Chương 10
“Tôi đã giết con bé.” Az ấn vào miếng gạc tại chỗ vừa mới rút máu lấy mẫu và bình tĩnh nhìn anh thám tử đang ngồi đối diện mình trong phòng xét nghiệm.
Eli thậm chí không buồn nháy mắt. “Bằng chứng không cho thấy điều đó.”
“Theo tôi biết vẫn còn lệnh truy nã tôi.”
Ross đặt cái que đè lưỡi gắn bông gòn xuống. Sau khi thú nhận thân phận, Az đồng ý gặp Eli. Ross tưởng ông sẽ không dám vào thị trấn nhưng khi đến nơi, anh thấy ông đã đứng chờ tại cầu thang dẫn vào cục cảnh sát. Ông đồng ý cho Eli lấy dấu vân tay, ngay cả Ross cũng thấy những dấu vân tay này giống hệt dấu vân tay Sói Xám lưu ở đồn cảnh sát. Khi Eli yêu cầu Az lấy mẫu máu để xét nghiệm DNA, thì ông lão chính là người đề nghị làm ngay lập tức.
Nhưng tại sao lại thú nhận sau bảy mươi năm?
“Tôi đã giết con bé,” Az lặp lại. “Tôi tìm thấy một cô gái lớn lên như hoàng tộc nhưng lại đi nói với nó rằng con bé không phải là công chúa. Chuyện tôi có quấn sợi dây thừng quanh cổ con bé vào đêm đó hay không chẳng có gì quan trọng. Nó sẽ không chết nếu tôi không nói nó là con gái mình.”
“Ông ắt phải biết rõ chấp nhận sự thật không phải là điều dễ dàng với cô ấy,” Eli đáp lời.
“Tôi chẳng hề cân nhắc đến những điều nó phải lựa chọn. Tôi chỉ muốn gặp mặt con bé, vì nó là tất cả những gì tôi đã để lại trên đời này. Chỉ là chuyện không theo như ý muốn của tôi.”
“Ông có nói với ông Pike không?”
“Không hề.”
“Vậy ông nghĩ Lia có nói với anh ta không?”
“Tôi nghĩ con bé cũng e ngại việc đó,” Az trả lời. “Trước kia anh ta từng nhốt con bé cả tuần. Con bé đã tự tử - và anh ta nói mình chỉ quan tâm, bảo vệ con bé khỏi việc tự làm tổn thương bản thân mình. Trong suy nghĩ của Spencer Pike, tự nhận là người Gypsy chẳng khác nào tự hủy hoại đời mình.”
“Tại sao ông không đưa cô ấy ra khỏi đó?” Ross buộc tội. “Ông đã có thể cứu cô ấy.” Dù vậy, anh biết thậm chí nếu Az thompson đưa Lia đến Canada sinh con, cô vẫn không thuộc về anh. Cô còn sống thì rồi sẽ già đi. Lý do duy nhất anh gặp cô là vì cô đã qua đời đúng lúc đó.
“Chồng con bé nện tôi một trận nhừ tử rồi và ném tôi ra ngoài. Lúc quay về tìm con bé, căn nhà đã là hiện trường vụ giết người… và Spencer Pike khai với cảnh sát rằng tôi là thủ phạm. Lý do tôi sống tới chừng này đều là sự trừng phạt. Gặp được con gái, nhưng sau đó lại sống nốt quãng đời còn lại mà không có con bé bên cạnh.”
Ross chăm chú quan sát, ngạc nhiên khi nhận ra nỗi đau của ông Az rất gần gũi với cảm giác của anh.
Eli lắc đầu. “Ông Az, tôi vẫn còn nhớ khi ông chuyển tới đây. Hồi đó tôi vẫn còn là một cậu nhóc. Vì sao ông quay lại Comtosook dù biết rằng mình có thể bị bắt giam vì điều mình chưa từng làm?”
“Tôi quay lại vì lời hứa với người mình yêu rằng tôi sẽ trở về.” Az gỡ miếng băng gạc ra khỏi vết lấy máu xác minh thân phận của ông. “Cậu hỏi tôi thì đó là tất cả lý do đấy.”
Hóa ra lẻn vào viện dưỡng lão không khó nếu có số tuổi tương tự những người sống trong đó. Ông di chuyển qua hành lang viện dưỡng lão như một bóng ma, nheo mắt nhìn những cái tên trên cánh cửa cho tới khi tìm thấy cái tên mình muốn tìm.
Trong phòng, Spencer Pike đang cuộn mình trong chăn, mặt trắng bệch như bụng cá voi, tĩnh mạch nối liền với ống truyền thuốc giảm đau. Ngón tay cái của ông ấn mạnh vào nút gọi y tá, thở phều phào. “Tôi cần tăng liều moóc-phin.”
Câu trả lời nhỏ nhẹ mà lạnh lùng. “Xin lỗi ông Pike. Ông không thể thêm thuốc tối nay.”
Gầm gừ trong đau đớn, Pike nằm nghiêng về một bên với nét mặt vặn vẹo. Thậm chí sau khi Az bước ra khỏi bóng tối, phải mất một lúc lâu Pike chú ý đến người mới xuất hiện, nhưng không nhận ra là ai. “Ông là ai?” Ông Pike thở hổn hển.
Chẳng biết phải trả lời thế nào cho đúng. Suốt cuộc đời mình, ông đã đóng vai nhiều nhân vật khác nhau: John Delacour, Sói Xám, Az Thompson. Người ta thường gọi ông là thổ dân, dân Gypsy, tên sát nhân, và một phép lạ. Nhưng danh phận duy nhất ông muốn lại là thứ chẳng bao giờ ông đạt được - chồng của Lily, cha của Lia.
Có lẽ Spencer Pike đang mê sảng do thuốc an thần hoặc do căn bệnh của mình; có lẽ ông thấy sự can đảm trong mắt Az nhưng lại nhìn nhầm thành vẻ thông cảm. Nhưng có thứ gì đó khiến ông vươn tay qua khoảng cách vài tấc mà ngỡ như vạn dặm giữa hai người để níu lấy ông Az. “Làm ơn,” ông năn nỉ. “Giúp tôi.”
Az choáng váng khi nhận ra ông và Spencer Pike có một điểm chung: Họ đều sẽ chết trong cô đơn, mang theo nỗi đau sang thế giới bên kia. Ông nhìn vào ông lão ốm yếu trước mặt, kẻ đã từng hủy hoại nhiều mảnh đời. “Giúp tôi ra đi,” ông Pike thở hổn hển.
Thật là dễ. Một cái gối, đè xuống khoảng ba mươi giây. Một bàn tay bịt cái miệng khô đắng. Sẽ không có ai biết, và Az sẽ nhận được công đạo theo đức tin của mình: Mạng đổi mạng.
Nhưng lúc này, cái chết là những gì ông Pike muốn.
Az cảm thấy gông xiềng quấn quanh tim mình bung vỡ. “Không đời nào,” ông trả lời, rồi bước ra khỏi căn phòng mà không ngoái đầu nhìn lại.
Cục Cảnh Sát Comtosook đã thuê sáu nhân viên bán thời gian giữ cho truyền thông tránh xa các khu vực khai quật. Tập hợp xung quanh trước ngôi mộ bị khai quật là Wesley Sneap, Eli, Az, một số người Abenaki được mời riêng, và ông Az. Mùi hôi thối bốc lên khỏi mặt đất, nồng như mùi quế.
Người nằm đó nên là anh, Ross nghĩ, ông Az cũng lẩm bẩm những lời tương tự. Tay của ông lão run rẩy khi chạm vào quan tài. “Ông sẽ đưa cô ấy đi đâu?” Ross hỏi.
“Lên đỉnh của ngọn núi, nơi linh thiêng. Người Abenaki thường được chôn quay mặt về hướng Đông.” Az nhìn lên. “Hướng đó con bé sẽ thấy những gì đang diễn ra.”
Ross cố gắng nuốt cơn thắt nghẹn trong cổ họng. “Ông sẽ… ông sẽ cho tôi biết nơi cô ấy được chôn chứ?”
“Tôi không thể. Cậu không phải là người Abenaki.”
Ross đã biết câu trả lời, nhưng anh lại không kiềm được nước mắt tuôn ra. Anh gật đầu, giả vờ đá cành cây cạnh giày. Bỗng nhiên anh cảm thấy thứ gì đó được ấn vào tay mình. Một bài báo.
