CHƯƠNG 14
Ngồi tại một bàn lung lay trong Quán cà phê Edelweiss, Willi Kohl ăn hết món bánh táo và uống xong cốc cà phê. Khỏe hơn nhiều rồi, ông nghĩ. Hai bàn tay ông thực sự đã run lên vì đói. Thiếu ăn lâu đến thế thì không tài nào khỏe được.
Không ai trong quán bao gồm cả tay quản lý và những người khác nhìn thấy người khớp với mô tả về nghi phạm. Nhưng Kohl hy vọng ai đó trong cái vùng bất hạnh này thấy nạn nhân vụ bắn súng tại ngõ Dresden. “Janssen này, cậu có mang theo ảnh nạn nhân nghèo khổ của chúng ta không?”
“Để trong xe DKW, thưa sếp.”
“Đi lấy về đây.”
“Rõ, thưa sếp.”
Cậu ta uống hết cốc Coca rồi bước ra xe.
Kohl theo cậu ta ra cửa, lơ đãng sờ vào khẩu súng ngắn trong túi. Ông đưa bàn tay lên lau lông mày rồi ngước mắt nhìn con phố bên phải, lắng nghe âm thanh một tiếng còi nữa. Nghe thấy tiếng cửa xe DKW đóng sầm, ông quay người lại, liếc nhìn về phía Janssen. Khi làm thế, tay thanh tra để ý một cử động nhanh ngay trước tay trợ lý, bên tay trái của Kohl.
Đó là một người đàn ông mặc áo vest tối màu, mang theo một hộp đựng nhạc cụ bằng sợi thủy tinh hoặc là va li. Anh ta quay lại rồi nhanh chóng rẽ vào sân sau của một chung cư lớn, đổ nát nằm kế bên Quán cà phê Edelweiss. Có điều gì đó không tự nhiên ở cách người đàn ông đó đột ngột chuyển hướng tránh vỉa hè. Ông cũng ngạc nhiên không kém khi người đàn ông ăn mặc thế kia lại đi vào một nơi tồi tàn đến thế.
“Janssen,” Kohl gọi, “cậu có thấy không?”
“Cái gì cơ?”
“Người đàn ông đi vào sân sau đó.”
Tay sĩ quan trẻ nhún vai. “Không rõ lắm. Tôi chỉ liếc qua thôi. Thấy vài người trên vỉa hè.”
“Vài người?”
“Hai người, tôi tin là thế.”
Bản năng của Kohl thức dậy. “Chúng ta phải xem xét chuyện này!”
Khu chung cư gắn liền với kết cấu về bên phải. Nhìn xuống con ngõ, viên thanh tra có thể thấy tòa nhà không có cửa bên. “Sẽ có một lối vào dành cho nhân viên phục vụ ở phía sau, tương tự như Khu Vườn Mùa Hạ. Cậu lại ra bọc lót lối sau đi. Tôi sẽ tiến vào cửa trước. Giả sử rằng cả hai đều có vũ khí và trong tình trạng tuyệt vọng. Súng ngắn phải luôn cầm trong tay. Giờ thì chạy đi! Cậu có thể đánh gục chúng nếu cậu đủ nhanh.”
Tay thanh tra học việc lao vào trong ngõ. Kohl cũng rút súng ra. Ông chậm rãi đến gần sân trong.
Mắc kẹt.
Giống hệt như trong căn hộ của Malone.
Paul và Reggie Morgan đứng dậy, thở hổn hển do cuộc chạy nước rút trong khoảnh sân sau mờ tối đầy rác. Một tá bụi cây bách xù đang chuyển màu nâu. Hai đứa trẻ vị thành niên mặc quần áo lấm lem bùn đất ném đá vào lũ chim bồ câu.
“Vẫn là những cảnh sát đấy à?” Morgan thở hồng hộc. “Từ Khu Vườn Mùa Hạ? Không thể nào.”
