khỏi lối vào nhà, băng qua những con đường đầy gió bụi của Comtosook. Năm phút sau anh mới nhận ra mình đang lái xe tới đâu. Đến khi anh đỗ xe tại góc đường Otter Creek Pass, màn đêm đã hoàn toàn buông xuống.

Những người Abenaki đến biểu tình đã quay về khu lều nghỉ đêm; mấy tay nhà báo chưa bị gọi về tòa soạn đang chui rúc trong khu Best Western tại Winooski. Tạ ơn Chúa vì không thấy bóng dáng Rod van Vleet hay mấy gã điều tra hiện tượng tâm linh hay rung chuông và thổi còi lởn vởn quanh đây. Dãy máy xúc và cần cẩu khổng lồ đang duỗi thẳng cổ ngủ say sưa.

Ross chui qua dải băng và hàng rào xây dựng, tiến thẳng đến trung tâm khu đất. Gần nửa căn nhà vẫn còn ở đó, cắm chặt vào mảnh đất sau khi Rod van Vleet ra lệnh dỡ nhà. Gã quy hoạch nhà đất đã từ bỏ việc xây dựng khu trung tâm thương mại ngay tại đó. Miếng đất cách đó một trăm thước phía bên trái đang bị máy xúc đào bới để đổ bê tông. Ross hít một hơi thật sâu: Đây là nơi Lia từng ngồi ăn tối hoặc uống cà phê sáng. Kia là là nơi cô ngả lưng vào mỗi chiều Chủ nhật êm ả. Cô đặt tay Spencer Pike lên bụng mình và nói với anh mình đã có thai.

“Lia!” Tên cô bật ra từ cổ họng anh, nghe như gọi hồn.

Anh đứng đó chờ một lúc. Mảnh đất nhà Pike tĩnh lặng một cách bất thường, cứ như tất cả hoạt động đều im bặt. Không có sóc chuột trèo lên cây, không có tiếng chim ríu rít, không có tiếng ễnh ương vọng ra từ đám cỏ. Anh phải tìm thấy Lia trước khi mấy tay nghiên cứu hiện tượng tâm linh muốn trục xuất linh hồn cô.

Ross quay lại, bước về xe trong im lặng, trầm tư suy nghĩ. Anh cảm nhận được cô không có ở đây. Những kẻ được van Vleet thuê đều mong được gặp một linh hồn - nhưng không nhất thiết phải là Lia. Dù sao Ross cũng là người duy nhất từng nhìn thấy cô.

Nếu anh đưa cho họ một con ma, một linh hồn khác, để dàn xếp vụ này thì sao?

Anh chạy nhanh về phía xe. Lúc anh đứng cách căn nhà đang bị dở bỏ khoảng ba phần tư dặm, một cánh hoa hồng rơi xuống từ bầu trời không ánh sao, chao lượn rồi hạ xuống ngay dấu chân Ross để lại phía sau.

Meredith không dám mơ một ngày tuyệt vời hơn - thời tiết đẹp, bầu trời trong xanh, và khu thương mại giữa tháng Tám mà không đông đúc như cô nghĩ. Thêm vào đó, con gái cô không còn cần đến những viên thuốc trị rối loạn thần kinh vốn chẳng có tác dụng gì trong việc cải thiện hành vi của cô bé - và còn nhiều lý do khác để ăn mừng.

Cả nhà chậm rãi dạo bước vì có Ruby đi cùng. Mặc dù bà kiêu hãnh đến nỗi không hề than phiền về cái hông đau, Meredith vẫn chú ý đến vẻ nhăn nhó trên gương mặt bà mỗi khi bước đi. Ba bà cháu đã đến ngắm những con gấu trúc tại Vườn Thú Quốc Gia, rồi dạo qua Bảo Tàng Lịch Sử Tự nhiên để trầm trồ về viên Kim Cương Hy Vọng, sau đó chạm vào mặt tràng trong Bảo Tàng Hàng Không Vũ Trụ. Bây giờ họ đang quay về bãi đỗ xe, trên tay mỗi người là một cây kem ốc quế.

“Theo cháu,” Meredith huyên thuyên, “tất cả con đường trên thiên đàng đều được lót bằng sô-cô-la.”

“Điều này nghĩa là thời tiết trên đó không thể nóng và ẩm,” Ruby suy luận. “Đáng để thêm một sao vàng trên bản hướng dẫn du lịch.”

Một gia đình đang bước về phía họ - chắc là khách du lịch vì đeo máy chụp hình và mặc áo thun FBI. Gia đình tách ra để vòng qua Meredith, Lucy và Ruby như dòng sông rẽ hướng rồi lại tập hợp với nhau. “Mẹ?” Lucy nói. “Con có thắc mắc này.” Lucy đặt câu hỏi suốt ngày - từ thói quen tắm rửa của mấy con khủng long đặt trong viện bảo tàng đến chuyện tổng thống ở đâu khi khách tham quan tràn vào nhà ông. “Tại sao mẹ lại không kết hôn với người khác?”

Meredith dừng bước. Trong phòng thí nghiệm, cô từng giảng giải cho Lucy nghe về quá trình hình thành sự sống, chỉ cho cô bé thấy tinh trùng và trứng kết hợp, sinh ra phôi thai và rốt cuộc biến thành bào thai. Xét về khía cạnh khoa học, tình yêu không hề liên quan đến sự sinh sản. Người cha chẳng khác gì người hiến tặng, và Meredith hoàn toàn đồng tình với nhận định đó.

Từ sau Lucy Ruby ném cho Meredith một cái nhìn sắc lẻm.

“Ồ. Mẹ không cần phải kết hôn nữa. Mẹ đã có con rồi.”

Lucy trợn tròn mắt. “Mẹ, công dụng của chồng không chỉ giới hạn ở việc tạo em bé đâu. Nếu có chồng, chắc mẹ có thể ở nhà nhiều hơn.”

“Con biết vì sao mẹ phải làm việc chăm chỉ…”

Lucy quay mặt đi. “Bởi vì con phải không? Chẳng có người đàn ông nào muốn cưới vợ mang theo con riêng.”

Lucy không. Này” Meredith nắm lấy tay Lucy, dẫn cô bé vào góc tường. “Con yêu,” cô dỗ dành, nhưng Lucy đột nhiên thét lên.

“Đừng ngồi lên anh ta!” cô bé lùi lại khi người qua đường bắt đầu nhìn chằm chằm. “Mẹ, cậu bé kia làm sao vậy?”

Cô chỉ tay nhưng chẳng có cậu bé nào ở đó. “Lucy có chuyện gì vậy con?”

Mắt cô bé trợn to. “Có một cậu bé ngồi đây, mặc áo tù giống như trong phim hoạt hình. Bên cạnh là một người phụ nữ bị hói, và mấy đứa bé… gầy trơ xương nhưng cứ quanh quẩn ở đây. Mẹ không thấy họ sao?”

Một người đàn ông vỗ vai Meredith. “Cô cần giúp gì không?”

“Chúng tôi ổn,” cô ngượng ngùng đáp, mắt vẫn không dời khỏi Lucy “Hít một hơi thật sâu rồi kể cho mẹ nghe những gì con thấy.”

Người đàn ông đang ra vẻ anh hùng tiếp tục lải nhải. “Tôi sẽ gọi bảo vệ,” anh ta nói rồi chạy mất. Meredith nhìn thấy anh chạy ào vào tòa nhà phía trước: Bảo tàng Tưởng niệm Vụ Thảm sát Người Do Thái.

“Họ là những người,” Lucy thút thít, “còn ở lại.”

