CHƯƠNG 4
Hắn thức dậy bởi tiếng con gà gô trắng cất cánh bay lên trời từ các bụi cây lý gai, ngay bên ngoài cửa sổ phòng ngủ của hắn ở ngoại ô Charlottenburg. Hắn thức dậy vì mùi hoa mộc lan.
Hắn còn thức dậy vì cơn gió trứ danh ở Berlin, mà theo lời mấy thanh niên và các bà nội trợ già, nó thấm đẫm bụi kiềm, kích thích những ham muốn trần tục.
Hoặc là do cơn gió kỳ diệu hoặc là do con người trong thời đại nhất định, Reinhard Ernst vẫn thấy mình đang hình dung người vợ tóc nâu quyến rũ, 28 tuổi của hắn, Gertrud. Hắn quay người sang để ngắm cô, nhưng hắn chi nhìn thấy nửa nhăn nhúm trên chiếc giường gấp của hai vợ chồng. Hắn không thể ngăn mình mỉm cười. Hắn mãi mãi bị kiệt sức vào những buổi tối sau khi làm việc 16 tiếng một ngày, vợ hắn luôn dậy sớm theo đúng tính cách của cô. Dạo sau này, khi đi ngủ hai vợ chồng còn hiếm khi nói với nhau vài câu.
Lúc này, hắn nghe thấy từ dưới nhà vang lên tiếng bát đũa lanh canh trong bếp. Đã 7 giờ sáng. Ernst mới chỉ ngủ được có bốn tiếng.
Hắn vươn vai, cố nhấc cánh tay đau đớn càng xa càng tốt rồi mát xa, cảm nhận thấy miếng kim loại hình tam giác nằm gần vai hắn. Có cảm giác quen thuộc và thật kỳ lạ là hắn thấy dễ chịu đối với mảnh đạn ấy. Ernst tin vào chuyện gợi nhớ về quá khứ và trân trọng những kỷ vật suốt bao nhiêu năm tháng qua, cho dù chúng đã suýt cướp mất của hắn một cẳng tay và cả mạng sống.
Hắn xuống giường, cởi áo ngủ ra. Vì Frieda sắp đến nhà nên hắn mặc chiếc quần cưỡi ngựa vào, bỏ lại cái áo sơ mi, đi tới phòng nghiên cứu kề bên phòng ngủ. Tay đại tá 56 tuổi có mái tóc xám ôm khít cái đầu tròn. Những nếp nhăn hình thành quanh miệng hắn. Chiếc mũi nhỏ của hắn theo kiểu Roman và đôi mắt nằm sát gần nhau, khiến hắn vừa có vẻ ngoài trí thức vừa có vẻ ngoài của kẻ săn mồi. Những đường nét này khiến đồng đội tặng cho hắn biệt danh “Ceasar” từ Thế Chiến thứ I.
Trong cả mùa hè, hắn cùng đứa cháu trai Rudy thường tập thể dục cùng nhau vào buổi sáng. Cùng lăn trái bóng thể dục, cùng nâng chùy thể dục, hít đất và chạy tại chỗ. Tuy nhiên, vào những ngày Thứ Tư hay Thứ Sáu, thằng bé tham gia khóa học hè được bắt đầu sớm tại trường nên Ernst buộc phải tập một mình. Một nỗi thất vọng đối với hắn.
Hắn bắt đầu hít đất và uốn gối được mười lăm phút. Đáng tập, hắn bỗng nghe thấy tiếng gọi, “Ông ơi!”
Hít thật sâu, Ernst dừng lại rồi nhìn xuống sảnh. “Chào cháu, Rudy.”
“Xem cháu vẽ gì này,” Thằng nhóc bảy tuổi mặc đồng phục, tay giơ lên một bức tranh. Ernst không có kính nên không nhìn được bức tranh rõ ràng. Nhưng thằng bé nói thêm, “Là con đại bàng.”
“Phải, dĩ nhiên rồi. Ông đoán được.”
“Và nó đang bay qua một cơn bão sét.”
“Cháu vẽ con đại bàng mới dũng cảm làm sao.”
“Ông có xuống ăn sáng không ạ?”
“Có, cháu nói với bà, ông sẽ xuống trong mười phút nữa. Hôm nay cháu ăn trứng chưa?”
Thằng bé đáp, “Cháu ăn rồi ạ.”
“Ngoan lắm. Trứng rất tốt cho cháu.”
“Ngày mai, cháu sẽ vẽ con chim ưng.” Thằng bé gầy mảnh khảnh, tóc vàng quay bước chạy xuống gác.
Ernst trở về với bài tập của mình, nghĩ đến hàng tá vấn đề cần phải tham gia hôm nay. Hoàn thành xong chế độ tập luyện, hắn đi tắm nước lạnh, rũ sạch đi cả mồ hôi lẫn bụi kiềm. Khi đang lau khô người, điện thoại chợt reo vang. Hai tay hắn ngừng lại giữa chừng. Trong những ngày này, không cần biết chức quyền của anh trong chính phủ Phát xít cao đến đâu, một cuộc gọi vào giờ lạ thế này đều phải quan tâm.
“Reinie.” Gertrud gọi, “Anh có điện thoại này.”
Hắn mặc chiếc áo sơ mi vào, chẳng buồn mang vớ hay giày, hắn bước xuống nhà, nhận ống nghe từ tay vợ.
“A lô? Tôi, Ernst đây.”
“Đại tá.”
Hắn nhận ra giọng một trong các thư ký của Hitler. “Chào cô, Lauer.”
“Chào Đại tá. Lãnh tụ bảo tôi thông báo rằng Ngài phải có mặt tại Văn phòng Thủ tướng ngay lập tức. Nếu Ngài có bất kỳ kế hoạch nào khác, tôi e Ngài phải hủy hết.”
“Vui lòng chuyển lời cho Thủ tướng Hitler rằng tôi sẽ có mặt ngay lập tức. Trong văn phòng của Người à?”
“Chính xác là vậy.”
“Còn ai nữa tham dự không?”
Một thoáng ngập ngừng rồi cô ta đáp, “Đó là toàn bộ thông tin tôi được biết, thưa Đại tá. Hail Hitler!”
“Hail Hitler!”
Hắn gác máy nhưng vẫn nhìn chằm chằm cái điện thoại, tay vẫn đặt trên ống nghe.