“Là chúng đấy.” Paul không chắc chắn họ có bị phát hiện không. Tuy nhiên, tay sĩ quan trẻ, mặc bộ vest xanh dưomg đã liếc nhìn, đúng lúc Paul kéo Morgan vào sân sau. Họ cho rằng mình đã bị lộ.
“Làm sao chúng tìm được ta?”
Paul không chú ý đến câu hỏi, đưa mắt nhìn xung quanh. Gã chạy đến cửa ra vào bằng gỗ giữa góc chữ u của tòa nhà. Cửa đã bị đóng và khóa lại. Các cửa sổ tầng một cách mặt đất tầm gần hai mét rưỡi rất khó trèo. Hầu hết các cửa sổ đều đóng, tuy nhiên, Paul thấy một ô cửa sổ đang mở, căn hộ có ô cửa sổ đấy hình như bỏ hoang.
Morgan nhìn theo ánh mắt Paul rồi nói, “Phải, chúng ta có thể trốn ở đó. Kéo rèm xuống. Nhưng làm sao ta trèo lên được?”
“Cho hỏi,” Paul gọi một trong hai thằng nhóc đang ném đá, “cháu có sống ở đây không?”
“Không, thưa ngài, bọn cháu chỉ đến đây chơi thôi.”
“Cháu có muốn kiếm được một mác không?”
“Quá tuyệt, thưa ngài,” một đứa đáp. Đôi mắt nó mở to, chạy lon ton đến chỗ hai người. “Có, bọn cháu muốn.”
“Tốt. Nhưng hai đứa phải hành động thật nhanh.”
Willi Kohl dừng lại bên ngoài lối vào sân trong.
Ông đợi một lúc đến khi chắc chắn Janssen vào vị trí ở phía sau, rồi ngoặt vào góc. Không có dấu hiệu nào của nghi phạm từ ngõ Dresden, hay người đàn ông mang va li. Chỉ có hai đứa trẻ tầm 10 đến 13 tuổi đứng quanh một chồng các thùng thưa đựng sữa bằng gỗ bên kia sân trong. Chúng khó chịu ngước nhìn lên các sĩ quan rồi bắt đầu tản ra sân.
“Hai nhóc kia!” Kohl gọi.
Chúng dừng chân, nhìn nhau khó chịu. “Vâng?”
“Hai đứa có vừa thấy hai người đàn ông không?”
Đứa nọ nhăn nhó liếc nhìn đứa kia. “Không ạ.”
“Đến đây.”
Hai đứa ngập ngừng một chốc, rồi cùng lúc co giò chạy biến khỏi sân trong, khuấy tung lên lớp bụi mù dưới chân. Kohl thậm chí còn không cố đuổi theo. Nắm chặt khẩu súng ngắn, ông nhìn quanh sân trong. Toàn bộ các căn hộ trên tầng trệt đều có cửa sổ đóng rèm, hoặc các cây leo xanh lét nằm tựa trên các chấn song, cho thấy các căn hộ này có người ở. Cho dù có một căn không có rèm cửa và tối om.
Kohl chậm rãi đến gần, để ý thấy trên sàn nhà đầy bụi dưới ô cửa sổ có những vết lõm - ông hiểu ra là do những thùng đựng sữa. Nghi phạm cùng kẻ đi theo hắn đã trả tiền cho lũ nhóc mang các thùng thưa này đến cửa sổ, sau đó đặt lại chỗ cũ sau khi chúng đã trèo vào trong căn hộ.
Nắm khẩu súng lục chặt hơn, thanh tra nhấn mạnh chuông cửa tòa nhà.
Một lúc sau, một người đàn ông dáng người mảnh khảnh, tóc màu xám nhanh chóng bước ra. Ông mở cửa, liếc nhìn khẩu súng lục trong tay Kohl bằng cái chớp mắt căng thẳng.