Văn bản cho phép khai quật hài cốt trong mảnh đất nhà Pike như nóng bỏng tay Eli nhưng anh vẫn khư khư nhét nó trong túi áo gần tim mình để nhắc nhở về những việc anh đang làm và lý do tiếp tục. Kết quả phân tích DNA của Frankie đã phá hỏng hướng điều tra của anh. Nếu Sói Xám là cha ruột của Cecelia Pike thì hai người sẽ không có tình cảm bí mật với nhau. Túi thuốc và tẩu thuốc đều là những món quà. Nhưng Eli vẫn nghiêng về giả thiết Pike là kẻ giết người. Sói Xám vừa ra tù nhưng ngay lập tức đi tìm cô con gái mình chưa từng gặp mặt. Nếu Cecelia biết về quan hệ cha con với Sói Xám, cô có thể sẽ giữ bí mật với chồng mình - khiến Spencer Pike hiểu nhầm khi bắt gặp vợ mình cặp kè với một gã thổ dân. Hoặc biết đâu Pike phát hiện ra gốc gác của vợ rồi tiến hành thủ tiêu bằng chứng vì lo ngại ảnh hưởng đến sự nghiệp cá nhân.

Dù thế nào đi nữa, khiếu nại của bộ tộc Abenaki về mảnh đất là hoàn toàn có cơ sở.

Anh bắt gặp Az Thompson đang đứng kéo lưới săn cá chó bên bờ sông Winooski lúc bình minh. Vai gầy của người đàn ông già nhấp nhô dưới lớp vải áo sơ mi theo từng chuyển động kéo và thả lưới. “Ông tôi từng bắt được một con cá tầm từ hồ Champlain đấy,” Eli vừa nói vừa tiến lại gần từ phía sau.

“Chúng vẫn hay bơi vào đây,” Az đáp.

“Ông từng bắt được sao?”

Ông nhún vai.

“Mẹ tôi từng kể ông tôi hay buộc con cá vào ca-nô, mặc cho nó kéo thuyền ông chạy xung quanh cho tới khi mệt lử thì mới kéo nó đến chỗ cạn rồi xử nó.”

“Kiên nhẫn là mồi câu tốt nhất,” Az tán thành.

Eli nhìn ông quăng một con cá khác vào xô đựng. “Tôi cần ông giúp. Hóa ra Cecelia Pike mang nửa dòng máu của người Abenaki.”

Đưa tay vào hộp đựng mồi câu, Az thoáng ngập ngừng. “Abenaki,” ông thì thào nhắc lại. “Cậu có biết bình minh chỉ đẹp đối với những người không đặt tên theo nó hay không?”

Eli hiểu ông lão hỏi thế chứ không cần lời đáp. “Tôi biết đại loại nên tiến hành một buổi tưởng niệm, không phải sao? Một nơi để… cải táng cô ấy và con gái cô ấy?”

Az ngước mắt lên nhìn. “Chuyện gì sẽ xảy ra với mảnh đất?”

“Tôi không biết,” Eli thú nhận.

Câu trả lời dường như khiến ông lão hài lòng. “Tôi sẽ chăm sóc cho họ,” ông đáp.

“Không phải mấy gói kia,” Ross nói với cô nhân viên tuổi teen đeo khuyên trên lông mày và lỗ mũi tại cửa hàng Gas & Grocery, “Này, gói Merits mới đúng.”

Anh trả tiền cho gói thuốc, đưa mắt nhìn cô gái thối tiền. Ross mở hộp diêm, mồi thuốc và vô tình làm rớt hộp diêm xuống sàn ngay gần giày của người đàn ông đứng xếp hàng đằng sau. Anh ta cuối xuống nhặt giúp Ross. “Cám ơn,” Ross lên tiếng, sau đó người đàn ông đứng thẳng lên. “Curtis phải không?”

Làn môi mỏng của sếp cũ khẽ nhếch lên. “Ross.”

“Anh làm gì ở đây thế?”

“Tôi nghĩ là giống cậu thôi. Tìm một con ma.”

Đầu gối của Ross run rẩy. Rod van Vleet chắc đã tìm một người khác để trục xuất hồn ma đi chỗ khác… và anh là người đã tiết lộ manh mối. “Curtis, nghe này…”

“Không, cậu mới phải nghe này, tên khỉ gió. Lúc bắt đầu hợp tác, cậu đã ký kết điều khoản không cạnh tranh với chúng tôi, cậu nghĩ tôi không dám kiện cậu ra tòa nếu cậu giật mối làm ăn với tôi sao. Cậu chỉ là kẻ nghiệp dư, Ross à. Cậu chẳng biết quái gì về việc chạy chương trình như thế hết.”

Miệng Ross khô khốc như nhét đầy bụi. “Đây không phải là một buổi diễn.”

“Nó sẽ là một buổi diễn.” Curtis chọc tay vào ngực Ross. “Tôi sẽ tìm thấy con ma đó rồi tống cổ nó đi chỗ khác; tất cả những tình tiết đó sẽ khiến chương trình của tôi hút khách.” Anh gạt Ross qua một bên, dằn mạnh một đồng đô la lên bàn thu ngân rồi lấy một cái bánh mì vòng đã ỉu từ giỏ trên quầy trước khi sập cửa lại.

“Gã ta không bình thường hả?” Cô nhân viên thắc mắc, cọ cọ chiếc khuyên trong lưỡi của mình vào hàm răng dưới.

“Đúng vậy.” Ross mồi điếu thuốc, hít một hơi rồi bước ra ngoài hiên cửa hàng Gas & Grocery. Anh sáng bên ngoài chói đến mức khiến anh phải nheo mắt. Nhìn từ đây, bỏ qua dãy máy bơm xăng cũ kỷ từ những năm 1950 và bảng tên đường Moxie cổ, người ta có thể thấy vành đai xanh bao quanh thị trấn với nhà thờ màu trắng tinh xảo. Người ta chỉ cần liên tưởng ngọn đồi đó thành mỏ đá và thung lũng giờ là Hồ Champlain. Đây là thế giới mà Lia quen thuộc.

Anh sẽ cần đến gương và dây câu. Loa, pin kèm theo laptop của Shelby. Nếu Curtis muốn trục xuất một con ma, Ross sẽ cung cấp cho anh ta.

Tất nhiên con ma đó không phải là Lia.

Cecelia Pike bị sát hại khi Duley Wiggs mới hai mươi tuổi và làm cảnh sát được tám ngày. Hiện tại, ông ta đang bị chứng Alzheimer giai đoạn đầu và sống cùng với con gái Geraldine tại vùng Đông Bắc nước Anh. “Có vài ngày ông ấy tỉnh táo hơn bình thường,” cô kể với Eli khi đứng trước cửa kính đang mở ra ngoài hiên nơi Duley đang ngồi trên xe lăn. “Nhưng sau đó lại có những ngày ăn bằng muỗng cũng quên.”

Cô ấy trông như gói trà túi lọc đã được pha nhiều lần đến mức mất hết mọi mùi vị. “Tôi cảm ơn vì cô đã cho phép tôi trò chuyện với ông ấy.”

“Anh có thể trò chuyện bao lâu cũng được.” Geraldin nhún vai và nói. “Nhưng ông ấy nhớ mọi thứ lộn xộn lắm. Tôi nghĩ anh nên cân nhắc những lời ông ấy nói hết sức cẩn thận.”

Eli gật đầu rồi theo cô ra ngoài. “Bố?” Cô gọi lớn như thế ông lão bị điếc. “Bố, có người đến tìm bố. Thám tử Eli Rochert đến từ Comtosook. Bố còn nhớ mình đã từng sống ở Comtosook chứ?”

“Cậu biết đấy tôi từng sống ở Comtosook,” Duley trả lời. Ông cười, mặt nhăn nhúm như vết rạn trên đồ sứ. Ông bắt tay Eli.

“Chào ông Duley.” Eli đã mặc đồng phục cảnh sát với hy vọng gợi thêm vài ký ức. “Tôi có vài câu hỏi muốn hỏi ông.”

“Miranda, sao con không để hai người đàn ông trò chuyện riêng tư nhỉ?” Duley hỏi.

“Con là Geraldine, bố à.” Cô thở dài rồi bước vào trong nhà.

Eli ngồi xuống. “Tôi tự hỏi ông có nhớ gì về vụ giết người khi còn làm việc tại Comtosook không.”