“Ông ơi, ông không đi giày à?” Rudy chạy lên đứng bên cạnh hắn, tay vẫn nắm chặt bức tranh. Nó phá lên cười, nhìn bàn chân trần của ông nội.
“Ông biết, Rudy. Ông phải đi mặc quần áo đã.” Hắn nhìn điện thoại một lúc lâu.
“Chuyện gì vậy ông? Có gì không ổn ạ?”
“Không có gì, Rudy.”
“Mẹ cháu bảo bữa sáng của ông đang nguội rồi kìa.”
“Cháu ăn hết món trứng của mình chưa?”
“Cháu ăn rồi ạ.”
“Nhóc ngoan. Bảo với mẹ và bà cháu là một lúc nữa ông sẽ xuống nhà. Nhưng bảo họ cứ ăn sáng đi, không cần chờ ông.”
Ernst đi lên gác cạo râu, nhận thấy khao khát đối với người vợ cùng cơn đói trước bữa sáng đang chờ hắn đã biến mất sạch.
Bốn mươi phút sau, Reinhard Ernst đã đang bước qua hành lang tòa nhà Văn phòng Thủ tướng giao giữa phố Wilhelm và phố VoSS ở trung tâm Berlin, len lỏi qua đám công nhân xây dựng. Tòa nhà này cũ rồi - rất nhiều phần trong tòa nhà được xây từ thế kỷ XVIII - trở thành ngôi nhà cho nhiều lãnh đạo Đức kể từ Bismarck.
Đôi khi Hitler lại tung ra những tràng đả kích về sự xác xơ của kiến trúc - và cũng vì văn phòng Thủ tướng vẫn chưa xây xong - y không ngừng ra lệnh phải đổi mới tòa nhà cũ.
Tuy nhiên kiến trúc cũng như kết cấu không phải là vấn đề Ernst quan tâm lúc này. Mà hắn chỉ đang nghĩ đến hai điều: Những hậu quả cho sai lầm của hắn sẽ là gì? Tính toán sai của hắn sẽ tệ đến mức nào?
Hắn giơ cao cánh tay theo quán tính chào “Hail Hitler” với bảo vệ, anh ta nhiệt tình đứng nghiêm chào vị đại diện toàn quyền cho sự ổn định đất nước, một chức danh mà khi mang nó trên mình, hắn thấy nặng nề và đáng xấu hổ, như thể đi đôi giày ướt nhẹp, xơ cả chỉ. Ernst tiếp tục bước xuống hành lang, mặt vô cảm, chẳng biểu lộ chút gì những ý nghĩ rối tung trong đầu về tội lỗi hắn phạm phải.
Và đó là tội gì?
Tội không chia sẻ thông tin với Lãnh tụ.
Có lẽ đây chỉ là một vấn đề nhỏ tại các nước khác, nhưng ở đây nó có thể biến thành vấn đề trọng yếu trong việc bảo vệ thủ đô. Thế nhưng đôi khi bạn không thể chia sẻ tất cả. Một khi bạn đã cung cấp cho Hitler tất cả chi tiết về một ý tưởng, tư duy của y có thể gạt đi hết những khía cạnh quan trọng nhất của ý tưởng đó và thế là tiêu, chết không một lời trăn trối. Đừng bao giờ bận tâm đến việc bạn chẳng thu được lợi ích cá nhân nào, mà chi nghĩ đến lợi ích tốt nhất của Tổ quốc.
Nhưng nếu bạn không nói với y… Ôi, vấn đề sẽ còn tồi tệ hơn nhiều. Trong bộ óc hoang tưởng của mình, y có thể quyết định rằng bạn đang ỉm thông tin vì lý do nào đó. Rồi những con mắt sắc lạnh của bộ máy an ninh của Đảng sẽ chĩa vào bạn và những người bạn yêu thương… đôi khi điều đó có thể gây ra những hậu quả chết người. Và Reinhard Ernst tin rằng đến giờ này, chuyện đó đã xảy ra, xét theo những lệnh triệu tập bí mật và ép buộc dự họp sớm, ngoài dự kiến thế này. ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ là hình ảnh hiện thân của trật tự, cấu trúc và quy củ. Bất kỳ điều gì khác thường đều đáng báo động.
Ôi, lẽ ra hắn nên nói với y điêu gì đó về Nghiên cứu Waltham, khi suy nghĩ lần đầu tiên hình thành trong đầu hắn tháng Ba năm ngoái. Tuy nhiên, Lãnh tụ, Bộ trưởng Quốc phòng Von Blomberg và chính bản thân Ernst vẫn còn bận rộn với việc chiếm lại Rhineland đến mức nghiên cứu bị xếp sau nước đi liều mạng giành lại phần lãnh thổ rơi vào tay Đồng Minh theo Hiệp ước Versailles. Và thật tình mà nói, nghiên cứu này phần nhiều dựa trên công trình hàn lâm mà Hitler sẽ thấy nghi ngờ, nếu không muốn nói là khiến y kích động. Đơn giản là Ernst không muôn bàn đến vấn đề này.
Và bây giờ hắn phải trả giá vì thiếu sót đó.
Hắn thông báo với thư ký của Hitler và được cho vào.
Ernst bước vào trong phòng ngoài, thấy mình đứng trước mặt Adolí Hitler - nhà Lãnh tụ, Thủ tướng, là chủ tịch ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ và là tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang, đang suy nghĩ như y thường xuyên làm: Nếu uy tín, năng lượng và khôn ngoan là những thành phần căn bản tạo nên quyền lực, thì đây chính là người đàn ông quyền lực nhất thế giới này.
Mặc đồng phục màu nâu và đôi giày ống đen sáng bóng, Hitler đang cúi xuống bàn lật lật mấy trang giấy.
“Chào ngài Lãnh tụ ” Ernst nói, gật đầu tôn kính và khẽ giậm gót giày, gợi nhớ lại những ngày tháng trong Đệ Nhị Đế Chế đã kết thúc 18 năm trước với việc Đức đầu hàng và chuyến bay của Hoàng đế Wilhelm đến Hà Lan. Cho dù tất cả công dân đều phải chào “Hail Hitler” hoặc “Hail Victory”, nhưng cử chỉ trang trọng là điều hiếm thấy trong hàng ngũ tướng tá cấp cao hơn, ngoại trừ đối với những kẻ nịnh hót, ủy mị.