Kohl bước vào trong, nhìn qua người đàn ông vào hành lang tối. Có chuyển động ở đầu kia sảnh. Kohl cầu nguyện rằng Janssen vẫn cảnh giác. Tay thanh tra ít nhất đã từng được thử thách trên chiến trường. Ông đã từng bị bắn và ông tin rằng mình đã từng bắn một hoặc hai kẻ thù. Nhưng còn Janssen? Cho dù cậu ta là một tay thiện xạ tài năng, nhưng thằng nhóc này chl bắn vào các hồng tâm. Cậu ta sẽ làm gì nếu buộc phải đấu súng?
Ông thì thầm với người gác cửa, “Căn hộ ở tầng này, căn thứ hai về bên phải,” Ông đưa tay chỉ. “Nó bỏ hoang đúng không?”
“Vâng, thưa ngài.”
Kohl bước lùi lại, để ý nhìn sân sau phòng trường hợp nghi phạm cố nhảy ra khỏi cửa sổ và chạy trốn. Ông dặn người gác cửa, “Có một sĩ quan khác ở cửa sau. Ông đi gọi cậu ta ngay cho tôi.”
“Vâng, thưa ngài.”
Nhưng đúng lúc ông ta quay đi, một bà già dáng người chắc nịch mặc áo tím và trên cổ quàng khăn màu xanh, lạch bạch bước về phía họ. “Ông Greitel, ông Greitel! Nhanh lên, ông phải gọi cho cảnh sát!”
Kohl quay sang phía bà ta.
Ông gác cửa nói, “Cảnh sát đang ở đây, bà Haeger.”
“Ôi, sao có thể thế được?” Bà ta chớp mắt.
Thanh tra hỏi bà ta, “Bà cần cảnh sát làm gì?”
“Có trộm!”
Bản năng mách bảo Kohl chuyện này có liên quan đến cuộc truy đuổi. “Nói cho tôi biết có chuyện gì, thưa bà. Ngay bây giờ.”
“Căn hộ của tôi nằm phía trước tòa nhà. Từ ô cửa sổ nhà mình, tôi thấy hai người đàn ông đang trốn phía sau một chồng thùng thưa đựng sữa. Đống thùng mà tôi phải nói rằng ông đã hứa dọn đi từ mấy tuần trước rồi đấy, ông Greitel.”
“Làm ơn nói tiếp đi. Vấn đề này có thể cực kỳ khẩn cấp.”
“Hai tên đó đang lẩn trốn. Rõ ràng là thế. Rồi mới ngay lúc nãy thôi, tôi thấy chúng đứng dậy, lấy hai chiếc xe đạp từ trên giá cạnh cổng vào phía trước. Tôi không biết một trong hai chiếc là của ai, nhưng chiếc kia rõ ràng là của cô Bauer. Cô ấy không có bạn trai nào suốt hai năm rồi, nên tôi biết hẳn cô ta sẽ không cho hắn mượn chiếc xe đó.”
“Không!” Kohl lẩm bẩm rồi lao ngay ra ngoài. Giờ thì ông nhận ra nghi phạm đã trả tiền cho bọn nhóc đơn giản chỉ thả hai cái thùng thưa xuống cửa sổ sao cho để lại dấu vết bụi. Nhưng sau đó, nghi phạm để lại hai cái thùng vào đống thùng như cũ rồi trốn phía sau. Bọn trẻ có khả năng đã được bảo phải tỏ ra lén lút, hoặc khó chịu khiến Kohl tin rằng đây là cách nghi phạm đã lẻn vào trong tòa nhà.
Ông lao ra khỏi sân trong nhìn ngược xuôi khắp phố, thấy ngay bằng chứng sống của một thống kê mà ông, một sĩ quan cảnh sát lành nghề, hiểu rất rõ: Phương thức di chuyển phổ biến nhất tại Berlin là xe đạp. Hàng trăm người đi xe đạp kín mít con phố đã che chở cho nghi phạm trốn thoát một cách hiệu quả, như một đám mây khói dày đặc.