Vụ giết người? Ồ, dĩ nhiên. Chúng ta xử lý rất nhiều vụ giết người. Không, đó không phải là vụ giết người. Đó là những vụ trộm cắp. Đúng vậy, tôi nhớ rồi. Một nhóm ăn trộm tầm bốn mươi tuổi hóa ra lại là hai gã thanh niên hoang tưởng mình là Bonnie và Clyde.”

“Nhưng những vụ giết người…”

“Có một vụ,” Duley kể. “Tôi không nghĩ ai lại quên được những gì xảy ra cho Cissy Pike. Tôi biết cô ấy. Chúng tôi học cùng trường. Cô ta trẻ hơn tôi vài tuổi. Rất dễ thương và thông minh. Được thừa kế từ cha cô. Ông ta là phi hành gia.”

“Ông ta là một giáo sư, ông Duley.”

“Thì tôi nói vậy mà!” Ông lão cau mày ra vẻ khó chịu. “Lắng nghe đi được không?”

“Vâng. Phải rồi. Tôi xin lỗi. Vậy… ông đang nói về vụ cô ấy bị giết hại…”

“Cô ấy kết hôn với một nhân vật có tiếng trong trường Đại học. Pike. Ông ta nổi tiếng khắp thị trấn vì cực kỳ sùng đạo, cậu hiểu chứ? Nhưng ông ta đối xử với Cissy như bà hoàng. Lúc chúng tôi đến nhà sau khi ông ta gọi cho cảnh sát, tôi chưa bao giờ thấy một người đàn ông trưởng thành nào lại khóc lóc như một đứa trẻ.” Ông lắc đầu. “Và sau đó ông ta chĩa súng vào đầu mình, ngay trước mắt chúng tôi…”

“Duley” Eli gọi nhỏ nhẹ, “Spencer Pike không hề tự tử.”

“Tự tử? Ồ, đúng rồi. Đó là một vụ bắt giữ con tin tại bưu điện cuối những năm 50.” Ông xoa trán. “Thỉnh thoảng… thỉnh thoảng mọi chuyện cứ chồng chéo vào nhau như thế.”

“Tôi hiểu mà.” Eli xoay chiếc mũ trên tay. Có lẽ tìm đến ông này không phải là ý kiến hay.

“Bác sĩ pháp y muốn khám nghiệm tử thi đứa bé.”

Lập tức Eli ngẩng đầu lên. “Anh ta muốn khám nghiệm sao?”

“Đúng vậy. Và Olivette - hồi đó đang làm trung úy trinh thám - không cho phép bác sĩ khai quật xác đứa bé. Ông ta nói rằng không nên tiếp tục khiến một người đàn ông như Spencer Pike đau khổ hơn trừ trường hợp bắt buộc.”

“Vậy lúc ông đến nơi, đứa bé đã được chôn cất sao?”

“À ừ. Đâu đó sâu trong rừng. Đất còn tươi mới và thậm chí còn có cả hoa. Pike nói với chúng tôi rằng đứa bé chết lúc mới sinh, khiến vợ anh ta khủng hoảng. Người ta cũng nói anh ấy chôn đứa bé vì muốn giúp vợ mình bình tĩnh lại.”

“Pike lại kể với tôi rằng ông ta chôn vợ và con cùng trong một ngày.”

Không phải vậy, tôi biết rõ sự thật. Tôi đã dự đám tang của Cissy Pike. Chẳng có mấy người tham dự - chỉ có tôi, Olivette, cha cô ta và Pike, vừa đủ người để hạ quan tài xuống hố. Đó là một vụ ầm ĩ vào hồi đó - Anh ta thậm chí không nhờ đến sự giúp đỡ của mấy xơ nhà thờ khi vợ mình qua đời. Anh ta chôn Cissy ngay bên cạnh mộ đứa bé.”

“Ông ta khai với ông mất khoảng bao lâu không? Để gọi cảnh sát?” Eli hỏi.

“Ồ, anh ta không cần phải khai báo với chúng tôi. Chúng tôi ngửi thấy mùi rượu trên người anh ta. Mùi nồng như anh ta tắm trong rượu vào đêm hôm trước.” Duley nhìn về phía căn nhà. “Cậu biết đấy, tôi có ba cô con gái và tôi không thể tưởng tượng được cảm giác thế nào nếu chúng chết khi chào đời. Tôi hiểu Pike đang cố giải tỏa cảm giác khủng hoảng đó. Nhưng anh đã làm quá, bất tỉnh nhân sự đến mức… chẳng nghe thấy ai vào nhà bắt cóc vợ mình rồi lục lọi khắp nhà. Anh ta tỉnh dậy vào giữa sáng. Anh ta gọi cho chúng tôi trước bữa trưa, may mắn thay, nhờ đó bụng dạ tôi bớt nhộn nhạo khi thấy Cissy.”

Theo nhận định của Wesley, xác Cecelia đã bị hạ xuống trước bữa trưa vài giờ.

Ý nghĩ đó cứ quay cuồng trong tâm trí Eli. “Kể cho tôi nghe về Sói Xám đi.”

“Một tên khỉ gió gian xảo. Hắn ta là dân Gypsy - ngày nay người ta gọi là thổ dân châu Mỹ. Nói láo, ăn trộm ăn cắp là chuyện nhỏ với hắn. Mọi người đều biết hắn và gốc gác gia đình hắn. Hắn mới ra tù vì tội giết người. Pike kể hắn ta đã quấy rối Cissy vài tuần trước đó. Chúng tôi tìm thấy tại hiện trường án mạng một số vật dụng cá nhân của hắn ta, kèm thêm tình trạng căn nhà và việc thiếu bằng chứng ngoại phạm thì kết luận hết sức rõ ràng. Sau đó, việc hắn ta biến mất lại xác nhận những nghi vấn của chúng tôi.”

Eli gãi đầu. “Vâng, tôi tự hỏi làm sao anh ta có thể biến mất.”

Vệt ửng đỏ lan ra từ cổ ông. “Việc đó… là lỗi của tôi. Cậu biết đấy, lúc đó tôi mới nhậm chức một tuần nên nghĩ rằng nếu có thể điều tra và kết án hắn, mình sẽ trở thành người anh hùng. Vậy nên tôi chạy ra ngoài giữa đêm khuya như Columbus…”

“Columbo chứ?”

“À đúng rồi. Tôi bắt gặp Sói Xám đang say xỉn trong quán rượu nên túm lấy hắn ta để hỏi cung. Nhưng Olivette mắng tôi một trận và nói rằng chúng tôi chưa lấy đủ chứng cứ để bắt giam tội phạm, còn hỏi cung chỉ tổ làm hắn ta thêm nghi ngờ. Chúng tôi cũng bức cung một chút, theo cách thường làm nhưng hắn ta không nhận tội. Olivette cử tôi theo đuôi hắn ta, giám sát từng hoạt động…” Duley nhìn về phía sân sau. “Nhưng tôi để mất dấu hắn. Một phút trước hắn ta còn ở đó, nhưng một phút sau hắn ta biến mất như chưa từng tồn tại.” Ông liếm môi, rướn người về phía trước và thì thầm. “Tôi có giả thuyết về chuyện đã xảy ra với hắn, cậu có muốn nghe không?”

“Ông có sao?” Eli tiến lại gần hơn.

“Tôi nghĩ…” Duley úp bàn tay đồi mồi quanh tai Eli. “Tôi nghĩ có tay súng thứ hai núp sau đồi cỏ giúp Oswald trốn thoát.” Ông rụt người lại và khoanh tay trước ngực. “Cậu hiểu ý tôi chứ?”

Eli thở dài. “Rất rõ ạ.”

Khi Ethan thức giấc, bầu trời vẫn còn sáng trưng. Cậu bé kéo rèm lại, nhắm mắt làm theo phương pháp cậu Ross dạy, cố cảm nhận từng động tĩnh trong nhà bằng giác quan thứ sáu.