“Chào Đại tá,” Hitler ngước lên nhìn Ernst với đôi mắt màu xanh nhạt dưới hàng mi rủ - đôi mắt vì lý do nào đó tạo ấn tượng rằng y đang cân nhắc hàng tá chuyện một lúc. Mãi mãi không thể nào đọc được tâm trạng của y. Hitler tìm thấy tài liệu mình cần rồi quay lưng bước vào trong văn phòng được trang trí khiêm tốn. “Vui lòng vào cùng chúng tôi.” Ernst đi theo. Khuôn mặt điềm tĩnh của người lính không có phản ứng gì, nhưng trái tim hắn chùng xuống khi trông thấy những người khác có mặt trong phòng.
Vã mồ hôi với dáng người bệ vệ, Herman Göring đang nằm ườn trên chiếc ghế dài kêu cót két dưới trọng lượng của lão. Phàn nàn rằng mình lúc nào cũng bị đau, tên mặt tròn này luôn ngọ nguậy khiến người ta phải cúi mình trước lão. Mùi nước hoa Cologne dùng quá đà của lão bay khắp phòng. Tên Bộ trưởng Quốc phòng gật đầu với Ernst, hắn cũng gật đầu chào lại.
Một người nữa ngồi trên chiếc ghế chạm trổ công phu, đang nhấp ngụm cà phê, hai chân vắt chéo như dáng ngồi đàn bà, kẻ bù nhìn với cái chân bị tật Paul Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền. Ernst không nghi ngờ gì kỹ năng của ông ta, ông là người chịu trách nhiệm chính trong việc xây dựng chỗ đứng vững chắc, đầu tiên của Đảng Phát xít tại Berlin và Phổ. Mặc dù vậy, Ernst vẫn xem thường ông ta, kẻ không ngừng nhìn chằm chằm Lãnh tụ bằng đôi mắt ngưỡng mộ. Vừa phút trước ông ta trình bày một cách hấp dẫn, đỏm dáng lời đồn đại nhơ bẩn về những nhân vật xuất chúng là người Do Thái hay là Đảng viên Đảng Xã hội, ngay phút sau ông ta lại chêm vào mấy cái tên diễn viên nổi tiếng của Đức trong UFA Studios. Ernst chào ông ta rồi ngồi xuống, nhớ lại một trò đùa gần đây đang được lan truyền: Mô tả tộc người Aryan lý tưởng. Phải làm sao để có được mái tóc vàng như của Hitler, mảnh mai được như Göring và cao được như Goebbels.
Hitler trao tài liệu cho Göring với đôi mắt sung húp. Hắn ta đọc, gật đầu rồi nhét lại tài liệu vào tập hồ sơ bằng da xa xi mà không nhận xét gì. Lãnh tụ ngồi xuống, tự rót cho mình một cốc cacao. Y nhướn mày về phía Goebbels, ra ý ông ta nên tiếp tục bất kỳ điều gì họ đã, đang thảo luận. Ernst nhận ra số phận của hắn liên quan đến Nghiên cứu Waltham chắc sẽ còn bị quên lãng một thời gian dài nữa.
“Như tôi đã nói, thưa Lãnh tụ, rất nhiều du khách đến Thế vận hội sẽ quan tâm đến lĩnh vực giải trí.”
“Chúng ta có các quán cà phê và nhà hát. Chúng ta có các bảo tàng, công viên và rạp chiếu bóng. Họ có thể xem các bộ phim Babelsberg của chúng ta, xem Greta Garbo và Jean Harlow. Rồi Charles Laughton và Chuột Mickey.” Giọng nói nôn nóng của Hitler cho Ernst biết rằng y hiểu chính xác ý Goebbels nói đến loại hình giải trí nào. Tiếp theo sẽ là một tràng tranh luận dài và kiểu cách đến không thể chịu nổi về việc cho phép các ả điếm hợp pháp - “những cô ả kiểm soát” được cấp phép - một lần nữa bước ra phố. Ban đầu, Hitler phản đối ý tưởng ấy, nhưng Goebbels đã suy nghĩ thấu đáo vấn đề này nên tranh luận rất thuyết phục, cuối cùng Lãnh tụ đã xuôi xuôi, với điều kiện rằng không cho phép quá bảy nghìn phụ nữ trên toàn bộ phạm vi thủ đô. Tương tự, điều khoản trong Bộ luật Hình sự nghiêm cấm đồng tính luyến ái, Điều 175, sẽ tạm thời được nới lỏng. Có vô số lời đồn thổi về những sở thích riêng của Hitler - từ bệnh hoạn với những đứa bé trai, thú vật rồi cả phân người. Cho dù Ernst phải thừa nhận rằng con người này đơn giản không quan tâm đến tình dục, người tình duy nhất y khao khát chính là nước Đức.
“Cuối cùng,” Goebbels khéo léo nói tiếp, “có vấn đề hình ảnh công cộng. Tôi đang nghĩ đến việc nên chăng chúng ta cho phép phụ nữ mặc váy ngắn một chút.”
Khi người đứng đầu ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ và sĩ quan quân đội của y tranh luận, về độ dài váy, mức độ phụ nữ Berlin có thể được phép chạy theo thời trang thế giới, con sâu khó chịu tiếp tục gặm mòn trái tim Ernst. Tại sao tối thiểu hắn lại không nói đến tên của Nghiên cứu Waltham mấy tháng trước? Hắn có thể đã gửi thư lên Lãnh tụ, với dòng ám chỉ qua loa đến nghiên cứu này. Một nghiên cứu hiểu biết tất cả những vấn đề của ngày hôm nay.
Tranh luận vẫn tiếp tục. Rồi Lãnh tụ nói chắc nịch, “Váy có thể ngắn thêm 5 phân. Chỉ thế thôi. Nhưng chúng ta sẽ không ủng hộ trang điểm.”
“Vâng, thưa Lãnh tụ.”
Một lúc im lặng khi đôi mắt Hitler chăm chú nhìn vào góc phòng như mọi khi. Sau đó, y liếc xéo về phía Ernst. “Đại tá.”
“Vâng, thưa ngài?”
Hitler đứng dậy bước đến bàn mình. Y cầm lên một tờ giấy rồi chậm rãi bước về phía những người kia. Göring và Goebbels vẫn nhìn xoáy vào Ernst. Cho dù mỗi tên đều tin rằng hắn là cố vấn đặc biệt của Lãnh tụ. Tận trong thâm tâm, hắn lo sợ rằng ân điển là tạm thời, hoặc kinh hoàng hơn, chỉ là hão huyền, và vào bất kỳ lúc nào hắn cũng sẽ ngồi đây, cho dù có thể không có được sự tự tin, điềm tĩnh của một đại tá, mà là giống như Ernst, một con lửng bị trói chặt.