Bên trong là một mảnh tờ báo cũ kỹ được cắt ra từ tờ Burlington Free Press, bản cáo phó của Cecelia Beaumont Pike. Một tấm hình của cô ấy đang ngồi nép vào bên góc. Trong hình, cô mỉm cười yếu ớt như thể thợ chụp ảnh đã kể chuyện cười nhưng vì không thấy vui nên cô chỉ miễn cưỡng lịch sự cười một chút. “Cậu giữ mảnh báo này đi,” Az nói.
“Tôi không thể…”
“Con bé muốn thế.” Az nghiêng đầu. “Con bé nói với ta rằng con bé mơ về cậu.”
“Cô ấy… Cái gì?”
“Mơ về một chàng trai trông như cậu. Người có những thứ mà con bé không nhận ra. Cậu sẽ đến với con bé khi nó đang ngủ.” Az nhún vai. “Đây thực sự không phải là điều lạ. Cậu vẫn có thể bị ám nhiều năm bởi một người mà cậu chưa từng gặp mặt.”
“Ông sẵn sàng rồi chứ?” Eli nhẹ nhàng hỏi, và ông lão gật đầu.
Wesley Sneap giúp Eli cố định xà beng và mở nắp quan tài lớn. Ross té ngửa ra sau, và hai người Abenaki mặt mày tái nhợt. Eli nhìn chằm chằm vào quan tài gỗ thông có chứa những chiếc xương đã ngả vàng, lặt lìa lộn xộn trên tấm vải liệm ố bẩn. Chỉ còn một chi xếp đúng vị trí - Cánh tay phải, chạy dọc từ vai tới khuỷu tay tới cổ tay rồi đến bàn tay, gác trên xương ức nơi đã từng che chở trái tim.
Anh đứng với hai bàn tay siết chặt, cảm thấy thời thơ ấu của mình ào ạt quay về khi ông Az bắt đầu nói một ngôn ngữ nằm trong huyết quản của anh. Kchaiphanem ta wdosa… Người mẹ và con gái. Kchi Niwaskw… Linh hồn vĩ đại. Nosaka nia… Theo tôi. Eli không biết liệu Cecelia Pike, hoặc đứa con của cô, có đang nghe thấy buổi lễ này không, nhưng anh hy vọng là có.
“Olegwasi,” Ông Az cất tiếng. “Mộng an lành.” Sau đó ông quay lại nhìn mọi người. “The Ojibway - Những người mà tôi đến gặp khi tôi rời khỏi đây - họ giữ nghi lễ khi một đứa bé được sinh ra.” Ông lấy một điếu thuốc tự quấn từ chiếc túi vải ông mang theo vào khu mộ và mồi lửa. “Thế giới Linh hồn có thể nhận biết đứa bé, và sắp xếp một nơi cho nó khi đến thời điểm con bé ra đi. Hôm nay, tôi muốn đặt tên cho đứa cháu gái của mình.”
Az nhìn mọi người một vòng, thách ai dám nói làm thế sau bảy mươi năm đã là quá trễ. “Lily” ông gọi, nhìn về phía Đông.
Eli cảm thấy câu đáp lời trôi tuột vào cổ họng. “Lily” anh lặp lại.
Ông Az quay sang hướng Bắc. “Lily.”
“Lily.”
Quay qua phía Tây quay sang hướng Nam, ông gọi lên tên cô bé để cô bé được bảo vệ. Ngay khi Az quay sang Eli một lần nữa, tuyết rơi. Eli vuốt tóc, gạt đi một vài cánh hoa hồng. “Làm thôi,” ông Az cất tiếng.
Ngay lúc đó trời sụp tối, nền trời tím bầm như máu đọng. Ross Wakeman quay một vòng, như thể anh đang mong đợi thứ gì đó hiện hình, khỉ gió, sao Eli nghĩ là sẽ không có gì xảy ra chứ.
Ngay khi đó Wesley dùng xà beng nạy mở chiếc quan tài nhỏ, vốn là thùng đựng táo. Cái thùng bằng gỗ đã mục rã vỡ bung, những thứ bên trong đổ tràn ra ngoài, và đã quá trễ để Eli kịp chạy tới cứu vãn.
Sự im lặng thổi qua nhóm người. Những khúc xương rơi ra, xoắn xuýt và có màu nâu, gồ ghề góc cạnh. Nhưng thậm chí Eli, người không được đào tạo nghiệp vụ về những việc này, cũng nhận thấy đầu lâu bị mất. “Này… Wesley?”
Bác sĩ pháp y khuỵu gối, tay đeo găng chọc xuyên qua những thứ mảnh còn lại. “Xương sườn và xương sống vẫn còn,” anh cất tiếng, “nhưng quá lớn, không phải của trẻ sơ sinh. Tôi thậm chí không nghĩ đây là con người.”
“Thế nó là cái quái gì thế?”
Wesley nhìn lên Eli. “Những mảnh xương này theo tôi giống như miếng sườn bò nướng,” anh trả lời.
Nhiều năm sau đó, Eli sẽ nhận ra đây là khoảnh khắc anh thực sự bỏ được thói quen ăn thịt đỏ. Anh khuỵu gối xuống cạnh quan tài, cảm thấy ông Az đi đến từ phía sau. Họ nhìn về phía đường chân trời, mặc cho cơn mưa cánh hoa hồng bao phủ mặt đất, ngôi mộ, và mảnh xương trong quan tài. Một cơn gió mạnh cuốn theo cánh hoa hồng thổi qua giữa hai chân anh. Chúng bay xuống đất, sắp xếp thành chữ RW.
• • •
Trong giấc mơ, Ruby đang cố gắng vùng vẫy. Bà cảm thấy như một con sư tử đang vồ lấy ngực mình, cào cấu xương vai của mình. Bà tỉnh giấc và cố gắng ngồi dậy, nhưng con sư tử đã ghim chặt bà trên nệm và dù cố gắng đến đâu, bà cũng không thở được.
Có phải Lucy đang khóc?
Không, đó là tiếng của một đứa bé. Tiếng khóc thút thít vang lên dưới cánh cửa phòng ngủ của Ruby thông qua vết nứt nơi ánh sáng hắt vào. Ruby đang cố gắng ngồi thẳng dậy nhưng con sư tử vụt mạnh một cú vào ngực bà.
Bà ôm chặt vết đau bên ngực trái và nặng nề đổ sập xuống sàn. Trong khoảnh khắc thấu triệt đi kèm với cơn đau chói, Ruby bỗng nhiên biết đứa bé đó là ai. Và bà nhận ra trong giấc mơ vừa nãy, bà đã cố gắng vùng vẫy vươn tới Cecelia Pike.
Ross lái xe lòng vòng, và khi anh không thể tự lừa mình nữa, anh tấp vào lề, bước ra khỏi xe, nằm trên mui xe và kính chắn gió, mỉm cười nhìn lên bầu trời. “RW” anh hét lớn. “RW.”
Anh nhìn thấy việc này rõ như ban ngày, bất kể có ai khác để ý không, những cánh hoa này này rõ ràng tạo thành chữ cái đầu tên anh. Ross để ánh mặt trời vuốt ve khuôn mặt mình. Bầu trời như in màu xanh sau mí mắt anh, và mây như kính vạn hoa - Những con hươu cao cổ đang nằm, những ấm trà hay những con nhím. Nếu người ta để tâm mà nhìn, mây có thể cho ra đủ loại hình dạng. Ross lăn qua bên phải để chừa một nửa mui xe phía còn lại. Chừa chỗ cho ai đó ngồi, nếu cô ấy muốn thế.
“Ý cậu là sao, cái xác đã biến mất?” Shelby ngồi bên cạnh Ross dưới mái hiên, hoài nghi. “Có giấy chứng tử mà.”
Cuối con đường vào nhà, Ethan đảo ván trượt thành một loạt xoáy chữ G và reo lên. “Mẹ ơi! Mẹ có thấy không?”
Shelby vỗ tay. “Thật tuyệt vời!” Sau đó cô quay sang Ross. “Nhưng bác sĩ pháp y phải xác nhận về cái xác mà?”