Mẹ đang làm việc tại thư viện. Chuyện này hết sức hợp ý cậu vì dạo gần đây, sống cùng mẹ khó chịu như có dằm mắc trong cổ họng. Mỗi việc Ethan làm dường như đều khiến mẹ tức giận - từ vụ để quần áo bẩn lộn trái trong giỏ mây, tới thời gian lướt web. Cậu chắc sẽ rối loạn tâm lý, nếu như mẹ không cư xử y hệt thế với cậu Ross. Những nạn nhân khác còn bao gồm mấy nhân viên bán hàng qua điện thoại không may gọi tới nhà Wakeman và cậu bé hàng xóm dại dột nện bóng chày làm vỡ cửa sổ gara. “Có chuyện gì xảy ra với chị sao?” Cậu Ross thậm chí còn thắc mắc khi cả nhà đang ăn sáng vào tối qua. Nhưng mẹ cậu giả vờ bận rộn đến mức khiến làm bỏng tay do đụng vào lò, thế rồi, “Em không thấy mình đã ép chị phải làm gì sao?”

Thôi rồi, mẹ khủng hoảng rồi.

Ethan vung chân xuống giường. Mặc vào bộ đồ ngày hôm qua, vẫn vứt trên sàn. Cậu mở cửa nhẹ nhàng và lẻn xuống phòng cậu Ross. Cửa phòng vẫn luôn đóng kín từ lúc cậu Ross cuỗm máy tính của mẹ rồi lén lút làm gì đó như đột nhập vào Lầu Năm Góc hoặc tương tự vậy. Cậu Ross đáng lẽ phải trông Ethan, nhưng chắc cậu nghĩ giờ này Ethan ngủ say rồi.

Ở tầng dưới, Ethan mặc áo khoác, đội mũ, thoa kem chống nắng lên tay và mặt như một thói quen khó bỏ. Sau đó cậu chuồn khỏi nhà từ cửa hông, cánh cửa đó không kêu cót két.

Mặt trời hôn lên gáy cậu, ai biết rằng buổi chiều lại nắng gắt như thế? Ethan cầm lấy ván trượt và kẹp trong nách. Cậu bước xuống đường, quẹo phải, sau đó đặt ván trượt xuống vỉa hè và bắt đầu trượt đi. Một cậu bé đội mũ không chóp lộn ngược đạp xe MX chạy ngang qua Ethan. “Xin chào,” cậu ta lên tiếng như thể Ethan chẳng có gì khác lạ.

“Chào cậu,” Ethan đáp lại đơn giản như đang tán gẫu.

“Ván trượt tuyệt đấy.”

“Cám ơn.”

“Sao lại mặc trang phục mùa đông?”

Ethan nhún vai. “Thế cậu đội cái mũ ngu ngu kia thì sao?”

Cậu bé quay bánh xe. “Tớ đang đến công viên trượt ván đây. Cậu muốn đi chứ?”

Ethan cố gắng giữ thái độ dửng dưng, nhưng điều này thật là khó. Giờ cậu đã hiểu nếu không bước ra ngoài và khiến người khác chú ý đến mình thì sao có thể gọi là thật sự tồn tại trên thế giới này được. “Sao cũng được,” cậu nói một cách lãnh đạm, nhưng từng tấc da lại toát ra nét vui mừng. “Tớ cũng không bận gì cả.”

Nếu mình hôn anh ấy thì sao?

Đã ba ngày trôi qua, câu hỏi đó cứ lởn vởn như cái gai dính chặt trong tâm trí Shelby. Cô hồi tưởng lại tỉ mỉ từng khoảng khắc lúc cô và Eli đứng gần nhau trong không gian chật hẹp; cơ thể anh phảng phất mùi đàn ông như thế nào, vết sẹo nhỏ dưới tai phải anh trông ra sao. Cô nằm trên giường tưởng lượng nguyên nhân vì sao anh có vết sẹo đó: bị thủy đậu chăng, hay vật lộn với một cô gái, hay ngã vào hàng rào sắc nhọn trong khu trượt băng.

Frankie Martine. Shelby thầm nghĩ với diện mạo như thế thì ai thèm quan tâm đến việc cô gái đó có cái tên nam tính thế kia đâu.

Cô tự nhủ rằng mình không hề ghen tuông. Thứ nhất, cô không hề quen thân với Eli Rochert. Thứ hai, với kinh nghiệm ít ỏi của Shelby tình yêu lãng mạn là phải ích kỷ, đòi hỏi và khao khát. Tình mẹ hoàn toàn trái ngược với tình yêu vì chỉ cần đến sự hy sinh. Cô đã hy sinh tất cả cho Ethan nên chẳng còn gì cho người khác. Hơn nữa phải chăng tình yêu cũng hiếm như vàng, không thể bao phủ tất cả dù dát mỏng cỡ nào.

Liệu Eli và Frankie Martine có trải qua bảy mươi hai giờ vừa qua cùng nhau không nhỉ?

Shelby ngồi tại bàn làm việc, tay đặt trên bàn phím như đang chờ đợi một khách quen xuất hiện với một câu hỏi hóc búa. Làm thế nào mà phổi của chúng ta có thể lọc được khí carbon dioxide? Vì sao khủng long tuyệt chủng? Đội Yankees giành cúp vô địch thế giới bao nhiêu lần? Cô biết tất cả câu trả lời. Cô chỉ ngại đặt câu hỏi.

Nhưng đã đến giờ ăn tối, khách tham quan cuối cùng tới thư viện đã ra về hai tiếng trước. Shelby vẫn ở lại đến tận bảy giờ dù chẳng có ai ghé vào. Thở dài thất vọng, cô gục đầu xuống bàn. Cô có thể ngồi mãi ở đây dù Eli hoặc Watson chẳng hề xuất hiện.

Vì vậy khi cái chuông treo ở thư viện kêu leng keng, Shelby bật dậy đầy hy vọng. “Ồ, là cô sao,” cô cất tiếng, nhìn cô thư ký tòa thị chính lảo đảo mang một chiếc hộp màu vàng to đùng nặng trịch. Lại có chuyện gì rồi.

“Đây có thể được xem là chào hỏi không!” Lottie thở hổn hển, chùi tay bẩn vào váy mình.

“Chỉ là… chị đang chờ một người.”

“Anh cảnh sát đẹp trai đó hả?” Lottie cười toét miệng. “Em không biết có khi nào được thấy thứ gì vừa ngon vừa không chứa calo như thế chưa.”

Shelby cười lớn, tiến đến giúp Lottie kéo cái hộp vào quầy trả sách. “Tin chị đi, anh ấy cũng không tốt cho huyết áp của em đâu. Gì thế?”

“Hôm qua bên em thay nồi hơi và tìm thấy khoảng ba mươi thùng hồ sơ mà không ai biết tới… nghe vậy là chị biết nồi hơi đó cổ xưa thế nào rồi đó. Nhưng mà em biết chị đang tìm thứ gì đó từ những năm 1930. Em nghĩ có lẽ chị và chàng thám tử có thể muốn đọc qua chăng.” Cô nhướn mày. “Chị có thể mất cả đêm đấy.”

Shelby mở nắp hộp, ho sặc sụa vì bụi bay mù mịt. Bên trong là hàng chục cuộn giấy. “Bảng kế hoạch à?” Cô với vào trong, mở một cuộn giấy rồi lấy hai cuộn băng Hardy Boys chặn hai đầu cho khỏi quăn lại.