Lãnh tụ vuốt hàng ria mép của y. “Một vân đề quan trọng.”
“Dĩ nhiên, thưa Lãnh tụ. Tuy nhiên, tôi có thể giúp.” Ernst nhìn thẳng vào mắt y, trả lời chắc chắn.
“Nó liên quan đến không quân của chúng ta.”
Ernst liếc nhìn Göring với đôi má hồng hào bao quanh nụ cười giả tạo. Một phi công xuất sắc trong Thế Chiến thứ I (dù chính Nam tước Richthofen phản đối vì cho rằng lão luôn tấn công vào dân thường), giờ đây lão vừa là Bộ trưởng Không quân vừa là Tổng tư lệnh không quân Đức - riêng cái này là chức vụ lão thích nhất trong hàng tá chức vụ mình nắm giữ. Không quân cũng chính là chủ đề khiến Göring và Ernst gặp nhau thường xuyên nhất và tranh luận với nhau ác liệt nhất.
Hitler trao tài liệu cho Ernst. “Cậu đọc được tiếng Anh không?”
“Một chút, thưa ngài.”
“Đây là thư do đích thân Charles Lindberg viết,” Hitler tự hào nói. “Anh ta sẽ tham gia Thế vận hội với tư cách vị khách đặc biệt của chúng ta.”
Thật sao? Đây là một thông tin thú vị. Göring lẫn Goebbels cùng cười, vươn người về phía trước gõ gõ lên mặt bàn, cho thấy cả hai ủng hộ tin tức này. Ernst cầm lá thư bằng tay phải, phần mu bàn tay phải, giống như cái vai của hắn, có vết sẹo do mảnh đạn để lại.
Lindberg… Ernst đã từng say sưa theo dõi câu chuyện về chuyến bay xuyên Atlantic của người này, nhưng hắn còn xúc động hơn nhiều trước thông tin khủng khiếp về cái chết của con trai viên phi công. Ernst hiểu nỗi kinh hoàng khi mất đi đứa con. Vụ nổ kho vũ khí bất ngờ trên tàu cướp đi mạng sống của Mark đúng là bi kịch, đau đớn; đúng, nhưng ít nhất con trai của Ernst nắm quyền chỉ huy tàu chiến và còn được sống để thấy con trai mình, Rudy, chào đời. Để mất một đứa trẻ vào tay một tội phạm -đó là điều khủng khiếp.
Ernst xem tài liệu, hắn có thể hiểu được những từ ngữ thân mật, thể hiện mối quan tâm được chứng kiến những phát triển trong lĩnh vực hàng không của Đức gần đây.
Lãnh tụ nói tiếp, “Đây là lý do tại sao ta cho gọi cậu Đại tá. Một số người cho rằng, việc chúng ta chứng tỏ cho thế giới thấy sức mạnh không ngừng tăng của chúng ta trên bầu trời, sẽ mang lại giá trị chiến lược. Ta thiên về hướng tự cảm nhận điều này theo cách của mình. Cậu nghĩ sao về một cuộc triển lãm hàng không nhân danh ngài Lindberg, theo đó chúng ta giới thiệu luôn máy bay một lớp cánh mới của chúng ta?”
Ernst thực sự nhẹ nhõm khi các lệnh triệu tập không nói về Nghiên cứu Waltham. Nhưng cảm giác này không kéo dài lâu. Những mối bận tâm của hắn một lần nữa nổi lên khi hắn cân nhắc điều mình được hỏi… và câu trả lời hắn phải đưa ra. Tất nhiên, “một số người” Hitler nói đến ở đây là Hermann Göring.
“Máy bay một lớp cánh, thưa ngài, à…” Chiếc Me 109 của MeSSerschmitt là một cỗ máy giết người siêu việt, một chiến cơ với tốc độ ba trăm dặm một giờ. Trên thế giới còn nhiều chiến cơ một lớp cánh nữa, nhưng đây là loại nhanh nhất. Dù điều quan trọng hơn đó là Me 109 có kết cấu khung toàn bằng kim loại. Điều này Ernst đã ủng hộ trong một thời gian dài, vì với kết cấu này cho phép dễ sản xuất hàng loạt, có thể sửa chữa và bảo trì được ngay trên chiến trường. Cần phải có số lượng chiến cơ thật lớn nhằm hỗ trợ các nhiệm vụ ném bom hủy diệt, Ernst đã lên kế hoạch, như sự chuẩn bị cho bất kỳ cuộc xâm lược nào trên đất liền của quân đội ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ.
Hắn nghiêng đầu như thể đang cân nhắc câu hỏi, cho dù chỉ vừa mới nghe, hắn đã đưa ra quyết định. “Tôi sẽ phản đối ý tưởng đó, thưa Lãnh tụ.”
“Tại sao?” Đôi mắt Hitler sáng lên, một dấu hiệu cho thấy có thể sau đó là cơn thịnh nộ tam bành, có thể kèm theo là một điều khá tồi tệ: một màn diễn độc thoại bất tận, cường điệu về lịch sử quân sự hay hoạt động chính trị. “Phải chăng chúng ta không được phép tự vệ? Phải chăng chúng ta xấu hổ khi cho thế giới biết chúng ta từ bỏ vai trò hạng ba mà Liên minh cố ép chúng ta nhận lấy?”
Cẩn thận nào, Ernst nghĩ. Cẩn thận như một bác sĩ phẫu thuật đang lấy khối u ra. “Tôi không nghĩ đến hiệp ước năm 1918 của những kẻ đâm sau lưng,” Ersnt đáp, lấp đầy giọng nói của mình với sự khinh thường bản Hiệp ước Versailles. “Tôi đang nghĩ đến việc thật thông minh làm sao khi có thể cho người khác biết về loại máy bay này. Nó được kết cấu đủ khiến những ai quen thuộc với hàng không sẽ thấy là độc đáo. Họ có thể suy luận ra rằng loại này đang được sản xuất hàng loạt. Lindberg có thể dễ dàng nhận ra điều này. Bản thân ông ta đã từng thiết kế ra Linh Hồn Của St. Louise. Tôi tin là thế.”