“Ai biết được? Eli tìm hiểu từ các bảng ghi chép, bằng chứng và những hồ sơ lưu trữ công cộng, nhưng chỉ có thể tái dựng một phần chuyện thực sự xảy ra. Giống như chơi trò giải đố khi chị tìm ra được một nửa rồi.”
“Anh ấy dường như biết phải làm gì.” Shelby trầm ngâm.
“Eli?” Ross nhìn vào mặt chị anh. “Chúng ta vẫn đang nói về vụ giết người chứ, hay chị có chuyện gì khác muốn chia sẻ?”
Shelby thụt chân lại thật nhanh ngay khi Ethan phóng trên chiếc ván trượt tới sát chân cô. “Anh ấy rất là tỉ mỉ chu đáo, thế thôi.”
“Rõ là thế.”
Shelby liếc cậu em. “Việc này đâu thuận chiều suy luận. Nếu xác của đứa bé đã biến mất, thì có lẽ, đứa bé được chôn ở nơi khác… hoặc có lẽ chưa bao giờ được chôn cất. Ông Pike sẽ không chôn ở ngôi mộ khác vì như thế bác sĩ pháp y sẽ khăng khăng đòi đào mộ đứa bé lên, khi đó ông ta cũng không thể giải thích miếng sườn nướng thế thân. Mà ông ta dường như cũng không phải là loại người đem đứa nhỏ bỏ tại cửa nhà thờ.”
“Tại sao người ta lại bỏ xác chết ở nhà thờ?”
Shelby nhìn anh. “Ai bảo đứa bé đã chết?”
“Spencer Pike,” Ross đáp lời, và sau đó chớp mắt. “Không lẽ nào.”
“Chính xác.”
“Vì vậy nếu ông ta nói dối… và đứa bé còn sống… sau đó có lẽ có ai đó cố gắng cứu sống nó. Điều này sẽ giải thích tại sao họ tìm thấy miếng sườn nướng trong quan tài thay vì xác đứa bé… họ đã cố gắng lừa ông Pike nghĩ rằng đứa bé đã chết.”
“Đây có lẽ là điều ông Pike sẵn sàng để tin hơn,” Shelby thêm vào. “Có lẽ hồn ma của cậu ám khu đất không phải do bị hại chết? Có khi cô ta quay trở về để tìm lại con của mình.”
Ethan trượt ván tới, đôi mắt cậu sáng như sao. Cậu đã thực hiện ba lần cú nhảy xoay 360 độ, nhưng trượt chân lần thứ tư và ngã xuống. Nằm trên đường dẫn vào nhà, cậu cười sặc sụa, chảy cả nước miếng. “Nếu là chị, em nghĩ chị sẽ trở về vì con,” Ross nói.
“Không,” Shelby trả lời. “Chị sẽ không bao giờ rời đi.”
Khung cảnh thế này là quá tử tế đối với Spencer Pike. Ông ta ngồi trên chiếc xe lăn, trùm tấm chăn quanh đầu gối, đằng sau là ban công gỗ trắng, Eli ước gì có thứ gì đó xứng đáng hơn với ông - như lửa cháy, địa ngục, hoặc nhà tù thời Trung Cổ. Dù sao ông ta cũng là tội phạm giết người lọt lưới.
Eli tựa vào ban công viện dưỡng lão; cố gắng giữ bình tĩnh. Bắt ông Pike phải tự thú nhận đã trở thành nhiệm vụ cá nhân. “Ông cảm thấy thế nào nếu bước vào phòng để đi tắm,” anh nói một cách điềm tĩnh, “và bước ra với ống dẫn tinh bị cắt?”
“Không thể nói rằng điều đó cản trở đến phong cách của tôi vào ngày nay.”
“Không may,” Eli đáp lại, “mấy nạn nhân bị triệt sản của ông chắc khó nói điều tương tự.”
“Hitler đã tạo nên cái tên xấu cho thuyết ưu sinh, và đám người theo đảng Tự Do như cậu lại đẩy hết tội lỗi lên người chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng như cậu, mong muốn tạo một thế giới tốt đẹp hơn.”
“Bằng cách ngăn không cho người nghèo và người khuyết tật sinh con đẻ cái. Rất nhân đạo đấy.”
“Cậu chẳng biết gì cả. Con họ lớn lên mà không có bốn bức tường gọi là nhà. Họ cũng không có định hướng đạo đức. Người nào nên cứu, chúng tôi đã cứu. Đây là việc tốt cho số còn lại.”
“Ông có bao giờ nghĩ sẽ cho họ thêm một cơ hội?”
“Tất nhiên. Nhưng họ cứ vẫn tiếp tục mắc lại sai lầm cũ.”
“Còn ông?” Eli hỏi. “Ông chưa từng mắc sai lầm sao?”
Ông Pike híp mắt lại. “Cậu muốn nhắc đến vụ đất của tôi bị bán đi để xây dựng sao?”
“Thật nực cười khi ông nhắc đến việc này. Khu đất của ông không được phép xây dựng nữa rồi.” Anh đưa cho ông Pike một bản sao lệnh cấm đã trao cho Rod van Vleet.
“Điều này… Điều này thật lố bịch,” ông Pike nói lắp bắp. “Vùng đất của tôi không phải là nghĩa địa dân da đỏ.”
“Thực tế là thế đấy.” Eli bước tới gần hơn. “Kể tôi nghe Spencer, cô ấy có chống cự lại ông không? Cô ấy có van xin ông dừng lại khi ông quấn dây thừng quanh cổ cô ấy hay không?”
“Cô ấy là vợ tôi.”
“Và cô có một nửa dòng máu người Abenaki,” Eli bác lại. “Điều này sẽ không làm rạng danh một thành viên của Hiệp hội Ưu sinh Mỹ, phải không?”
Anh nhìn mặt ông Pike đang hiện rõ vẻ kinh ngạc. “Lần trước khi đến đây anh cũng nhắc đến chuyện này.”
“Bởi vì đó là sự thật,” Eli nói.
Ông lão lắc đầu như muốn ngăn suy nghĩ đó thấm sâu vào đầu óc. “Cissy không phải là… tóc cô ấy màu vàng, và da cô ấy màu trắng như sữa…”
“Và cha cô không phải là Harry Beaumont, mà là một người Abenaki tên Sói Xám.”
“Cha cô ấy…?”
“Cô ấy không đủ sức trở thành người theo đúng kỳ vọng của ông, và ông đã xử lý những vấn đề theo cách mình xử lý những việc khác không theo ý ông - loại bỏ chúng đi.” Giờ, Eli cúi xuống ông lão. “Kể tôi nghe sự thật đi, Spencer. Kể tôi nghe những gì ông đã làm.”
Ông Pike nhắm mắt lại, im lặng một lúc lâu đến nổi Eli tự hỏi ông có phải đột quỵ rồi không. “Tôi đã nghĩ cô ấy yêu hắn,” Ông thì thào. “Tôi đã nghĩ đứa bé là con hắn.”
“Ông đã làm gì với đứa bé?”
Cổ họng ông như bị mắc nghẹn, và miệng ông rung rung trước khi từ ngữ được phát ra. “Tôi đã giết nó. Tôi bóp chết nó. Giấu cái xác trong hầm chứa nước đá và kể với Cissy rằng nó đã chết. Tôi nghĩ có lẽ theo cách này chúng tôi có thể bắt đầu lại từ đầu. Nhưng tôi không hề đụng vào Cissy. Tôi thề, tôi yêu cô ấy. Tôi yêu cô ấy.”
Eli nghĩ về chiếc quan tài là thùng đựng táo trong khu đất, chiếc quan tài không chứa xác đứa bé. “Ông đã làm gì với xác đứa bé?”
“Tôi chôn nó,” ông Spencer trả lời. “Ngay ngày hôm sau, tôi thấy Cissy… và tôi chôn cái thùng trước khi tôi gọi cảnh sát. Tôi phải làm điều đó hoặc họ sẽ biết những gì tôi đã làm.” Ông túm vạt áo Eli. “Tôi làm điều đó bởi vì tôi yêu cô ấy. Tất cả tôi muốn chỉ là…”
“Một cơ hội thứ hai?” Eli cắt ngang, không thương xót. “Câu hỏi là, ông có tiếp tục mắc lại sai lầm cũ không?”