Lời chú thích dường như chỉ ra mối liên quan giữa mấy kẻ nghiện rượu, tàn tật, quấy rối tình dục, con ngoài giá thú và những tên tội phạm. Shelby chú ý đến vài biểu tượng. Đang theo học tại trường cho trẻ chậm phát triển. Thiểu năng. Nghi ngờ bị thiểu năng. Kỳ lạ là những biểu tượng này được sắp xếp theo hướng kim đồng hồ quay để chứng minh những vấn nạn này bắt nguồn từ cặp vợ chồng kém may mắn ở vị trí trung tâm đã kết hôn, sinh con đẻ cái và lan qua thế hệ tiếp theo. Hình thứ hai là biểu đồ cột chia các gia đình thành nhóm “Văn minh” và “Kém văn minh”. Theo chú thích, nhóm “Văn minh” bao gồm những công dân gương mẫu, tuân thủ pháp luật, tự nuôi sống bản thân và tham gia vào công tác xã hội. Nhóm “Kém văn minh” chỉ những người điên và tự sát. Nhóm “Không xác định” gồm những người không hẳn là có biểu hiện điên hay tự sát, nhưng cũng không có những ưu điểm của nhóm “Văn minh”, và thường là những người không biết có đưa ra được quyết định nào đúng đắn trong đời hay không.

“Lottie,” Shelby thắc mắc, “Em tìm được cái này ở đâu?” Cô mở biểu đồ thứ hai và đặt lên biểu đồ thứ nhất. Sơ đồ PHẢ HỆ CỦA GIA ĐÌNH GYPSY, DÒNG HỌ DELACOUR. Một tờ giấy viết tay rơi xuống sàn. “Nói với Harry - chứng rối loạn tình dục hình như liên quan đến nhiễm sắc thể Y di truyền từ bố. Có lẽ nên sử dụng biểu đồ này để vận động cho Đạo Luật Triệt Sản?” Phía trên tất cả tư liệu đều được in tên: Spencer A.Pike, Giáo sư ngành Nhân Chủng Học, trường đại học UVM.

Trong thùng còn chứa đầy sơ đồ phả hệ, thư tín và giấy ghi chú được viết nắn nót bằng tay giải thích những ví dụ dùng trong nghiên cứu về những người có tên trên sơ đồ: Mariette, giới tính nữ, mười sáu tuổi đang ở tại trường giáo dưỡng, có tiền án trộm cắp, cộc cằn, luộm thuộm và có xu hướng tình dục kỳ quái. Oswald có làn da đen, đôi mắt gian xảo, hay lang bạt đây đó theo kiểu du mục, rồi lại “quan hệ bất chính” và sinh ra những đứa trẻ bất bình thường. Shelby lôi ra Bảng Báo cáo thường niên lần thứ tư của chính quyền Vermont về đời sống nông thôn. Giữa trang được đánh dấu là một bài báo viết bởi giáo sư H. Beaumont và S. A. Pike. “Những tính trạng kém ưu việt có thể không xuất hiện rõ ràng,” Shelby đọc lớn. “Nhưng có thể âm thầm tồn tại và sẽ giảm bớt nếu kết hôn với đối tượng phù hợp.”

“Thuyết Ưu sinh,” Lottie cầm một cuốn báo cáo thường niên khác lên đọc. “Cái quái gì thế này?”

“Đây là lý thuyết khoa học tập trung vào công tác cải thiện chất lượng di truyền bằng cách kiểm soát việc sinh nở.”

“Ồ, ý chị là giống như phối giống gia súc sao?”

“Đúng vậy,” Shelby trả lời, “nhưng lại áp dụng trên người.”

Eli đã hết ca trực lúc chín giờ, nhưng trước khi ra về, anh vẫn giữ thói quen tuần tra lần cuối, dạo một vòng quanh thành phố vào ban đêm. Thông thường khi cảm thấy mọi thứ đều ổn thỏa, anh sẽ lái xe về nhà… nhưng tối nay, vụ án Cecelia Pike cứ luẩn quẩn trong tâm trí, khiến anh có cảm giác công việc vẫn chưa hoàn thành.

Anh vô thức lái xe hướng tới khu mỏ, với Watson chễm chệ trên ghế phó lái. Phá vụ án này cũng không giúp anh được biểu dương, cũng chẳng khiến Cissy Pike sống lại. Và cũng không có gã công tố viên nào lại đưa một lão già với căn bệnh gan giai đoạn cuối ra tòa. Vậy thì vì sao nhỉ?

Watson quay qua, dụi đầu vào cánh tay Eli. “Bên ngoài lạnh lắm. Tao không mở cửa sổ bên phía mày đâu.”

Thực ra chuyện về Cissy Pike khiến anh phải trăn trở. Về ý nghĩa của quyền sở hữu - gia đình, người yêu, và gia sản - cũng như cái giá phải trả để che giấu sự thật. Là một thám tử, anh biết dù hiểu rõ một người đến đâu thì cũng có lúc bạn phải sửng sốt vì hành động của người đó. Nhưng hóa ra người ta còn có thể ngạc nhiên vì hành động của chính bản thân mình nữa.

Eli muốn đến dự buổi lễ Az Thompson sẽ tiến hành để nhặt hài cốt của Cissy Pike và con cô ấy. Không những chỉ vì anh là cảnh sát liên quan tới vụ án… mà còn vì anh là một người mang dòng máu lai Abenaki giống như cô ấy. Hơn thế nữa, anh cảm thấy có gì đó về cô ấy vẫn còn là điều bí ẩn.

Watson rón rén xích lại gần, dụi mĩii vào cổ áo Eli. “Được rồi,” anh đầu hàng và mở cửa sổ. Watson thích anh lái xe kiểu này, gió thốc vào mõm nó, khiến lớp da quanh mõm rung rung như lớp cánh tí hon dập dờn. Bỗng nhiên, chú hếch mũi và cất giọng tru lên.

“Lạy Chúa, Watson, người ta đang ngủ đấy.”

Chú chó chỉ tru lên một hồi rồi đứng thẳng lên ghế, vẫy đuôi điên cuồng ngay trước mặt Eli. Eli tấp vội vào lề vì sợ lạc tay lái. Lúc xe vừa dừng bánh, Watson nhảy qua cửa sổ đang mở rồi chồm lên hàng rào bao quanh bức tường phía đông khu mỏ. Chú chó sủa inh ỏi, rồi đứng bằng hai chân sau, và cào móng vuốt vào hàng rào. Ngay lúc đó, có ai đó tiến lại gần. Là một cậu bé mang găng tay. Trời bắt đầu trở lạnh, nhưng chưa lạnh đến mức mặc dày như thế. Eli nheo mắt, cố nhận diện gương mặt dưới vành mũ bóng chày, nhưng anh chỉ thấy được làn da sáng như mặt trăng. “Ethan phải không?” Anh gào lên.

Cậu bé ngẩng đầu lên. “Ôi,”, cậu nói, ỉu xỉu trước ánh mắt của Eli. “Là chú đấy à.”

“Cháu làm gì ở đây? Ai cho cháu vào khu mỏ?”

“Cháu tự vào.”

“Mẹ biết cháu ở đây chứ?”

“Tất nhiên rồi,” Ethan đáp.

Eli biết người ta hẹn giờ nổ trong mỏ vào bình minh ngày mai - họ luôn báo cho cục cảnh sát biết để đảm bảo an toàn. Vì vậy, để Ethan lại gần khu vực gần vụ nổ chẳng phải là ý tưởng hay ho gì. “Trèo qua đây,” anh ra lệnh.

“Không.”

“Ethan, nhấc mông nhảy qua hàng rào và túm lấy cháu là chuyện nhỏ với chú đấy.”

Ethan lùi lại một bước, trong phút chốc Eli đã nghĩ cậu nhóc sẽ bỏ trốn. Nhưng sau đó cậu nhóc ném ván trượt về phía Eli, và trèo lên hàng rào. Cậu ra sức trèo như người nhện rồi nhảy xuống cạnh Eli, giơ cổ tay ra. “Đây này. Bắt cháu vì tội xâm phạm trái phép đi.”

Eli cố nín cười. “Có lẽ chú sẽ mắt nhắm mắt mở một chút vì đây là lần vi phạm đầu tiên.” Anh quay về phía xe. “Muốn kể với chú làm sao mà cháu ở đây không?”

“Cháu lang thang bên ngoài và cứ thế đến đây.”

Eli liếc nhìn găng tay của Ethan lần nữa.

“Mẹ cháu không nói với chú à?” cậu bé cay đắng nói. “Cháu là một đứa quái dị.”