Lảng tránh nhìn thẳng vào mắt Ernst, Göring lên tiếng đúng như dự đoán, “Chúng ta phải bắt đầu cho các kẻ thù biết sức mạnh của chúng ta.”
“Có lẽ,” Ernst chậm rãi nói, “khả năng sẽ là trưng bày một trong số các nguyên mẫu của 1-0-9 tại Thế vận hội. Sẽ được sản xuất bằng tay nhiều hơn so với các mẫu sản phẩm của chúng ta và không được gắn vũ khí. Chúng được trang bị các động cơ Rolls-Royce của Anh. Sau đó, cả thế giới sẽ được chiêm ngưỡng thành tựu công nghệ không được trang bị vũ khí của chúng ta trong khi thực tế là chúng vẫn đang sử dụng các động cơ của cựu thù. Điều này cho thấy bất kỳ hiệu quả tấn công nào đều vượt quá tầm suy nghĩ của chúng ta.”
Hitler đáp, “Có điều gì đó trong ý kiến của cậu, Reinhard… Rồi, chúng ta sẽ không triển lãm hàng không nữa. Chúng ta sẽ trưng bày nguyên mẫu. Tốt. Quyết định xong. Cảm ơn vì đã đến, Đại tá.”
“Lãnh tụ muôn năm.” Tràn ngập cảm giác nhẹ nhõm, Ernst đứng dậy.
Hắn vừa ra đến cửa thì Göring lơ đãng nói, “À, Reinhard này, tôi chợt nghĩ đến một chuyện. Tôi tin rằng một hồ sơ của cậu đã bị gửi nhầm sang văn phòng tôi.”
Ernst quay lại dò xét khuôn mặt tròn trĩnh, đang mỉm cười kia. Tuy nhiên, đôi mắt ấy lại đang sôi sục vì kích động trước chiến thắng của Ernst trong cuộc tranh luận tay đôi. Lão ta muốn trả đũa. Göring liếc mắt. “Tôi tin rằng nó có liên quan đến… cái gì nhỉ? Nghiên cứu Waltham. Đúng rồi.”
Lạy Chúa trên Thiên Đàng…
Hitler đang không chú ý đến. Y trải ra trên bàn một bản vẽ kiến trúc và nghiên cứu nó chăm chú.
“Gửi nhầm?” Ernst hỏi. Bị một trong những gián điệp của Göring ăn cắp mới là nghĩa đúng của từ này. “Cảm ơn nhiều, ngài Bộ trưởng,” hắn nhẹ nhàng nói. “Tôi sẽ nhờ ai đó lấy hộ ngay lập tức. Chúc ngài một ngày tốt…”
Dĩ nhiên, trò đánh lạc hướng không hiệu quả. Göring nói tiếp. “Cậu gặp may khi hồ sơ đó được gửi sang chỗ tôi. Tưởng tượng xem ai đó có thể nghĩ đến việc xem văn bản của người Do Thái, có chữ ký của cậu trên đó.”
Hitler ngước mắt lên. “Cái gì thế?”
Mồ hôi vã ra đến kỳ lạ, như thường lệ Göring lấy tay lau mặt rồi đáp, “Nghiên cứu Waltham mà Đại tá Ernst tiến hành.” Hitler lắc đầu, tên Bộ trưởng vẫn kiên trì. “À, tôi cho rằng Lãnh tụ của chúng ta đã biết đến nó.”
“Nói cho ta nghe,” Hitler yêu cầu.
Göring đáp, “Tôi chẳng biết gì về nó. Tôi chỉ nhận được -do gửi nhầm, như tôi đã nói - vài báo cáo do các tay bác sĩ tâm lý Do Thái viết. Một báo cáo của tay người Áo, Freud. Một báo cáo của WeiSS. Những người khác tôi không nhớ nổi.” Hắn vừa nói vừa cắn môi. “Mấy tên tâm lý học đó.”
Trong hệ thống phân cấp những kẻ Hitler căm ghét, người Do Thái xếp đầu bảng, những người Cộng sản xếp thứ hai và những người có trí tuệ xếp thứ ba. Các nhà tâm lý học đặc biệt bị gièm pha, chê bai vì họ chối bỏ thuyết chủng tộc - niềm tín rằng chủng tộc quyết định hành vi, một nền tảng quan trọng của tư tưởng Chủ nghĩa Quốc Xã.
“Có đúng không, Reinhard?”
Ernst hững hờ đáp, “Một phần công việc của tôi đó là đọc nhiều tài liệu về xâm lược và xung đột. Đó là nội dung trong những văn bản này.”
“Cậu chưa hề nói điều này với tôi.” Và với bản năng đặc trưng đánh hơi được dấu hiệu nhỏ nhất của âm mưu, Hitler hỏi nhanh, “Bộ trưởng Quốc phòng Von Blomberg? Anh ta có biết đến nghiên cứu này của cậu không?’
“Không. Đến lúc này chưa có gì để báo cáo hết. Như cái tên cho thấy, nó chi đơn thuần là một nghiên cứu do Trường Đại học Quân sự Waltham thực hiện. Để thu thập thông tin. Chỉ thế thôi. Chẳng có gì quan trọng đâu.” Xấu hổ khi chơi trò này, hắn nói thêm, mượn chút ánh nịnh hót, bợ đỡ của Goebbels vào trong mắt. “Nhưng có khả năng các kết quả sẽ cho chúng ta thấy cách tạo ra một đội quân mạnh hơn, hiệu quả hơn nhằm đạt được những mục tiêu vinh quang ngài đã đặt ra cho Tổ quốc của chúng ta.”
Ernst không đoán được liệu kiểu liếm gót này có tạo ra hiệu quả nào không. Hitler đứng dậy, rảo bước đến mô hình tinh tế các sân vận động của Thế vận hội, nhìn chằm chằm một lúc lâu. Ernst có thể cảm thấy nhịp tim đang đập thình thịch ngay trên răng mình.
Lãnh tụ quay lại và quát lên, “Ta muốn được gặp kiến trúc sư của ta. Ngay lập tức.”
“Vâng, thưa ngài,” trợ lý của y nói, nhanh chóng quay ra phòng ngoài.