Vứt lại hai chiếc xe đạp, hai người đi bộ xuống con phố nhộn nhịp cách Quảng trường Tháng 11 Năm 1923 nửa dặm.
Paul và Morgan tìm một quán cà phê hoặc một tiệm rượu có điện thoại.
“Làm sao cậu biết chúng đang ớ Quán Cà phê Edelweiss?” Morgan hỏi, thở nặng nhọc vì đạp xe hết tốc lực.
“Chiếc xe đỗ trên lề đường.”
“Cái xe màu đen à?”
“Đúng vậy. Ban đầu tôi chẳng nghĩ gì hết. Nhưng tâm trí tôi vụt nghĩ đến một chuyện. Tôi nhớ hai năm trước, khi tôi đang trên đường làm nhiệm vụ. Hóa ra tôi không phải người duy nhất đến thăm Bo Gillete. Vài cảnh sát từ Brooklyn đã đến đó trước. Nhưng họ lười nhác lắm. Họ đỗ xe ở ngoài, trên lề đường cách ngôi nhà một quãng như thể đó là chiếc xe đánh lạc hướng. Ai mà nhận ra được chứ? Nhưng Bo nhận ra. Hắn xuất hiện, hiểu rằng họ đang đi tìm hắn nên biến mất. Tôi phải mất đến một tháng mới tìm lại được hắn. Nhớ đến chuyện đó nên tôi nghĩ, đó là xe cảnh sát. Vậy nên khi tay thanh niên đó bước ra ngoài, tôi nhận ra ngay đó cũng là người tôi đã thấy trên hàng hiên quán Khu Vườn Mùa Hạ.”
“Chúng đã theo dõi chúng ta suốt từ ngõ Dresden, Khu Vườn Mùa Hạ rồi tới tận đây… Bằng cách nào vậy chứ?”
Paul nghĩ lại. Gã không nói cho Käthe Richter biết việc mình đến đây. Gã đã kiểm tra đến 12 lần để chắc chắn không có ai bám theo gã từ nhà trọ đến điểm đỗ taxi. Gã không hề nói với ai khi ở làng Thế vận hội. Tay chủ tiệm cầm đồ ở đây có thể đã phản bội họ, nhưng ông ta hẳn sẽ không biết về Khu Vườn Mùa Hạ. Không, hai tên cớm mẫn cán này hẳn đã tự lần theo họ.
“Những chiếc taxi,” cuối cùng Paul nói.
“Cái gì?”
“Đó là đầu mối duy nhất. Đến Khu Vườn Mùa Hạ rồi đến đây. Từ giờ trở đi, nếu chúng ta không thể đi bộ, chúng ta phải bảo tài xế thả chúng ta xuống cách nơi chúng ta sẽ đến hai, ba khối nhà.”
Họ tiếp tục đi xa khỏi Quảng trường Tháng 11 năm 1923. Thêm một vài khối nhà nữa, họ tìm thấy một quán bia có điện thoại công cộng. Morgan đi vào trong gọi cho liên lạc của ông ta, trong khi Paul gọi bia, không ngừng vừa cảnh giác vừa bực bội nhìn ra ngoài. Hẳn là gã sẽ không ngạc nhiên nếu thấy hai tên cảnh sát lao nhanh trên phố, vẫn lần theo dấu vết của họ.
Chúng là lũ quái nào thế?
Khi Morgan quay lại bàn, ông lo lắng. “Chúng ta có một rắc rối.” Ông nhấp một ngụm bia, đưa tay lên lau ria mép. Rồi ngả người về phía trước. “Chúng không hé ra bất kỳ thông tin nào nữa. Có lệnh từ Himmler hoặc Heydrich - người của tôi không chắc được là ai - rằng không một thông tín nào về những cuộc xuất hiện công khai của Đảng hoặc các quan chức Chính phủ được phép tiết lộ cho đến khi có thông báo thêm. Không có họp báo. Chẳng có gì cả. Tuyên bố vừa được đưa ra vài giờ trước.”