“Mẹ cháu chẳng kể gì với chú cả.” Eli vờ như không hề quan tâm tới việc Ethan muốn tiếp tục trò chuyện hay không. Anh trả ván trượt cho Ethan, quay về chỗ xe tải và huýt sáo gọi Watson. “Vậy thì chào cháu.”

Cậu bé há hốc miệng. “Chú bỏ cháu lại đây mà được sao?”

“Sao lại không? Mẹ biết cháu đi đâu mà.”

“Ý chú là chú tin lời cháu?”

Eli nhíu mày. “Sao chú lại không tin?”

Ethan đáp lại câu hỏi bằng cách ném ván trượt vào chỗ chở hàng phía sau xe tải rồi nhảy lên ghế phụ lái. Eli bắt đầu lái xe. “Khi chú sinh ra, những ngón tay của chú bị dính liền với nhau.” Anh nhận thấy ánh mắt Ethan nhìn chằm chằm vào bàn tay đặt trên tay lái. “Bác sĩ phải cắt chúng ra.”

“Thật là kinh dị,” Ethan buột miệng, sau đó lại đỏ mặt. “Cháu xin lỗi.”

“Này cháu biết đấy, không sao hết. Chú sinh ra đã vậy. Điều này không ngăn cản được những gì chú muốn làm.”

“Cháu bị bệnh XP. Đại loại như dị ứng với ánh nắng mặt trời. Nếu cháu ra ngoài vào ban ngày, thậm chí chỉ cần một phút, cháu sẽ bị phỏng rất nặng. Và điều này cũng không ngăn cản được những gì cháu muốn làm.”

“Ví dụ như?”

“Mặc đồ tắm bơi lội rồi dang nắng dưới ánh mặt trời. Tản bộ khi trời còn sáng. Đi học.” Cậu nhóc nhìn vào Eli. “Cháu đang chết dần.”

“Tất cả mọi người đều vậy.”

“Đúng vậy, nhưng cháu sẽ bị ung thư da. Do những lần tiếp xúc với ánh sáng mặt trời trước khi người ta chẩn đoán được căn bệnh của cháu. Hầu hết những đứa trẻ bị bệnh XP đều qua đời trước tuổi hai mươi lăm.”

Eli cảm thấy lòng mình thắt lại. “Có lẽ chuyện đó sẽ không xảy ra với cháu đâu.”

Ethan lặng nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh mắt xa xăm. Sau đó cậu nói, “Cháu dậy rất sớm, nên không có bạn chơi cùng. Vì vậy cháu đi ra ngoài. Trượt ván, lang thang tới gần trường. Buổi tối thì những đứa trẻ khác phải về nhà và đi ngủ. Còn cháu thậm chí không cảm thấy mệt vì đã ngủ cả ngày rồi. Cháu chỉ muốn đi đâu đó và thế là đến đây. Cháu là đứa quái dị,” cậu lặp lại. “Dù cố gắng đến đâu, cháu cũng không hòa nhập được.”

Eli quay qua nhìn cậu nhóc. “Điều gì làm cháu nghĩ mình khác với người ta?”

Ross ngủ gật trên bàn phím, anh đang sáng tạo ra một con ma. Anh thức dậy, lưỡi chạm vào răng, cảm nhận mùi vị của sự tuyệt vọng. Thậm chí sau khi đánh răng rồi súc miệng với Listerine, anh vẫn không thể làm hương vị đó biến mất - đăng đắng như vị cam thảo, những tinh thể tí hon tan trên đầu lưỡi, để lại vị tuyệt vọng mang màu sắc hoàng hôn. Anh nhăn nhó bước xuống lầu, vào bếp rót ly nước trái cây và chợt nhận ra mình quên béng Ethan. Đã gần nửa đêm - cháu anh hẳn đã dậy được vài giờ rồi.

“Eth?” Anh gọi lớn, nhưng căn nhà vẫn yên tĩnh.

Liếc nhìn ra ngoài cửa sổ, xe Shelby vẫn không thấy bóng dáng. Cũng thật kỳ lạ - chị ấy phải về nhà từ lúc chín giờ rồi chứ, không thể trễ hơn được. Tín hiệu tin nhắn trên hộp thứ thoại chớp tắt như ánh mắt ác quỷ; anh bấm nút. “Ross, Shel đây. Chị vừa tìm ra được vài thứ mà em không thể tin được đâu. Nói với Ethan rằng chị sẽ về nhà sớm, và em phải ở nhà đấy nhé… Chị có rất nhiều thứ muốn kể với em.”

Vậy thì cô không thể nào chở Ethan đi đâu được. Ross mở cửa, nhưng không chạy ra sân trước và cũng không vòng qua sân sau. Anh chạy lên lầu, bước hai bậc thang một lúc rồi mở cửa phòng Ethan. Giường đã được xếp gọn; nhưng bộ đồ ngủ pi-ja-ma nhăn nhúm lại nằm lăn lóc dưới sàn. Cậu nhóc đâu rồi?

Ross cảm thấy khủng hoảng. Bất cứ một đứa trẻ chín tuổi nào cũng có thể gặp rắc rối, nhưng với Ethan, thế giới này còn có những mối nguy khác. “Ethan, không vui chút nào đâu,” anh hét lớn. “Lết cái mông ra đây coi.”

Nhưng anh biết, dù có hét lớn, Ethan vẫn không ở đó để nghe thấy tiếng mình gọi. Anh chộp lấy chìa khóa xe trong phòng, chạy vội xuống lầu. Nếu anh tìm thấy Ethan trước khi Shelby về nhà, sẽ không ai biết là cậu nhóc vừa biến mất.

Đúng lúc anh chạy đến xe mình thì một xe tải tấp vào bên cạnh. Chú chó của Eli Rochert nhảy xổ ra như quen thuộc lắm, sau đó Ethan bước ra khỏi xe. Mắt Ross kiểm tra từng chi tiết một - tất cả đều hoàn hảo, anh mỉm cười. Sau đó anh cân nhắc mình nên răn dạy đứa cháu như thế nào. Anh hết nhìn Ethan rồi tới nhìn Eli vốn đang im lặng khoanh tay. “Cháu muốn kể với chú mình đã đi đâu không? ”

Trước khi Ethan kịp trả lời, Shelby tấp xe vào. Một chiếc hộp lớn nằm trong cốp xe. “Có chuyện gì ở đây thế?” Cô hỏi.

“Không có gì cả,” ba chàng trai đồng thanh.

“Thế thì cảnh sát làm gì ở nhà tôi vào nửa đêm thế này?”

Eli bước lên trước. “Anh, à ừm, đến đây vì biết em vẫn còn thức. Chơi với Ethan. Nhưng khi đến đây, em không có ở nhà. Đó, ý anh là vậy.”

Shelby sững sờ. “Anh cần tôi giúp tìm kiếm thứ gì khác hả?”

“Không, anh muốn mời em ra ngoài hẹn hò thôi.”

Lời đáp dường như cũng làm Eli bất ngờ. Ethan khẽ huých Ross, nhún vai tỏ vẻ mình cũng không biết chuyện gì đang xảy ra. Nhưng lúc này, sau khi Eli không hề hé răng về chuyện của Ethan, hảo cảm của Ross dành cho anh đã tăng vọt.

Đấy là còn chưa tính tới phản ứng của Shelby. Cô đỏ mặt quay ra chỗ khác, rồi lại nhìn vào mắt Eli. “Em đồng ý,” cô trả lời.

Từ ánh mắt hai người đắm đuối không rời thì Ethan và Ross cũng biết mình bị quăng lên Sao Mộc rồi. “Em đồng ý thật sao?” Eli hỏi lại.

Ethan khịt mũi. “Cháu lăn đùng ra mất,” cậu nhóc la ó rồi chạy vào nhà.

Hành động cậu nhóc đã phá tan bầu không khí. Shelby tằng hắng rồi mở cốp xe. “Em giúp chị mang vào chứ?”