Phần khó nhất cho Meredith là cố gắng giữ mình khỏi bị suy sụp khi nghe thông báo từ bác sĩ tim mạch đang điều trị bà ngoại cô sau cơn đau tim. Họ đứng trước giường bệnh viện nơi bà Ruby đang nằm yên lặng như một cây thông Giáng Sinh, gắn đầy các loại ống và thiết bị truyền tĩnh mạch. “Bà ấy chưa thoát khỏi cơn nguy kịch,” Bác sĩ nói. “Giảm lưu lượng máu não sau nhồi máu cơ tim sẽ dẫn tới thiếu máu cục bộ… và mê sảng. Tôi nghĩ tốt nhất nên để bà ở lại đây vài ngày để theo dõi.”
Meredith thều thào nói gì đó, không rõ là khen ngợi hay cảm ơn bác sĩ, rồi ngồi xuống chiếc ghế cô kéo tới gần cạnh giường. Bên ngoài, cô y tá đang nhờ Lucy vẽ khuôn mặt ảo thuật gia lên những con rối tay. Meredith tựa trán vào chiếc mền vải tổng hợp và nắm lấy tay bà Ruby. Ngón trỏ hắt ánh đèn máy đo nhịp thở. “Đừng bỏ con,” cô nài nỉ.
Cô cảm thấy lớp da mỏng của cánh tay bà Ruby co giật trong tay mình. Meridith ngồi thẳng dậy đầy hy vọng khi thấy mắt bà ngoại mở ra. “Ta còn khỏe, có thể tham dự tiệc tối,” bà Ruby nói, giọng bà pha vài phương ngữ tiếng Pháp Canada.
Tiệc tối? Meredith cau mày, và sau đó nhớ bác sĩ đã nói về cơn mê sảng.
“Em phải chăm sóc đứa bé đó.”
Chắc bà nói tới Lucy. “Con bé muốn ngoại khỏe hơn.”
Đôi mắt bà Ruby chậm rãi khép lại. “Em sẽ chăm sóc nó,” bà thì thào. “Em hứa, Miz Pike.”
Khuôn mặt của Shelby tươi hẳn khi nhận ra Eli đang bấm chuông. “Em rất vui vì anh ghé qua,” Cô nói, bước sang một bên để anh đi vào.
“Anh cũng vậy.”
“Đêm đó thật vui.” Shelby nhớ lúc họ kết thúc buổi hẹn trong chiếc xe tải của Eli; Cách anh cúi về phía trước và hỏi anh có thể hôn cô trước khi Watson cắn anh hay không; cảm giác tuyệt vời khi được người khác ôm vào vòng tay, thay vì mình tự ôm người đó.
“Tốt. Bởi vì anh ghé qua để cầu hôn.”
“Để… Cái gì?”
Eli cười lớn. “Anh nhận thấy em ác cảm với lần hẹn hò đầu tiên thì chắc cũng không hào hứng gì với với lần hẹn hò thứ hai. Vì vậy anh nghĩ chúng ta nên bỏ qua các buổi hẹn hò đi.”
“Có lẽ chúng ta nên tiến tới làm luôn kỷ niệm đám cưới bạc luôn ha,” Shelby nói. “Cho an toàn mà”
“Đối với anh thì không sao,” Eli đáp lại, và đáng ngạc nhiên, Shelby còn phần nào tưởng anh nói thật. Cô tưởng tượng ngồi cạnh anh, không làm gì cả, bởi vì họ đã trải qua nhiều năm làm hết tất cả mọi thứ rồi và giờ họ cứ thế ngồi bầu bạn bên nhau thôi. Cô nghĩ về chiếc giường khi phía bên cạnh không còn khoảng trống nữa.
“Em lấy gì cho anh nhé?” Shelby hỏi. “Nước lạnh nhé?”
“Gọi Ross giúp anh.”
Mặt cô xìu xuống. “Ồ. Hóa ra anh ghé để nói chuyện với cậu ấy.”
Khoảng khắc lúng túng bị gián đoạn bởi sự xuất hiện huyên náo của Watson, chú nhảy chồm vào cánh cửa mở và giữa họ. “Tao đã nói mày ở yên trong xe tải,” Eli nói, cố gắng túm cổ nó nhưng không được.
“Không sao.” Shelby nhìn chú chó săn bắt đầu thò mũi vào phòng khách. Watson dừng lại, quay mặt lại về phía Shelby, và vẫy đuôi một cách nhiệt tình - làm đĩa kẹo, remote tivi, và một vài cuốn sách rơi khỏi bàn cà phê. Eli và Shelby cùng chạy về phía trước nhặt mớ hỗn độn. “Anh xin lỗi…”
“Không sao…”
“…có khi bực nó hết sức, cứ như cái nhọt trên mông…”
“— Còn chưa quậy bằng một đứa nhóc chín tuổi đâu, tin em đi.”
Khi Shelby kiểm tra chiếc đĩa kẹo thủy tinh có mẻ miếng nào không thì Eli nhặt những cuốn sách mở toang rơi trên thảm. Một cuốn là tạp chí ảnh của bang Vermont. Cuốn còn lại là cuốn sổ thủ công. Tò mò, Eli lật qua một số trang. “Gì đây?”
Shelby nhìn qua từ đằng sau vai anh, má cô hồng lên ngượng ngùng khi Eli lướt qua những câu chuyện cô đã đọc qua nhiều lần rồi cắt dán lại. Ngay tại trang anh đang mở là một bài báo về một cậu bé sáu tuổi bị cá mập cắn ngoài duyên hải Florida. Chân cậu nhóc bị cắn đứt rời và được thành công nối lại, nhưng mất máu quá nhiều làm cậu bé bị hôn mê. Sau vài tuần bị chẩn đoán đã chết não, thì cậu lại tỉnh dậy hoàn hảo như không có chuyện gì.
Bài báo gần nhất là về một đứa bé mới biết nói người Canada đi lạc khỏi nhà và ngủ thiếp đi dưới đống tuyết dày vài mét. “Anh nhớ vụ này,” Eli cất tiếng. “Cậu bé bị công bố là đã chết, và được đưa vào bệnh viện…”
“Và khi bác sĩ dần dần làm ấm cậu nhóc, cậu bé đã tỉnh lại.” Shelby lấy lại cuốn sổ lưu niệm từ tay anh. “Em biết việc này thật ngu ngốc nhưng em vẫn theo dõi. Em cắt những câu chuyện nạn nhân tưởng chừng như đã chết hóa ra… cuối cùng lại không phải. Có lẽ một ngày nào đó có người sẽ sưu tầm câu chuyện về Ethan cùng lý do tương tự.”
Bỗng nhiên Ross chạy xuống cầu thang, tóc anh vẫn ướt vì mới tắm. “Tôi nghe thấy tiếng của anh,” Anh nói với Eli, khi Watson nhảy chồm vào tay anh. “Ông Pike sao rồi?”
Nhưng Eli vẫn bị thu hút bởi câu chuyện về đứa bé người Canada. “Có bác sĩ đến từ McGill,” anh nói. “Ngay tại đường biên giới ở Montreal. Gia đình họ ắt hẳn ở gần đó. Shelby em đi với anh chứ?”
Cô không suy xét tới Ethan, công việc, hay cậu em của mình. Cô không bận tâm những thứ cần chuẩn bị để qua đêm với một người đàn ông mà cô chỉ mới hẹn hò có một lần. Và cô cũng không hỏi tại sao, Eli dường như ngay lập tức cũng bị hấp dẫn trước những trải nghiêm cận tử như cô. Tất cả những gì Shelby biết là khi người ta có cơ hội để bắt gặp phép màu thì họ sẽ không do dự.
Từ tờ Burlington Free Press:
Burlington, VT — Tiến sĩ Thomas Smalley, hiệu trưởng trường Đại Học Vermont, thông báo về kế hoạch đổi tên Thư viện Sinh học Beaumont và Bảo tàng lịch sử nhân loại học Pike. “Trường Đại Học Vermont muốn làm rõ rằng những ý kiến tán thành của những giáo sư trong suốt quá trình nghiên cứu thuyết Ưu sinh của tiểu bang Vermont là thuộc về chính họ và không đại diện cho quan điểm của tập thể trường đại học,” Smalley nói, trong bài phát biểu bằng văn bản. Tên mới sắp tới cho những tòa nhà này sẽ được xem xét bởi ủy ban Cựu Sinh viên.