Paul uống hết nửa cốc bia còn lại. “Chúng ta nên làm gì đây? Ông biết gì về lịch hoạt động của Ernst không?”
“Tôi thậm chí còn chẳng biết hắn sống ở đâu, ngoại trừ chỗ nào đó ở Charlottenburg. Chúng ta có thể rình hắn ra khỏi Phủ Thủ tướng và theo dõi hắn. Nhưng như thế sẽ rất khó khăn. Nếu cậu ở gần một quan chức Đảng cấp cao trong phạm vi khoảng 150 mét, cậu có thể bị khám xét giấy tờ và tống giam, nếu chúng không thích những gì chúng thấy.”
Paul suy nghĩ một lúc. Gã nói, “Tôi có một ý. Tôi có thể thu thập được chút thông tin.”
“Về cái gì?”
“Ernst,” Paul đáp.
“Cậu ư?” Morgan ngạc nhiên hỏi.
“Nhưng tôi sẽ cần hai trăm mác nữa.”
“Có, số tiền này tôi có.” Ông đếm các tờ tiền rồi nhét vào tay Paul.
“Và người của ông trong Bộ Thông tin đúng không? Ông có nghĩ rằng anh ta có thể tìm được thông tin những người không phải là quan chức không?”
Morgan nhún vai. “Tôi không thể nói chắc được. Nhưng tôi có thể chắc chắn với cậu một điều - nếu Chủ nghĩa Phát xít có bất cứ kỹ năng nào, thì đó là thu thập thông tin về các công dân của mình.”
Janssen cùng Kohl rời khỏi sân trong tòa nhà.
Bà Haeger không thể đưa ra mô tả nào về các nghi phạm, cho dù thật mỉa mai, đây không phải chứng mù lòa về chính trị mà là mù lòa theo đúng nghĩa đen. Những hạt cườm trong mắt bà ta cho phép con người bận rộn này quan sát được nghi phạm lẩn trốn, sau đó rời đi bằng xe đạp. Nhưng bà ta không thể nào nhìn chi tiết hơn được nữa.
Nản chí, họ quay về Quảng trường Tháng 11 năm 1923 tiếp tục tìm kiếm, đi khắp cả con phố nói chuyện với những người bán hàng rong và bồi bàn, trưng ra hình ảnh khắc axit của nạn nhân và hỏi han về nghi phạm.
Nhưng họ không thành công - cho tới khi đến một cửa hàng bánh ngọt đối diện công viên, nép mình dưới bóng bức tượng Hitler. Một người đàn ông béo tròn mặc tạp dề trắng thừa nhận với Kohl rằng, ông ta đã thấy một chiếc taxi tấp vào lề đường bên kia nửa giờ trước hoặc hơn. Ông ta nói taxi xuất hiện ở đây là điều bất thường, vì dân thường ở đây đều không đủ trả tiền cước. Và chẳng có lý do quái gì để ai đó sống ngoài vùng này đến đây, ít nhất là đến bằng taxi.
Ông ta để ý một người cao lớn có mái tóc nâu bóng xuống xe, nhìn quanh rồi bước đến chỗ bức tượng. Anh ta ngồi xuống chiếc ghế dài một lúc rồi đi.
“Hắn có mang theo cái gì không?”
“Quần áo nhẹ nào đó. Tôi nhìn không rõ lắm.”
“Ông còn nhận ra đặc trưng nào nữa không?”
“Không, thưa ngài. Tôi còn có khách hàng mà.”
“Hắn có mang theo va li hay ba lô nào không?”
“Tôi không tin là thế, thưa ngài.”
Kohl tự nhủ, vậy là những giả định của ông là chính xác: nhiều khả năng nhất là hắn đang ở lại đâu đó gần Lützow Plaza, đã đến đây nhằm mục đích nào đó.
“Hắn đã đi lối nào?”