“Gì vậy?” Ross nhấc cái thùng lên rồi tuột tay vì quá nặng.

Shelby phủi tay dính đầy bụi vào quần. “Tư liệu lịch sử.”

• • •

“Đây được gọi là Đạo luật Cải thiện Giống nòi thông qua Triệt sản tự nguyện,” Shelby giải thích, “Đạo luật này được thông qua vào ngày 31 tháng 3 năm 1931. Vermont là bang thứ hai mươi tư trong số ba mươi ba tiểu bang thông qua đạo luật này. Từ những gì chị tìm được, có vẻ Henry Perkins là người đứng đằng sau những cuộc khảo sát trên những gia đình được cho là gánh nặng cho người nộp thuế… Spencer Pike và Harry Beaumont là cánh tay phải đắc lực của ông ta.”

Họ trải vài sơ đồ phả hệ ra sàn bếp, và khoanh chân ngồi xung quanh. “Họ nghĩ rằng phạm pháp và suy đồi đạo đức là những thứ di truyền từ cha mẹ, giống như màu mắt hoặc chiều cao. Và cách tốt nhất để làm bang Vermont trở thành hình mẫu của quốc gia là phải đảm bảo toàn bộ gene di truyền phải tốt hết mức có thể. Theo logic, điều này có nghĩa là phải ngăn những người mang bộ gene kém ưu việt sinh con.”

“Tại sao dân chúng lại tin tưởng bọn họ?” Ross thắc mắc.

“Vì mấy người ủng hộ thuyết Ưu sinh những năm ba mươi đều là bác sĩ, luật sư, giáo viên, hoặc thẩm phán. Họ là những người như Oliver Wendell Holmes, Chủ Tịch Coolidge, Margaret Sanger. Dân chúng sẽ cảm thấy rằng những gì họ đang ủng hộ sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho mọi người.” Cô kéo những tờ giấy từ Trường dạy nghề Vermont, Bệnh viện tâm thần Waterbury, Nhà tù liên bang. “Họ nhắm tới ba gia đình có những thành viên hay ra vào những cơ sở nêu trên. Gia đình Chorea bị ghi sổ đen bởi vì bị bệnh tâm thần. Gia đình Pirate sống trên thuyền và lều dựng gần bờ sông, nổi tiếng vì lối sống buông thả và vô đạo đức. Dân Gypsy hay lang bạt và dính líu với pháp luật… và còn nhiều gia đình khác nữa. Họ không nhất thiết phải có quan hệ huyết thống - những nhà nghiên cứu thuyết ưu sinh thường gọi họ là “thành viên trong gia đinh” để tạo cảm giác liên quan không bao giờ tồn tại. Đến cuối những năm 1920, nhân viên xã hội tại địa phương đã ghi nhận sáu ngàn người rồi phân thành sáu mươi hai dòng họ khét tiếng. Ý tưởng chính là triệt sản những người này để họ không thể sinh ra những kẻ giống vậy.”

“Ai lại ngây thơ nghe bọn họ thuyết phục đây? Cuối cùng những gia đình này cũng phải hiểu chuyện gì đang xảy ra với họ chứ,” Ross phản bác.

“Cứ tưởng tượng nếu em sống trong lều, có mười đứa con, không tiền không bạc. Ngày nọ, một cô gái da trắng sang trọng bỗng dưng xuất hiện và yêu cầu được trò chuyện thì em phải ngạc nhiên đến mức chỉ biết mời cô ta vào nhà. Khi cô ta hỏi xem ảnh của con em, thì em sẽ tự hào mang ảnh ra khoe. Khi cô ta hỏi về họ hàng thì em sẽ kể những câu chuyện về gia đình. Em sẽ không biết trong lúc đó, người phụ nữ kia đang viết những lời nhận xét về căn nhà luộm thuộm và em dốt nát thế nào chỉ vì tiếng Anh của em không được lưu loát.”

Eli từng kể với Ross và Shelby những điều mình biết được từ Frankie về tính di truyền. Phát hiện của Shelby là mắt xích bị khuyết, là lý do giải thích vì sao quan hệ huyết thống của Sói Xám và Cecelia Pike đã gây ra đến cái chết của cô ấy. Phản ứng của Pike đối với tin tức đó, dựa trên niềm tin của anh ta vào thuyết Ưu sinh, rõ ràng sẽ rất cực đoan. Nhưng động cơ nào khiến anh ta ra tay giết người?

Anh chăm chú vào một biểu đồ xoắn ốc. Biểu đồ này rất khó đọc nhưng lại dễ hiểu - Liên kết từ thế hệ này sang thế hệ khác là lý do đưa gia tộc nào đó vào tầm ngắm. Một số liên kết tại phần cuối của biểu đồ là những người đàn ông và phu nữ Eli biết. Họ đều có số phận hẩm hiu hơn người khác. Điều này phải chăng là do vận rủi… hay do cảm giác tủi nhục đã bao vây họ? “Có bao nhiêu người bị triệt sản tất cả?” Eli hỏi.

Shelby lắc đầu. “Đó là thông tin duy nhất em không tìm thấy. Tính đến năm 1951, có 210 trường hợp triệt sản được ghi nhận tại tiểu bang Vermont - hầu hết diễn ra trong trường dạy người chậm phát triển, bệnh viện tâm thần, hoặc nhà tù. Tất nhiên, lý do khiến những người đó bị nhốt trong những nơi trên là vì lối sống của họ không giống với quy tắc xã hội: ví dụ hôn nhân không hợp lệ theo luật bang Vermont… Vì vậy các tổ chức an sinh xã hội sẽ đưa con họ đến trường nghề, người vợ bị nhốt vào bệnh viện tâm thần vì lối sống buông thả, còn người chồng sẽ bị giam vào tù vì phạm tội lạm dụng tình dục.”

“Nhưng họ tự nguyện mà,” Ross thắc mắc.

“Đấy là theo lý thuyết. Nhưng có rất nhiều mức độ “tự nguyện”. Đôi khi chỉ cần hai bác sĩ đồng ý là được. Các bệnh nhân dường như không bao giờ biết chọn lựa nào là tốt nhất cho bản thân mình.”

Eli cảm thấy cơn đau nửa đầu nhói lên từ sau mắt trái. Suốt những năm sống tại thị trấn này, anh chưa từng nghe tới dự án ưu sinh. Văn phòng khảo sát nằm trên số 138 phố Nhà Thờ giờ đã biến thành cửa hàng bán nến và hương trầm.

Anh nhớ đến bà Tula Patou sống gần bờ sông. Bà không hề có đứa con nào sau sáu mươi năm hôn nhân. Nghĩ về cậu - mợ, cô - chú vẫn không có con, dù không phải là không cố gắng. Họ có bị triệt sản hay không?

Họ thậm chí có biết không?

Có những người sống ở Comtosook vẫn còn bị ám ảnh bởi những gì đã xảy ra vào những năm 1930. Những người đứng giữa hai luồng quan điểm. Những nạn nhân quá sợ hãi để nhắc lại chuyện xưa vì e ngại chuyện này sẽ lặp lại lần nữa. Còn những người từng ủng hộ lại im thin thít vì mặc cảm tội lỗi.

Nếu tranh chấp trên mảnh đất nhà Pike đang sắp bốc hỏa, thì phát hiện này sẽ là chất xúc tác.

Bỗng nhiên Eli nhớ lại thời điểm đứng xếp hàng cạnh mẹ để nhập học. Lúc đó anh mới năm tuổi, ánh mặt trời chiếu lên mái tóc mẹ đã chải chuốt gọn gàng. Bà nắm lấy tay anh như bao người mẹ khác, nhưng khi hai người đến gần bàn thư ký, bà hôn vào má anh và bảo rằng bà sẽ đợi anh bên ngoài. “Với diện mạo của con, con có thể đậu.” Bà nói với anh một cách ẩn ý khi anh quay lại tìm bà sau đó.