Khi Eli còn là cậu bé, anh từng tin rằng ranh giới quốc gia và đường xích đạo là những đường được kẻ trên mặt đất, như trong bản đồ. “Lần đầu tiên mẹ anh dẫn anh tới Canada, anh đã xin bà tấp vào lề để anh thấy lằn ranh đó,” Anh kể với Shelby.
“Anh ắt hẳn rất thất vọng nhỉ.”
“Không.” Anh cười lớn, hồi tưởng lại. “Bà lấy một viên phấn từ hộp đựng găng tay và bắt đầu vẽ. Nói rằng tất cả bánh xe trên đường cao tốc ắt hẳn đã xóa chúng đi.”
“Và anh tin bà?”
Anh liếc mắt nhìn cô. “Anh nghĩ mọi người tin vào những gì họ cần tin, phải không?”
“Em cho rằng anh không thể làm cảnh sát nếu anh không phải là người hay nghi ngờ.”
“Không hẳn như thế. Chúng ta vẫn tiếp tục cảm thấy ngạc nhiên mỗi ngày mà.”
Anh tấp xe tải vào một nhà nghỉ trên đường quốc lộ, nằm ngay bên đường vào thành phố Montreal, theo như bản đồ. Có kênh truyền hình HBO, bảng quảng cáo hứa hẹn.
Họ đã đến Canada trong thời gian kỷ lục. Tuy nhiên, giờ này cũng gần 8 giờ tối - nghĩa là hôm sau Eli mới gặp được bác sĩ Holessandro. “Anh rất tiếc đây không phải là khách sạn năm sao Ritz,” Eli xin lỗi. “Nhưng khách sạn Ritz không cho phép dẫn chó vào.”
“Em hy vọng anh đang nói tới Watson. Và đừng lo về phần em. Em cũng rất thoải mái cắm trại ngoài trời mà.”
Chỉ cần tưởng tượng Shelby ép chặt người anh lên thân xe tải là Eli đã dựng cột buồm. Anh bước ra, quay sang chỗ khác, khẽ điều chỉnh quần jean. Shelby theo anh vào sảnh nhà nghỉ có một cậu bé tóc bờm nhuộm xanh đang tự chơi sắp chữ. “Anh nói được tiếng Pháp chứ?” Cô hỏi Eli.
“Không có gì phải lo lắng.” Khi Eli bước tới bàn lễ tân, cậu bé thậm chí không buồn ngẩng lên nhìn anh. “Xin chào.” Anh tròn mắt. “Bonjour (Xin chào).”
“Bonjour (Xin chào),” cậu bé đáp lại, cười với Eli và Shelby, nhất là thấy cặp này đi tay không. “Vous desirez une chambre (Anh chị muốn thuê một phòng)?”
Shelby dợm bước tới. “Để anh lo vụ này,” Eli nói. “Oui, deux chambres, s’il vous plaît (Đúng vậy, vui lòng cho hai phòng).”
Cậu bé nhìn Shelby, rồi lại nhìn Eli. “Deux (Hai phòng)? Vous-êtes sûr (Hai anh chị có chắc không)?”
“Oui (Chắc chắn),” Eli đáp lời.
Cậu trai nhướng mày, “Et Madame?” (Còn chị thì sao ạ?)
“Bon, d’accord. Avez-vous des chambres ou non (Đúng vậy, không sao cả. Thế cậu có phòng hay không)?”
“Oui, oui… ne vous fachez pas. D’abord, j’ai besoin d’une carte de crédit… (Vâng, vâng… Xin vui lòng đừng giận. Trước tiên, tôi cần thẻ tín dụng…)” Eli đặt thẻ MasterCard lên quầy lễ tân. “Voilà les cléfs pour les chambres 40 and 42 (Đây là hai chia khóa của phòng 40 và 42).”
“Merci (Cám ơn).”
“Ou, préférez-vous plus de distance entre les chambres? Deux étages differents peut- être… (Hoặc nếu hai anh chị muốn hai phòng cách nhau xa hơn? Hai tầng lầu khác nhau…)?”
“Non, ça va comme ça (Không, không cần đâu).” Eli cầm tay Shelby và đẩy cô về phía cửa trước. “Bonne nuit, alors… (Vậy thì chúc hai anh chị ngủ ngon…)” Cậu lễ tân nói theo phía sau họ, cười lớn.
Bên ngoài, Eli tiến nhanh tới chiếc xe tải. Khi nãy cậu nhỏ dựng buồm, giờ thì cả người anh phình lên gấp đôi như búa khoan. “Eli…”
“Anh muốn đón con chó. Em biết người ta nói gì về việc bỏ mặc động vật trong xe…”
“Eli” Shelby chống tay lên hông đứng giữa bãi đỗ xe. “Chết tiệt, nghe em này!”
Anh chậm rãi quay lại, thở ra nặng nề. “Gì thế?”
“Lý do em hỏi anh có xài tiếng Pháp không… là vì em có thể làm được và em có thể đăng ký phòng khách sạn cho chúng ta. Anh chị muốn hai phòng cách xa nhau không?” Cô dịch lại, nhại cậu lễ tân. “Hai lầu khác nhau chẳng hạn?”
Xấu hổ, Eli chửi thề. “Shelby, không phải như em nghĩ…”
“Anh không biết em đang nghĩ gì,” cô phản đối, sau đó thêm vào lặng lẽ, “Em nghĩ cậu ta nói đúng. Anh có thể chỉ cần lấy một phòng.”
Eli bước vài bước về phía trước, cho tới khi anh đứng chỉ cách Shelby vài phân. “Không, anh không thể,” anh trả lời.
Anh nhìn ánh sáng phản chiếu từ mắt cô, và nhận ra cô đã hiểu lầm anh. Trong khoảnh khắc, anh ước có khả năng diễn đạt như cô. Anh ước rất nhiều thứ. “Em biết thỉnh thoảng khi em đọc một cuốn sách hoặc xem một đoạn phim thực sự tuyệt vời mà em dừng lại, chỉ để làm khoảnh khắc đó kéo dài không? Anh chẳng muốn gì hơn, ngoại trừ khiến trái tim em rung động. Nhưng điều này dẫn đến gì đó hơn nữa… thì lại quá nhanh. Những gì anh cảm nhận bây giờ - những gì chúng ta cảm nhận - là không đủ. Chúng ta không thể tìm cảm giác đó lại một khi đã mất.” Anh hôn lên trán cô. “Anh không muốn tiến triển chậm chạp, nhưng anh bắt buộc chính mình phải làm như thế.”
“Phù du?” Shelby mỉm cười nhẹ nhàng. “Tương ái?
Eli nháy mắt. “Em không phải là người duy nhất biết đọc từ điển đâu.” Và đằng sau vai cô một vết nứt trên vỉa hè, một dải hàng cây, và hàng rào bỗng nhiên tạo thành bức tường bao quanh thành phố, rõ như ban ngày.
Bệnh viện có phần quá sạch sẽ và quá im lặng. Khi Lucy leo lên giường ngủ, cô bé cố gắng tập trung không tạo ra bất cứ âm thanh gì - không chỉ vì mẹ và bà đang ngủ mà còn bởi vì trên tấm mền nhàu nát cùng với tấm vải nhựa trải giường đã chen chúc đầy những người Lucy có thể thấy, dù không ai khác có thể thấy.
Lucy không muốn đụng chạm tới họ, không muốn tay chân họ quay qua quay lại chạm vào mình và làm mình cảm thấy lạnh trong người đến nỗi xương cốt đau nhức. Lucy không thích cách họ nhìn vào cô bé, như thể họ đang ghen tị vì cô bé là người có thể đi lại trong phòng và được chú ý thậm chí không cần phải cố gắng. Vì vậy Lucy cuộn tròn người lại nhỏ như trái bóng, và ngắm nhìn bà cố nghỉ ngơi.
Mẹ Lucy đã nói với cô bé rằng trái tim của bà cố Ruby đã bị vỡ, và điều này làm Lucy nghĩ tới bình sứ cô bé đã từng làm vỡ một lần và cố gắng lấy keo dán dính lại. Giờ mỗi khi cô thấy cái bình đó, cô bé biết nó đã không còn tốt như xưa nữa.