“Tôi không thấy, thưa ngài. Xin lỗi.”
Mù lòa, dĩ nhiên rồi. Nhưng ít nhất thì đây là lời khẳng định, rằng nghi phạm của họ thực sự dạo này đã tới đây.
Đúng lúc này, một chiếc Mercedes đen ngoặt vào góc phố, rồi dừng lại.
“Chà,” Kohl lẩm bẩm, thấy Peter Krauss xuống xe và nhìn quanh. Ông biết cách người này theo dõi ông ra sao. Nội quy đã quy định rằng ông phải thông báo cho các sĩ quan bàn giấy của Cục mỗi lần rời khỏi Alex trong giờ hành chính, cho biết rõ ông sẽ đi đâu. Hôm nay, ông đã lưỡng lự có nên chia sẻ thông tim này không. Nhưng tảng lờ nội quy sẽ rất khó khăn cho Willi Kohl. Trước khi đi ông đã ghi lại, Quảng trường Tháng 11 năm 1923 và thời gian dự kiến ông sẽ quay về.
Krauss gật đầu chào. “Chỉ làm vài vòng thôi, Willi. Đang tự hỏi vụ án tiến triển tới đâu rồi.”
“Vụ nào?” Kohl hỏi, chi tỏ ra cáu kỉnh.
“Dĩ nhiên là cái xác ở ngõ Dresden.”
“Trời ạ, dường như nhân lực của phòng chúng tôi bị rút hết rồi.” Ông nói thêm bằng giọng châm biếm. “Vì một lý do chẳng hiểu là gì. Nhưng chúng tôi cho rằng nghi phạm có thể đã đến đây từ trước.”
“Tôi đã nói với anh sẽ kiểm tra với các đầu mối liên hệ của mình. Tôi rất vui lòng báo cáo rằng người đưa tin của tôi có thông tin tốt, kẻ sát nhân thực sự là người nước ngoài.”
Kohl lấy ra tập giấy và cây bút chì. “Thế tên của nghi phạm là gì?”
“Anh ta không biết.”
“Quốc tịch của hắn là gì?”
“Anh ta không thể nói.”
“Vậy người đưa tin này là ai?” Kohl hỏi, giận điên người. “Ôi, tôi không thể tiết lộ được.”
“Tồi cần phải thẩm vấn anh ta, Peter. Nếu anh ta là nhân chứng.”
“Anh ta không phải là nhân chứng. Anh ta có nguồn tin riêng và nó…”
“… cũng tuyệt mật,”
“Đúng vậy. Tôi chỉ báo lại với anh tin này vì thật vui khi những nghi ngờ của anh đã được khẳng định.”
“Những nghi ngờ của tôi?”
“Rằng hắn không phải là người Đức.”
“Tôi chưa bao giờ nói thế.”
“Ông là ai?” Krauss hỏi, quay về phía người bán bánh.
“Ông thanh tra đây đang hỏi tôi về người đàn ông tôi đã thấy.”
“Nghi phạm của anh à?” Krauss hỏi Kohl.
“Có thể.”
“Chà, anh giỏi đấy, Willi. Chúng ta cách ngõ Dresden mấy cây số thế nhưng anh vẫn lần theo nghi phạm tới tận cái xó này.” Anh ta liếc nhìn nhân chứng. “Ông ta có hợp tác không?”
Người bán bánh nói bằng giọng run rẩy. “Tôi không thấy gì hết, thưa ngài. Không hẳn. Chỉ là một người đàn ông xuống xe taxi thôi.”
“Người đó xuống đâu?”
“Tôi không…”
“Xuống đâu?” Krauss hỏi vặn.
“Bên kia đường. Thật đấy, thưa ngài. Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Anh ta quay lưng lại phía tôi. Anh ta…”
“Nói dối.”
“Tôi thề có… Tôi thề có Lãnh tụ.”