Không phải người Abenaki không nhớ những ngày người ta làm lễ rửa tội cho mấy đứa trẻ Gypsy; họ nhớ rất rõ là đằng khác.

Eli cúi xuống một sơ đồ phả hệ khác. “Giả sử ông Pike không biết gì? Nếu người vợ yêu quý của ông ta sinh ra… một đứa con có làn da ngăm đen?”

“Và cô ấy hay đi lại với Sói Xám vì ông là cha ruột của cô…” Ross cắt ngang.

“Và Pike hiểu nhầm đứa bé là con của Sói Xám.”

Với một người đàn ông đã dành cả sự nghiệp để chứng minh người Abenaki là dòng dõi kém ưu việt thì điều này không hay tí nào. Điều này lý giải vì sao Pike phải chôn đứa bé sơ sinh trước khi chính quyền thấy mặt nó. Điều này cũng giải thích vì sao ông ta sát hại vợ mình.

“Chuyện gì đã xảy ra với dự án? Tại sao dự án bị dừng lại?” Ross hỏi.

Shelby bắt đầu sắp xếp mớ tư liệu. “Tài chính cạn kiệt. Rồi sau đó đến thời Hitler. Luật Phòng chống Di truyền Gene khiếm khuyết cho đời sau của Đức Quốc Xã được xây dựng trên mô hình triệt sản những đối tượng kém ưu việt tại Mỹ.”

“Vậy luật này bị bang Vermont hủy bỏ lúc nào?”

“Đây mới là vấn đề,” Shelby giảng giải. “Luật này không hoàn toàn bị hủy bỏ. Mà bị chất vấn bởi Liên đoàn Tự do Dân sự Mỹ vào những nám 70… và cách diễn đạt đã bị thay đổi… nhưng điều luật triệt sản vẫn còn có hiệu lực.”

Một cái tên trên một biểu đồ đập vào mắt Eli. Pial Sommers, cưới Isobel DuChamps bị thiểu năng. Con cái của họ: Sopi đã chết năm lên bảy tuổi, còn có Winona và Ella. Ella Sommers đã cưới một người đàn ông mình gặp khi làm bồi bàn tại Burlington. Tên ông ta là Robert Rochert, và ông ấy là cha của Eli.

Theo như sơ đồ, Pial Sommers là một trong bảy người con và là người duy nhất không bị điên, phạm pháp hay hư hỏng. Một đường chấm nhỏ tách ông khỏi gia đình nhà ngoại và mười người anh chị em họ đầu tiên, người trẻ nhất có tên John Delacour “Sói Xám”.

Ethan lăn qua lăn lại trên giường khi cậu Ross mở cửa phòng ngủ. “Cháu vẫn còn thức sao?” Ross hỏi.

Cậu bé hướng mắt ra ngoài cửa sổ ngắm mặt trời mọc. Tấm kính cửa sổ dày vẫn bảo vệ cậu như thường lệ. Cậu biết mình gặp may; nếu Eli Rochert quyết định nói thật và nếu mẹ cậu không lôi thùng tài liệu cũ về nhà, cậu đã bị một trận nhừ tử vì cái tội lẻn ra ngoài.

“Cháu biết cậu định nói gì,” Ethan thở dài. “Nhưng cháu cũng không cố ý khiến cậu gặp rắc rối.” Cậu chọt vào đường chỉ khâu trên ga trải giường xanh nhạt in hình đồ chơi xe tải. Có ai khác ngoài Ross nhận ra cậu bé đang ngày một trưởng thành không? “Chỉ là mẹ không hiểu được. Và cậu cũng vậy.”

Ross ngồi xuống mép giường, đặt laptop trên tay xuống sàn. “Tại sao lại là cậu?”

Ethan quay sang nhìn chú với ánh mắt sáng rực. “Bởi vì cậu từng nhảy dù tự do, liều mạng chắn tàu hỏa, và chống trả khi có ai đó đâm dao về phía mình. Tất cả những câu chuyện cậu kể cho cháu nghe về những gì mình đã làm. Đôi khi cháu thức dậy muốn chạy đến một nơi cùng trời cuối đất, và nếu không làm được điều đó, sao cháu không chấm dứt cuộc đời mình tại đây và ngay bây giờ.”

Ross lắc đầu. “Cậu làm những chuyện đó không phải vì ham thích cảm giác mạnh. Đó là vì thỉnh thoảng cậu mất tinh thần đến mức cần cảm nhận được cái gì đó, bất kể là cảm giác gì. Và nếu kim châm không có tác dụng thì phải dùng đến dao phay.”

“Cháu biết,” Ethan thở dài. “Vậy mới ngầu chứ.”

“Vấn đề là, Eth, cậu sẽ từ bỏ tất cả để được ngồi trên giường trong một căn nhà an toàn, biết chắc rằng bên kia bức tường đang có người thà chết còn hơn tưởng tượng đến cảnh cậu bị thương.” Anh kéo một đường chỉ trên tấm chăn mà Ethan đang nghịch, chọn ngay sợi chỉ giữa hoa văn chiếc xe tải. “Đừng cố trở thành người như cậu,” Ross khuyên nhủ, “Trong khi cậu đang cố gắng trở thành một người khác.”

Bỗng nhiên Ethan cảm thấy như có cái gì chẹn ngang cổ họng, những giọt nước mắt ngu ngốc cứ chảy ra. “Cháu chỉ muốn là người bình thường,” cậu bé thổn thức.

“Đúng vậy,… nếu không có cậu cháu mình thì những người bình thường biết lấy gì để so bì đây.”

Ethan nấc cục giữa lúc cười rộ lên. “Vậy cậu cháu mình cặp kè với nhau đi.”

“Chính xác,” Ross trả lời, mở laptop để Ethan thấy màn hình. “Vì cậu cần đến sự giúp đỡ của cháu.”

Ngay khi Eli trở về từ nhà Shelby, biết thêm một đống thông tin kinh dị mới, thì đã hơn ba giờ sáng. Vụ nổ tại khu mỏ sẽ bắt đầu vào lúc năm giờ, nhưng anh chèn gối lên đầu, ráng ngủ thêm tí nữa. Vì vậy khi tiếng chuông cửa reo lên lúc 6:30 sáng, anh nghiêm túc nghĩ đến việc xả súng dọa cho người gọi cửa biến đi. Nhưng sau khi cân nhắc thời gian bị đinh chỉ công tác kèm theo mớ giấy tờ khủng khiếp để giải trình việc xả súng, anh đành ra khỏi giường, mặc mỗi chiếc quần ngắn.

Frankie vọt vào căn hộ ngay khi anh mở cửa. “Anh sẽ không thể đợi để nghe điều này đâu,” Cô cất tiếng, đi một mạch vào nhà bếp, chộp lấy bình cà phê trống rỗng và tặc lưỡi. “Tôi đã xét nghiệm chiếc áo ngủ của phụ nữ cho anh.”

“Frankie…”

“Anh nhớ thứ anh nghĩ là máu của nạn nhân chứ?”

“Nhớ chứ.”

“Thật ra không phải. Anh không để cà phê trong tủ lạnh sao Eli, như phần còn lại của thế giới văn minh vẫn làm ấy?” Cô quay qua, giơ bình cà phê lên cao. “Anh đang mặc quần chíp, Chúa ơi.”

“Quần lót. Đàn ông trưởng thành không mặc quần chíp.”

“Đàn ông trưởng thành thường mặc áo quần chỉnh tề trước khi mở cửa.”

“Frankie,” Eli thở dài, “Anh mới ngủ có ba tiếng. Đừng lằng nhằng với anh.”

Cô đã tìm ra cà phê đặt trong cái hộp trên đầu tủ lạnh, bên cạnh hộp xi giày đen bóng, và bắt đầu săm soi túi cà phê. “Phân su.”

“Không phải. Đó là cà phê Colombia.”

“Ý là vết bẩn, đồ ngốc. Trên chiếc áo ngủ của phụ nữ.”

Eli vừa ngáp vừa gãi ngực. Lúc này anh m?