Lucy cảm thấy tóc gáy dựng đứng khi một cô gái bên cạnh có mái tóc bím dài và mặc chiếc tạp dề sọc nhìn buồn cười thò tay chọc vào cô bé. Cô gái đó nhìn khoảng mười sáu tuổi, và hơi ốm yếu, hai má xanh lét. “Ma poule,” cô gái thì thầm.
Bỗng nhiên bà Ruby chớp mắt tỉnh dậy. “Cháu đây rồi,” bà nói, vươn tay tới Lucy.
“Mẹ đem cháu tới đấy.”
Vào lúc đó, bà Ruby nhìn vô chừng xung quanh. “Mẹ hả? Bà ấy cũng ở đây?” Nhưng trước khi Lucy trả lời, bà cố chạm vào má cô bé. “Simone,” bà gọi, không phải gọi Lucy, “chị đã trở lại.”
“Cháu không phải là Simone,” Lucy thì thầm, nhưng sau đó bà cố của cô bé không còn có thể nghe được nữa. Cô gái linh hồn có mái tóc bím bước tới và đẩy Lucy ra khỏi giường.
Vào ngày 03 tháng 01 năm 2002, Alexandre Proux đã thức dậy trước mẹ cậu nhóc, cô Genevieve. Cậu bé mở cửa sau, cậu mới với tới tay nắm cửa hồi tuần trước, bước ra mái hiên trong bộ đồ ngủ hình Người Nhện. Trời đang đổ tuyết, và cậu muốn chơi.
Ngay lúc mẹ cậu thức dậy và nhận ra cậu đã biến mất, Alenxandre đã bị chôn vùi dưới lớp tuyết. Sáu giờ sau, cảnh sát theo dõi các đường dây bắt cóc và tìm khắp mọi nơi trừ sân sau nhà Alex.
Giờ Alex đã lên ba và đang nghịch chú chó săn mà mẹ cậu mua vào Giáng Sinh năm ngoái. Chú chó bị buộc khăn, và Alex đang cố gắng lồng dây cương vào cổ chú. “Tôi cứ nghĩ rằng con chó con sẽ cắn nó,” Cô Genevieve nói. “Nhưng xem chừng con chó cũng chiều cậu bé như chúng ta vậy.”
“Chị thật may mắn.”
Alex đưa cho mẹ cậu khẩu súng rồi sau đó phi nước đại trên con ngựa giả đau khổ của mình.
“Không sao tả xiết,” Genevieve thêm vào, giờ thì Alex đã ra khỏi tầm nghe chuyện. “Cái lúc thấy con mình, không hiếu động thế này, mà nằm im lìm, Alex có bao giờ chịu yên đâu. Tôi vẫn cứ nghĩ, nó giờ sẽ thức giấc. Nó sẽ mở mắt ra, nhìn tôi và ổn thỏa cả.”
Shelby hiểu. Nếu người ta mất con cái, nỗi đau không chỉ là một phần của vấn đề. Mà nó chính là vấn đề. Đột nhiên chú chó săn con chạy vào trong phòng, mõm ngậm chiếc mũ cao bồi, Alex đuổi theo đằng sau. “Cô cũng có con trai mà, oui?”
“Vâng, cháu tên Ethan. Chín tuổi.”
“Thế thì cô hẳn là hiểu.”
Alex đổi hướng, bay vào vòng tay của mẹ cậu. Cô hôn lên phía sau tai cậu. “Đúng vậy,” Shelby trả lời, ngắm nhìn họ. “Tôi hiểu.”
Bác sĩ Gaspar Holessandro đội bộ tóc giả rất xấu và xem chừng ưa món cá hộp. “Tôi xin lỗi,” ông bảo, liếm ngón tay sau khi mở thêm một hộp đồ ăn khác trên bàn. “Tôi không thường ăn uống trước mặt khách hàng.” Bác sĩ Holessandro bận quá không sắp xếp buổi gặp chính thức được, nên đã đồng ý tranh thủ gặp Eli vào thời gian ăn trưa. Văn phòng của ông sát bên phòng thí nghiệm nghiên cứu tại McGill, ba ngày một tuần, đây là nơi bác sĩ nghiên cứu Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh bằng cách cấy các ống thăm dò vào não lợn con. Bốn ngày còn lại, ông làm việc tại bệnh viện mà cậu bé Alexandre Proux đã được đưa đến trong tình trạng mặt mũi tím rịm, cơ thể cứng ngắc và tưởng chừng như đã chết.
Eli một lần nữa bẻ cong sự thật. Anh giải thích cho bác sĩ Holessandro rằng anh là thám tử tại tiểu bang Vermont, rằng đang có vụ điều tra về cái chết của một đứa bé, với những chi tiết tương tự như trong tình huống của Alex. Anh muốn biết liệu có liệu pháp hồi phục do sốc lạnh, nhờ đó một đứa bé đã bị ngạt thở bỗng nhiên có thể sống lại khi bị mắc kẹt trong hầm lạnh hay chăng? Anh không nói với bác sĩ tất cả chuyện này đều xảy ra vào năm 1932.
Bác sĩ Holessandro nhâm nhi đuôi cá. “Ngạt thở,” ông giải thích, “sẽ gây ra tình trạng ngừng thở… và sẽ làm con người giảm oxy trong máu. Nếu giờ anh là người lớn, thì có nghĩa rằng anh sẽ hít thở nhiều hơn - Nhanh hơn và sâu hơn. Tuy nhiên những đứa bé sơ sinh - cơ thể sinh lý của chúng hoàn toàn khác chúng ta, và đối với chúng, việc thiếu oxy sẽ gây ức chế hô hấp. Vì vậy nếu một đứa bé bị ngạt thở, nó có thể dừng việc hít thở trong vài phút… và sau đó tự động thở trở lại.”
“Ý bác sĩ rằng nó sẽ không chết?”
“Khi anh dừng phần não chịu trách nhiệm hoạt động hô hấp của đứa bé, thì những phần khác của bộ não sẽ đảm nhiệm chức năng này… và việc này sẽ làm đứa bé thở gấp một vài lần. Mục đích chỉ để tiếp thêm oxy để giúp khởi động lại tim và phổi một lần nữa.” Ông cười. “Thật sự rất khó để giết một đứa bé.”
“Nhưng ai đang gây ra tình trạng ngạt thở - chắc chắn rằng anh ta cũng chú ý đứa bé đang thở gấp chứ.”
“Tùy thuộc vào người đó rời đi nhanh như thế nào. Chẳng phải cậu nói chuyện này xảy ra trong hầm chứa nước đá?”
Eli nhún vai. “Đúng vậy.”
Bác sĩ Holessandro lắc đầu. “Đúng là căn hầm lạnh sẽ gây tác động có tính bước ngoặt trong tình huống này. Như đứa bé đã bị ngạt… sau đó thở hổn hển… và đang ở trong môi trường lạnh giá. Trong trường hợp đó thì những gì đã xảy ra với Alexandre sẽ bắt đầu xảy ra với đứa bé kia. Da dẻ sẽ trở nên lạnh hơn, do đó sẽ làm giảm lưu lượng máu, làm lạnh não, gây ra vùng dưới đồi não hạ thấp quá trình trao đổi chất tới mức cơ bản. Có lẽ việc xảy ra thậm chí nhiều hơn thế - đứa bé càng nhỏ tuổi, sự phản xạ càng mãnh liệt, sẽ làm cho hệ thống của cơ thể tạm dừng theo cách đó.”
“Vậy đứa bé sẽ nhìn như đã chết, nhưng thực ra lại không chết?”
“Chính xác. Tình huống này giống như chức năng tiết kiệm năng lượng của máy tính… màn hình tắt nhưng cậu không mất dữ liệu. Tương tự, khi lưu lượng máu chỉ luân chuyển tới những bộ phận cơ quan thiết yếu, da đứa bé sẽ trở nên xanh xao và lạnh ngắt. Đứa bé sẽ không thở một cách rõ rệt, không bắt được mạch. Như Alex.”
“Đứa trẻ có thể duy trì tình trạng đó bao lâu?”
“Nó không thể sống được,” bác sĩ Holessandro nói một cách thẳng thừng. “Về mặt khoa học, theo sách giáo khoa, việc này sẽ không xảy ra. Nhưng quy tắc sinh học lại không giống với quy tắc vật lý, và khi chúng ta thấy tình huống của Alex - thỉnh thoảng cơ chế ấy lại hiệu quả.” Ông nhai miếng cá cuối cùng. “Vậy đứa trẻ của cậu còn sống chứ?”