Một lúc sau, có một người bước vào phòng, cho dù đó không phải Albert Speer, mà là Heinrich Himmler với bộ đồng phục đen, cằm mỏng, dáng người nhỏ nhắn và cặp mắt kính gọng đen khiến bạn quên rằng hắn là kẻ cầm đầu tuyệt đối của SS, Gestapo và mọi lực lượng cảnh sát khác trong nước.
Himmler đứng nghiêm chào đúng kiểu, hướng ánh mắt xanh xám đầy ngưỡng mộ của hắn về phía Hitler, y đáp lại bằng lối chào theo chuẩn riêng, một cái vỗ rất nhẹ lên vai.
Trùm SS liếc nhìn quanh phòng, kết luận rằng mình có thể chia sẻ bất kỳ tin tức nào đã mang hắn đến đây.
Hitler lơ đãng phác cử chi về phía bàn cà phê và sô-cô-la. Himmler lắc đầu. Ernst quan sát, thông thường trong sự kiểm soát tuyệt đối - gạt sang bên những ánh mắt xu nịnh dành cho Lãnh tụ - tay trùm mật vụ này hôm nay còn có vẻ cáu kỉnh với ông ta. “Tôi có một vấn đề an ninh quan trọng phải báo cáo. Một tư lệnh SS vừa nhận được một lá thư sáng nay đề ngày gửi là hôm nay. Nó được gửi đến tay anh ta theo chức danh, nhưng không nêu tên. Bức thư cho rằng một tên người Nga nào đó sắp gây “thiệt hại” tại Berlin trong vài ngày tới. Ở “các cấp cao,” lá thư viết vậy.”
“Do ai viết?”
“Hắn ta tự mô tả mình như một kẻ trung thành với Chủ nghĩa Quốc Xã. Nhưng hắn không nêu tên. Lá thư được tìm thấy trên phố. Chúng tôi không biết thêm gì hơn về nguồn gốc của nó.” Khoe ra hàm răng trắng hoàn hảo, đều tăm tắp, hắn nhăn mặt như một đứa trẻ thất vọng với cha mẹ của nó. Hắn bỏ kính xuống, lau mắt kính rồi đeo lên. “Dù là do kẻ nào gửi đến, hắn bảo rằng hắn sẽ tiếp tục điều tra và sẽ báo cáo tung tích tên đó khi hắn biết. Nhưng chúng tôi không nhận được tin tức nào nữa. Phát hiện lá thư trên phố tức là thông tin người gửi đã bị chặn đứng và có lẽ đã bị giết. Chúng ta có thể không biết thêm được gì nữa.”
Hitler hỏi, “Ngôn ngữ là gì? Tiếng Đức à?”
“Vâng, thưa Lãnh tụ.”
“Thiệt hại. Kiểu thiệt hại gì nhi?”
“Chúng tôi không biết.”
“Ôi, lũ Bôn-sê-vich lại định phá rối Thế vận hội của chúng ta đây mà,” gương mặt Hitler tỏ dấu hiệu giận dữ.
Göring hỏi, “Cậu nghĩ tin này là xác thực chứ?”
Himmler đáp, “Có thể là chẳng có gì. Nhưng hàng chục nghìn người nước ngoài đang băng qua Hamburg những ngày này. Có khả năng ai đó biết được âm mưu và không muốn bị liên lụy, nên anh ta viết một lá thư nặc danh. Tôi sẽ thúc giục bất kỳ ai ở đây nên chú ý đặc biệt. Tôi sẽ liên hệ với các tư lệnh quân sự nữa, kể cả những bộ trưởng khác. Tôi đã ra lệnh toàn bộ các lực lượng an ninh phải tìm hiểu vấn đề.”
Giọng chim trong giận dữ, Hitler nổi xung, “Hãy làm những gì cậu phải làm! Mọi thứ! Không được phép làm hỏng Thế vận hội của chúng ta.” Và như thấy nản lòng, chưa đầy một giây sau đó, giọng của y bình tĩnh trở lại, đôi mắt xanh của y sáng lên.
Y vươn người về phía trước, rót sô-cô-la vào đầy tách của mình rồi đặt hai lát bánh mỳ nướng lên đĩa. “Bây giờ, mọi người vui lòng ra về. Cảm ơn mọi người. Ta cần cân nhắc vài vấn đề xây dựng.”
Y gọi một trợ lý đứng ở ngưỡng cửa. “Speer đâu rồi?”
“Anh ta sẽ đến ngay, thưa Lãnh tụ.”
Mọi người bước ra đến cửa. Trái tim Ernst đã trở lại nhịp đập bình thường, chậm rãi. Chuyện vừa xảy ra là điển hình cho phong cách làm việc trong nội bộ hàng ngũ chính quyền Chủ nghĩa Quốc Xã. Âm mưu ngầm có thể gây ra những hậu quả khủng khiếp, chỉ đơn giản là biến mất như vụn bánh mỳ bị quét sạch trên ngưỡng cửa. Còn về âm mưu của Göring, lão…
“Đại tá?” Hitler gọi.
Ernst dừng khựng, quay người lại.
Lãnh tụ đang nhìn chằm chằm mô hình, xem xét nhà ga được xây mới. Y nói, “Cậu sẽ chuẩn bị một báo cáo về Nghiên cứu Waltham của mình. Chi tiết vào. Sau đó, gửi cho ta vào ngày Thứ Hai.”
“Dĩ nhiên, thưa Lãnh tụ.”
Ở ngưỡng cửa Göring chìa cánh tay ra, lòng bàn tay hướng lên trên, cho Ernst ra trước. “Tôi cho rằng cậu sẽ nhận lại được những tài liệu bị gửi nhầm đó, Ernst. Và tôi hy vọng cậu cùng Gertrud sẽ tham dự bữa tiệc Thế vận hội.”
“Cảm ơn ngài, Bộ trưởng. Tôi sẽ thu xếp có mặt ở đó.”
Tối thứ Sáu, trời mù sương và ấm áp, thơm hương cỏ mới cắt, mùi đất bị xới tung lên và mùi thơm sơn mới.
Paul Schumann một mình tản bộ qua Làng Thế vận hội, cách phía Tây Berlin nửa giờ xe.