“Đứa trẻ của tôi?”
“Đứa bé cậu nói. Đứa bé trong tình cảnh đó.”
“Ồ, đúng rồi,” Eli nói. “Chúng tôi thật ra không biết.”
“Vậy nếu đứa bé còn sống, ắt hẳn ai đó đã cố gắng làm ấm nó lên. Đây là cách duy nhất để cơ thể thoát khỏi cơ chế ngủ đông. Đặc biệt một đứa trẻ sơ sinh không thể tự cục cựa nên chúng không thể tự làm ấm bản thân mình.”
Ai đã có mặt vào đêm đó để làm ấm đứa bé? Spencer Pike, cũng có thể, nhưng ông đã thú nhận rằng đã giết đứa bé. Tại sao lại thừa nhận giết người, đó rõ là tội nghiêm trọng hơn, trong khi ông ta có thể giấu đứa bé ở nơi khác, để cho nó sống? Hay cũng có thể bà Cecelia Pike đã giấu được đứa bé vài giờ trước khi bà ta chết. Có lẽ Az Thompson đã đem nó đi, và hãy còn những điều ông chưa kể.
Nhưng nếu đứa bé đã sống trở lại… thì giờ cô bé đang ở nơi quái quỷ nào chứ?
Hy vọng cuộc nói chuyện sẽ giúp cậu tìm ra câu trả lới,” Bác sĩ Holessandro nói.
“Chắc chắn rồi,” Eli đáp lời. Nhưng anh vẫn thấy mình còn chưa hỏi đúng câu cần thiết.
“Đầy đủ rồi nhé,” Ross nói, khi anh đưa cho Ethan một bình bắp rang bơ, sau đó ngồi phịch xuống ghế bành bên cạnh cậu nhóc. Họ đang ngồi trên đường dẫn vào nhà lúc nửa đêm, xem một đoạn video chiếu trên bức tường trắng ga-ra xe. Đây là phim có dán nhãn dành cho người trên 17 tuổi, đầy súng đạn và người chết các thứ, Ethan biết mẹ cậu sẽ tức điên lên nếu bà phát hiện ra.
“Tại sao lại để trong bình ạ?” Ethan hỏi.
“Chúng ta hết tô sạch rồi.” Ross cười toe toét khi màn giới thiệu đầu phim bắt đầu chiếu. “Thế này có phải tốt hơn ở bãi chiếu bóng không?”
Ethan gật đầu. “Điều duy nhất ở đây thiếu là một cô gái ngồi đằng sau.”
Ross lập tức mắc nghẹn bỏng ngô. “Chúa ơi, Ethan. Không phải cháu còn quá trẻ để nghĩ về việc này?”
“Cũng tùy. Cũng do hầu hết mọi đứa con trai khác thường nghĩ tới những chuyện này khi chúng mười bốn hoặc mười lăm tuổi, mà lúc đó cháu chết mất rồi.”
Ross quay sang, đèn chiếu rọi cảnh phim lên má và trán, bóp méo khuôn mặt anh. “Ethan, cháu đâu biết chắc được.”
“Những cậu con trai thường quan hệ tình dục khi họ mười bốn tuổi?” Ethan nói, cố tình hiểu sai ý ông cậu. “Cậu bao nhiêu tuổi khi quan hệ lần đầu tiên?”
“Chắc hẳn không phải vào lúc chín tuổi rưỡi.”
“Thế lần đó như thế nào?”
Trên màn hình, hai cảnh sát bắn vào một tên xấu đang lái chiếc xe mui trần. Chiếc xe mui trần lao vào vách và nổ tung thành biển lửa. Ethan biết diễn viên đóng thế trong cảnh phim này đã mặc đồ chống lửa và thoát khỏi đó nguyên lành. Người ta cứ thế chết trên phim rồi sống lại rồi lại chết, như một trò đùa.
Cậu nhóc có thể thấy rằng ông cậu của mình đang cố gắng lựa lời, nhưng cậu cũng biết những gì cậu Ross sẽ nói với cậu đều là sự thật. Không giống như mẹ cậu, chỉ muốn giữ cậu làm trẻ con càng lâu càng tốt, cậu Ross hiểu chính xác người ta nên trải nghiệm những gì trên đời trước khi ra đi. “Khá tuyệt vời,” Ross trả lời. “Cảm giác giống như được về nhà.”
Không hiểu sao, Ethan cứ thấy cách diễn đạt ấy sai sai. Cậu nghĩ tới những từ “quấn quýt”, “ướt át”, “bùng nổ”, như những đối thoại trên kênh Playboy phát ra từ loa tivi mặc dù không đóng tiền thì không xem hình được. Cậu tự hỏi phải chăng mẹ cậu ở Canada đang làm những thứ đại loại như “quấn quýt”, “ướt át”, “bùng nổ” với thằng cha Eli, cái người đã làm bà cảm thấy hạnh phút mỗi khi ông ta ghé qua. Mấy ngày này, đầu óc bà toàn nghĩ tới tay thám tử đó. Cậu nhớ cách hai người nói chuyện với nhau trong khi bà làm bánh pancake vài đêm trước, ông ta kể vớ vẩn về một cây gậy nhún thông minh mà ông thấy quảng cáo trên tivi, không chỉ biết đếm số lần nhảy mà còn biết tự phát lời động viên, rồi kêu tên người chơi nữa. Thế mà mẹ cậu khen “Nghe hay nhỉ”.
“Hay là sinh nhật tới cho con món ấy đi,” Ethan đề nghị, và mẹ cậu quay sang cậu, ngơ ngác.
“Món gì hả con?”
“Gậy nhún ấy ạ?”
“Gậy nào nhỉ?” Mẹ cậu hỏi rồi lắc đầu, tung lật mặt miếng bánh lần nữa, dù nó đã chín từ đời nào.
Cậu Ross vẫn tiếp tục giải thích. “Cậu nghĩ khi cháu ngủ với một ai đó, cháu đã mang một phần của cô gái đó theo cháu. Không chỉ là những thứ về mặt thể chất - như tế bào hay đại loại thế, mà còn một phần nào đó khiến cô gái đó là chính cô ấy.”
Ai cũng đều có một người dành cho mình, Ethan nghĩ. Ai cũng có, trừ chính cậu. “Có lẽ cháu chỉ có thể hôn một cô gái để giờ và mãi về sau cô gái đó sẽ chỉ nghĩ đến cháu. Cậu biết đấy, đó là cậu bé mắc bệnh đó và đã chết mà tôi đã hôn.”
“Ethan, cháu không…”
“Cậu Ross,” cậu nói một cách mệt mỏi. “Cậu cũng đừng nói dối cháu nữa đi.”
Ý nghĩ mình sắp chết luôn thường trực, như hòn đá tắc trong dạ dày. Cậu biết do mình xui xẻo khi số phận bốc thăm trúng bộ gene xấu, cậu sẽ chết trẻ, không còn đường chọn lựa. Cậu không muốn tìm đến chúa Jesus, hay làm di chúc, hoặc bất kể những gì mà mọi người hay làm khi họ biết trước họ sắp lìa cõi trần. Cậu chỉ muốn sống.
Trong phim, một tên bị máy cưa xích cắt rớt tay.
Ethan với lấy bàn tay của cậu mình. Cậu vén ống tay áo để lộ vết sẹo ở mặt trong cánh tay. “Tại sao?” Cậu thì thào.
“Sự khác biệt giữa chúng ta là cháu là anh hùng, Ethan, còn ta là tên hèn nhát.” Ross đẩy tay Ethan ra và kéo ống tay áo xuống. “Cá nhân cậu sẽ đảm bảo cháu sẽ được hôn một cô gái trước khi cháu mất, thậm chí nếu ta phải thuê một cô nào đó,” Anh nói, và rõ là không nói giỡn, điều này làm Ethan muốn khóc.
Một loạt tiếng súng phát ra từ loa. Ethan thọc tay vào bình bắp rang bơ, tạo ra tiếng sột soạt như lá mùa thu. “Giờ cậu còn cảm thấy như muốn chết nữa không?” Cậu nhóc hỏi.
Ross lắc đầu. “Không.”
“Cháu cũng vậy,” Ethan nói, quay mặt lên màn hình.