Gã đã tới đây không lâu trước đó, sau chuyến hành trình phức tạp từ Hamburg. Đó đúng là một ngày mệt rã rời. Nhưng cũng tiếp thêm cho gã sức mạnh và gã bừng lên niềm phân khích được đến một xứ sở xa lạ - ngôi nhà của tổ tiên gã - và sự hồi hộp trước nhiệm vụ mới. Gã trình thẻ nhà báo và được phép vào làng ở khu dành cho người Mỹ - hàng tá tòa nhà với sức chứa năm mươi đến sáu mươi người mỗi tòa. Gã để lại va li và ba lô của mình ở một trong số các phòng khách nhỏ ở phía sau, nơi gã sẽ ở lại vài đêm, lúc này gã đang dạo qua những khu đất trống. Khi nhìn quanh làng, gã thấy vui vui. Paul Schumann đã từng đến những khu thể thao gồ ghề hơn nhiều - chẳng hạn như phòng tập gym của gã, đã năm năm không được sơn lại, lúc nào cũng bốc lên mùi mồ hôi, da mốc và bia, bất chấp Sorry Williams không ngừng ra công quét dọn. Tuy nhiên, ngôi làng này như đúng cái tên của nó: một thành phố với tất cả nét độc đáo riêng. Nằm trong một khu rừng cây phong, trải dài tuyệt đẹp với những vòng cung rộng, các tòa nhà thấp, trắng xóa với một cái hồ, những lối đi cong, những đường chạy và đi bộ, những sân tập luyện và ngay cả khu thi đấu thể thao riêng.
Theo cuốn sách hướng dẫn Adrew Avery để trong ba lô, ngôi làng có một văn phòng hải quan, cửa hàng tạp hóa, phòng báo chí, một bưu điện và ngân hàng, nhà ga, cửa hàng đồ dùng thể thao, gian hàng đồ lưu niệm, cửa hàng ăn uống và văn phòng du lịch.
Các vận động viên hiện đang có mặt dự lễ chào mừng mà Jesse Owens, Ralph Metcalfe và tay đấm bốc trẻ gã vừa hạ nốc ao nằng nặc kéo gã đi cùng. Nhưng bây giờ gã đang ở địa điểm sẽ tiến hành hóa kiếp kẻ khác, nên gã phải náu mình. Gã thoái thác, viện cớ phải hoàn thành vài việc cho các buổi phỏng vấn sáng hôm sau. Gã dùng bữa tại nhà ăn - thưởng thức một trong những miếng bít tết ngon nhất đời gã - và sau một chầu cà phê và Chesterfield, giờ gã đang đi bộ vòng quanh làng.
Điều duy nhất khiến gã thấy khó chịu, xét đến lý do gã có mặt ở đất nước này, đó là ở khu phức hợp phòng ngủ tập thể của mỗi nước đều được chỉ định một tên lính Đức, một “sĩ quan liên lạc”. Trong khu của Mỹ có một tên sắc mặt nghiêm nghị, trẻ măng, tóc nâu mặc đồng phục màu xám, có vẻ cực kỳ khó chịu bởi cái nóng. Paul cố gắng càng tránh xa hắn càng tốt. Người liên lạc ở đây, Reginald Morgan, đã cảnh báo Avery rằng Paul phải tuyệt đối đề phòng bất kỳ kẻ nào mặc đồng phục. Gã chỉ dùng cửa sau để vào phòng ngủ tập thể và chắc chắn rằng tên lính gác không bao giờ được nhìn rõ gã.
Khi gã tản bộ dọc theo vỉa hè được quét dọn cẩn thận gã trông thấy một trong số các vận động viên điền kinh người Mỹ cùng một phụ nữ trẻ và đứa bé, vài thành viên đội tuyển được mang theo vợ con và họ hàng. Điều này nhắc Paul nhớ đến cuộc nói chuyện với em trai gã tuần rồi, ngay trưóc khi tàu Manhattan ra khơi.
Paul tự mình xa lánh em trai và em gái cùng gia đình họ đã mười năm rồi, gã không muốn mang lại cho cuộc sống của họ những tai họa vì bạo lực, và vết nhơ từ cuộc đời gã. Em gái gã sống tại Chicago - nơi gã hiếm khi đến thám, nhưng gã có gặp Hank một đôi lần. Nó sống tại Long Island, điêu hành một xưởng in thừa kế từ ông nội. Nó là một người chồng và người cha tốt, nó không hề biết chắc thằng anh nó làm gì để kiếm sống, ngoại trừ việc anh nó dính dáng đến mấy tên tội phạm và những kẻ xấu.
Cho dù Paul không chia sẻ chút thông tin riêng tư nào với Bull Gordon hay với những người khác trong Phòng Thẩm vấn, lý do chính gã quyết định đồng ý đến Đức làm nhiệm vụ này là muốn xóa bỏ đi lý lịch của mình. Việc xông pha nàv có thể là cơ hội cho gã kết nối lại với gia đình, giấc mơ của gã bao nhiêu năm qua.
Gã nhấp một ngụm whisky, rồi một ngụm nữa và cuối cùng nhấc điện thoại lên gọi cho em trai gã ở nhà. Sau mười phút nói chuyện phiếm căng thẳng về đợt nóng, đội bóng rổ Yankees và hai đứa con của Hank, Paul quyết định liều hỏi xem Hank có thể quan tâm đến việc có người làm cùng ờ Schumann Printing không. Gã nhanh chóng trấn an, “Tao không còn liên hệ gì đến đám cũ nữa đâu.” Rồi gã nói thêm rằng mình có thể đóng góp 10.000 USD làm vốn kinh doanh. “Tiền sạch đấy. Một trăm phần trăm.”
“Nhiều vậy,” Hank nói. Cả hai cùng phá lên cười trước câu nói này, một trong những kiểu nói ưa thích của cha họ.
“Có một rắc rối,” Hank nghiêm túc nói.
Paul hiểu rằng nó sắp nói từ chối, khi nghĩ đến sự nghiệp đen tối của anh trai.
Nhưng Hank nói thêm, “Chúng ta sẽ phải sắm một biển hiệu mới. Không còn đủ chỗ cho cụm từ “Xưởng In Anh em nhà Schumann” trên tấm biển em mua đâu.”
Băng giá đã tan, hai anh em bàn thêm chút về kế hoạch. Paul ngạc nhiên thấy giọng Hank nghe như cực kỳ xúc động trước lời đề nghị này. Gia đình chính là điều quan trọng đối với Hank, và nó không thể hiểu tại sao Paul lại xa cách đến thế suốt mười năm qua.
Paul quả quyết cho rằng Marion cao ráo, xinh đẹp cũng sẽ thích cuộc sống đó. À, cô ấy thích tỏ vẻ mình là đứa con gái tồi tệ, nhưng đó chỉ là vai diễn thôi, Paul thừa biết nên chỉ cho cô hưởng ít gia vị của cuộc sống đê tiện ấy. Gã giới thiệu cô với Damon Runyon, cho cô uống bia bằng chai tại phòng tập gym, dẫn cô đến quán bar tại Hell’s Kitchen nơi Owney Madden sử dụng để quyến rũ các quý bà, bằng giọng chuẩn Anh của hắn và khoe khoang những khẩu súng ngắn báng bằng ngọc trai. Nhưng gã biết, giống như nhiều cô gái trường đại học nổi loạn khác, Marion rồi sẽ mệt mỏi với cuộc sống khó khăn, nếu cô thực sự phải sống cuộc sống đó. Làm gái nhảy rồi cũng chóng phai tàn, cô muốn làm một nghề gì khác ổn định hơn. Làm vợ một chủ xưởng in sung túc hẳn sẽ là lựa chọn.
Hank bảo rằng nó sẽ nói chuyện với luật sư, thảo một hợp đồng đối tác chờ Paul ký tên ngay sau khi quay về từ “chuyến đi công tác.”
Lúc này, khi đã quay về phòng mình ở phòng ngủ tập thể Paul nhận thấy có ba thằng nhóc mặc quần soóc, áo sơ mi nâu và cà vạt đen, trên đầu đội mũ màu nâu có phong cách quân sự. Gã đã từng thấy hàng tá thanh niên ở đây hỗ trợ cho các đội tuyển. Bộ ba đi đều bước đến cột cao, nằm trên đỉnh là lá cờ Phát xít bay phấp phới. Paul đã thấy lá cờ này trong các cuốn phim thời sự, trong các tài liệu nhưng luôn là hình ảnh đen trắng. Ngay cả bây giờ, vào lúc chạng vạng, màu đỏ thẫm của lá cờ cũng trở nên đẹp nổi bật, tuyệt vời như máu tươi.
Một thằng nhóc để ý gã đang đứng xem bèn hỏi bằng tiếng Đức, “Ngài là vận động viên à? Ngài vẫn chưa đến dự buổi chào mừng chúng tôi đang tổ chức sao?”
Paul nghĩ tốt hơn không nên khoe các kỹ năng ngôn ngữ của gã, ngay cả với đội Hướng Đạo Sinh, nên gã đáp bằng tiếng Anh, “Xin lỗi, tôi nói tiếng Đức không tốt lắm.”
Thằng nhóc chuyển sang nói ngôn ngữ của Paul, “Anh là vận động viên à?”
“Không, tôi là phóng viên.”
“Anh là người Mỹ hay người Anh?”
“Người Mỹ.”
“Ối chà,” thằng nhóc vui mừng nói bằng trọng âm nặng, “chào mừng đến Berlin, thưa Ngài.”
“Cảm ơn.”
Thằng nhóc thứ hai để ý ánh mắt của Paul và nói, “Anh thích lá cờ của Đảng chúng tôi không? Nói sao nhỉ, nó thật ấn tượng, đúng không?”
“Phải, đúng vậy,” Những Sao và Vạch kẻ trông mềm mại hơn theo một cách nào đó. Kiểu lá cờ này, như đập vào mắt bạn.
Thằng nhóc đầu tiên nói, “Từng phần đều có ý nghĩa, một ý nghĩa quan trọng. Anh có biết chúng là gì không?”
“Không. Nói cho tôi biết đi.” Paul ngước nhìn lên lá cờ.
Thấy hân hạnh được giải thích, hắn ta nói rất nhiệt tình, “Màu đỏ, tức là chủ nghĩa xã hội. Màu trắng, không nghi ngờ gì nữa là chủ nghĩa dân tộc. Và màu đen… dấu thập ngoặc. Anh có thể gọi nó là swatiska …” Hắn nhướn mày nhìn Paul và không nói năng gì thêm.
“Vâng,” Paul nói. “Tiếp tục đi. Nó nghĩa là gì?”
Thằng nhóc liếc hai người bạn của mình, rồi lại quay sang Paul với nụ cười tò mò và nói, “Ôi chà, ành biết rồi còn hỏi.”
Với hai người bạn, hắn nói bằng tiếng Đức, “Bây giờ, tôi sẽ hạ cờ xuống.” Hắn mim cười lặp lại với Paul, “Anh biết rồi còn hỏi.” Nhíu mày tập trung, hắn hạ cờ khi hai tên kia vươn cao cánh tay, một trong những thế chào khô cứng bạn thấy ở khắp nơi.
Khi Paul quay về phòng ngủ tập thể, những thằng nhóc cùng hát một bài với giọng sôi nổi, không đều. Gã nghe thấy những đoạn ngắn lúc lên cao, lúc xuống thấp trong bầu không khí nóng bỏng khi tản bộ đi xa. “Hãy giương cao lá cờ, hãy siết chặt hàng ngũ. Đội quân SA hành quân tiên lên với những bước chân vững chắc… Tránh ra, tránh đường ra cho những tiểu đoàn nâu, khi những đội quân Bão tố càn quét đất này… Tiêng kèn trumpet thúc giục trận tấn công cuối cùng. Chúng ta sẵn sàng đứng lên chiến đấu. Rồi chẳng bao lâu những con phố sẽ thấy lá cờ của Hitler tung bay, kiếp sống nô lệ của chúng ta rồi sẽ kết thúc…”
Paul quay lại, thấy chúng tôn kính gập lá cờ, rồi đều bước bỏ đi. Gã lẻn qua lối vào phía sau phòng ngủ tập thể rồi quay lại phòng mình. Gã tắm rửa, đánh răng, cởi bỏ áo quần, leo lên giường. Gã nhìn chăm chăm lên trần nhà một lúc lâu, đợi chờ giấc ngủ đến khi gã nghĩ về Heinsler - tên đã tự sát sáng hôm đó trên tàu, một sự hy sinh bạo liệt và ngu xuẩn.
Gã cũng nghĩ đến cả Reinhard Ernst.
Và cuối cùng, khi bắt đầu ngủ lơ mơ, gã nghĩ đến thằng nhóc mặc đồng phục nâu. Nhìn thấy nụ cười bí ẩn đó. Nghe đi nghe lại giọng nói của hắn: Anh biết rồi còn hỏi… anh biết rồi còn hỏi