Eli thuộc dạng cảnh sát không thể ngủ được khi vụ án vẫn chưa kết thúc. Lại thêm chút bứt rứt dục tình còn vướng vất, nên cơn bão nửa đêm vừa tan, anh ra ngoài đi dạo dọc bãi đỗ xe của nhà nghỉ. Watson đang nằm gần một ô đỗ xe còn trống, đầu tựa lên hai chi trước, mắt dõi theo Eli bước trên mặt đất lầy lội.
Shelby đang ngủ. Anh nghĩ vậy. Ban tối cô hôn anh chúc ngủ ngon mà say đắm đến mức vài giờ sau đó anh vẫn còn có thể cảm nhận được ngực và hông cô áp trên người mình. Sau đó cô đóng cửa phòng nhà nghỉ trước mắt anh. Đây là một loại trừng phạt, anh chắc chắn như thế, cho đáng cái tội đạo đức “chờ tình cảm tiến triển từ từ”.
Anh tự hỏi cô mặc gì khi ngủ. Áo ngủ lụa? Hay pi-ja-ma vải flanen?
Hay không mặc gì?
Mà sao anh lại muốn từ từ? Cô đã nói với anh rằng cô cũng thích anh, và cô đã sẵn sàng. Nếu anh bước vào bên trong và gõ cửa phòng cô, có khi cô chỉ quấn hờ tấm khăn ra mở cửa. Eli dám chắc nếu có điều gì đó gạt được vụ giết người ra khỏi đầu óc anh, thì đó là làm tình với Shelby Wakeman.
Nhưng người phụ nữ khiến anh rung động nhiều nhất trong khoảng thời gian ngắn ngủi chính là vợ anh. Anh cưới cô chỉ vài tháng sau cuộc hẹn hò lần đầu tiên, đinh ninh rằng tình yêu của cô dành cho anh cũng đậm sâu như kênh đào tại Atlantic. Thế rồi cô bỏ anh theo một tên khác.
Eli sẽ không để việc này xảy ra với anh một lần nữa. Cách dễ nhất để không bị bỏng là tránh ra đám cháy tiềm tàng.
“Sữa nhé.”
Eli quay qua thấy Shelby đang đứng cách đó vài mét trong chiếc áo thun ba lỗ và quần dài in hình quả dâu. Cô bước tới gần hơn, đi chân đất trên nền đất ướt. Chỉ mới nhìn bàn chân trần của cô, Eli đã đổ mồ hôi hột. “Chuyện gì thế?”
“Sữa. Hâm nóng. Giúp ngủ ngon đấy.” Cô mỉm cười với anh. “Anh không ngủ được, đúng không?”
Cô chẳng hiểu gì.
“Em vẫn làm thế khi nhịp sinh học rối lên - anh biết đấy, kể từ khi thức đêm cùng với Ethan rồi đi ngủ khi trời sáng trắng.”
Eli không nghe được câu nào ngoài từ “đi ngủ”. Anh gật đầu, tưởng tượng lúc chạm vào cô. Ngực áo thun cô mặc nhô lên, thấp thoáng nét da thịt, và Eli cảm thấy anh như ngừng thở.
Thiếu dưỡng khí, anh nghĩ.
Eli nhìn xuống đất, lấy lại bình tĩnh. Một dấu chân của Shelby, mảnh khảnh và bằng phẳng, tình cờ đạp lên dấu chân anh - lớn hơn, rộng hơn. Đây là hành động gợi tình nhất mà anh từng thấy.
Chúa ơi, mình mất bình tĩnh rồi.
Quái quỷ thật, anh vừa nghĩ thầm vừa bước qua mặt đường đầy bùn, về phía cô. Chuyện gì xảy ra thế này, anh nghĩ, di chuyển trên con đường đầy bùn về phía cô. Anh có thể đã đưa cô lên giường chỉ trong vòng ba phút, hậu quả tính sau. Anh đi ngang qua Watson, qua vệt dấu chân chồng lên nhau khiến người anh nóng bừng bừng – bỗng anh dừng lại.
Hai dấu chân chồng lên nhau, như trong những tấm ảnh được chụp tại hiện trường vụ án sau khi bà Cecelia Pike bị sát hại: Lần đầu tiên Eli chú ý chi tiết đó là khi anh dùng tấm ảnh để chỉ ra lỗ hổng trong trong giả thuyết Sói Xám có mặt ở đó treo cổ Cecelia. Hiển nhiên nếu Cissy bị bắt cóc từ phòng ngủ sau khi sinh con, thì bà sẽ không mang giày ống rồi để lại dấu chân đằng sau. Bà sẽ chạy chân trần từ giường ngủ, như Shelby.
Đôi giày của ông Pike in dấu nổi bật hơn… Ông là người đã hạ thi thể xuống mà. Nhưng có một dấu giày của một người phụ nữ in hằn lên dấu giày của ông ta, y như như dấu chân anh và Shelby vừa nãy - dấu chân nhỏ hơn của một người phụ nữ chồng lên dấu chân to hơn của một người đàn ông, và rõ ràng dấu chân người đàn ông kia phải có trước.
Một người phụ nữ chết rồi hẳn không thể bước đi.
“Anh biết tìm đứa bé ở đâu rồi,” Eli nói.
Ross tin về cuộc sống ở thế giới bên kia. Hơn nữa, anh cũng tin rằng người mình yêu kiếp này chính là người mình yêu kiếp trước, trước nữa. Đôi khi mình lỡ hẹn với người đó, tỉ như cô ấy tái sinh vào sau Thế chiến thứ nhất còn mình mãi đến thập niên 50 mới ra đời. Cũng có khi giữa đường đời chạm mặt nhưng không nhận ra nhau. Nếu gặp đúng người, thì sẽ yêu điên cuồng, thật lòng, sâu sắc, và có lẽ sự vô tận mở ra chỉ dành riêng cho họ.
Giả sử Lia Pike sinh ra để dành cho Ross thì sao? Nếu cô bị giết trước khi cô có thể tìm thấy anh, sau đó lại đầu thai thành Aimee… rồi cô ấy chỉ ngẫu nhiên qua đời sau khi yêu anh? Giả sử giờ cô ám anh bởi vì không có cách liên kết nào khác?
Giả sử lý do anh muốn tự tử không phải do trầm cảm, mất cân bằng chất hóa học trong não, rối loạn nhân cách ranh giới, hay những lý do gì mà người ta gán cho anh… mà chỉ vì nếu kết liễu đời này, anh có thể bắt đầu một cuộc sống khác với người phụ nữ của đời mình?
Anh nhìn vào bảng tin cáo phó trong tay mà ông Az Thompson đã đưa cho anh vài ngày trước. Giờ, xác của Lia đã nằm tại nơi mà cô ấy thuộc về. Phần còn lại của cô đang đợi anh. Cô thậm chí đã bày tỏ như vậy, bằng cách viết tắt chữ cái đầu tên anh.
“Ross!”
Tiếng Shelby văng vẳng dưới cầu thang. Anh gấp hình của Lia lại và nhét tấm hình vào trong túi sau đó bước vào phòng khách, thấy Eli Rochert và chị anh đang tươi cười, thêm chú chó khổng lồ đứng giữa.
“Ethan đâu rồi?” Shelby hỏi.
Ross nhìn đồng hồ treo tường. Anh không đeo đồng hồ - tại sao mất công đeo khi anh đâu thể tăng tốc thời gian của mình trên Trái Đất này - và cũng không để ý rằng đêm đã trôi qua. “Em đoán cậu nhóc vẫn còn chơi trượt ván bên ngoài.”
“Chị sẽ đi xem thử.” Shelby băng ngang qua bếp, sau đó quay lại nhìn Eli. “Làm đi. Kể với cậu ta đi’’
“Kể với em chuyện gì?” Ross hỏi.
Eli ngồi xuống ghế rồi lôi ra một nắm giấy tờ, trải ra nệm. “Ông Pike đã bóp ngạt đứa bé, ông nghĩ đứa nhỏ đã chết rồi. Rồi ông bỏ đứa bé trong kho lạnh khi ông ta báo tin ấy cho vợ. Đứa bé tự hồi sinh…”
“Sao chứ?”
“Cứ tin tôi lần này đi. Rồi nó hít thở trở lại, sau đó lại lâm vào chế độ ngủ đông