“Một người tuyên thệ sai vẫn là một người nói dối.” Krauss quay sang một trong số các phụ tá của mình, một sĩ quan mặt tròn. “Chúng ta sẽ đưa anh ta về phố Prince Albrecht. Cho ở đấy một ngày để cung cấp mô tả chi tiết.”
“Không, xin ngài. Tôi muốn giúp. Tôi hứa với ngài.”
Willi Kohl nhún vai’. “Nhưng sự thật là ông không giúp được nhiều.”
“Tôi đã nói…”
Kohl đề nghị xem chứng minh thư của người này. Ông ta đưa nó ra với đôi bàn tay run rẩy. Kohl mở ra xem.
Krauss lại liếc nhìn trợ lý của anh ta. “Còng tay ông ta lại. Đưa về trụ sở.”
Tay sĩ quan Gestapo trẻ tuổi bẻ quặt hai tay ông ta ra phía sau, bập còng số tám vào. Hai mắt ông ta đẫm lệ. “Tôi đã cố nhớ lại. Tôi nói thật…”
“À, ông sẽ nhớ lại. Tôi đảm bảo với ông điều đó.”
Kohl nói với ông ta, “Chúng tôi đang giải quyết các vấn đề có tầm quan trọng rất lớn ở đây. Lúc này, tôi khuyên hợp tác. Nhưng nếu đồng nghiệp của tôi muốn đưa ông quay về phố Prince Albrecht” - thanh tra nhướn mày về phía người đồng nghiệp kinh hoàng - “mọi thứ sẽ tồi tệ cho ông đấy, ông Heydrich. Rất tồi tệ.”
Người đàn ông chớp mắt, đưa tay lau nước mắt. “Nhưng, thưa ngài…”
“Phải, phải, thực sự là họ sẽ…” Giọng Kohl nhỏ dần. Ông nhìn vào chứng minh thư lần nữa. “Ông là… ông sinh ở đâu?”
“Göttburg, ngoài Munich, thưa ngài.”
“À.” Khuôn mặt Kohl vẫn đóng băng. Ông chậm rãi gật đầu. Krauss liếc nhìn ông.
“Nhưng, thưa ngài, tôi nghĩ…”
“Và đó là một thành phố nhỏ?”
“Vâng, thưa ngài. Tôi…”
“Làm ơn im lặng đi,” Kohl nói, tiếp tục nhìn chằm chằm chứng minh thư.
Krauss cuối cùng cũng hỏi, “Chuyện gì vậy, Willi?”
Kohl ra hiệu cho tay sĩ quan Gestapo đứng sang một bên. Ông thì thầm, “Tôi nghĩ Cảnh sát Hình sự không còn quan tâm đến người này nữa. Anh có thể làm gì với ông ta thì làm.”
Krauss im lặng một lúc, cố gắng hiểu sự thay đổi thái độ bất ngờ của Kohl. “Tại sao?”
“Và xin anh giúp cho một việc, đừng nói rằng Janssen và tôi tạm giam ông ta.”
“Một lần nữa tôi phải hỏi tại sao, Willi?”
Sau một lúc Kohl mói nói, “Lãnh đạo SD Heydrich đến từ Göttburg.”
Reinhard Heydrich, kẻ cầm đầu bộ phận phản gián của SS và là nhân vật số hai của Himmler, được xem là kẻ tàn bạo nhất của ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ. Heydrich là một cỗ máy không có trái tim (hắn đã từng hủy thai một cô gái sau đó bỏ mặc cô ấy chết, chỉ vì hắn căm ghét phụ nữ không giữ đạo đức). Có người nói rằng Hitler không thích gây đau đớn cho người khác, nhưng vẫn chấp nhận khi đáp ứng nhu cầu của ông ta. Heinrich Himmler lại ưa thích trò này nhưng không có khả năng dùng nó đẩy mạnh các mục tiêu của mình. Heydrich vừa thích gây đau đớn vừa có nghệ thuật trong việc đó.
Krauss liếc nhìn người bán bánh rồi khó chịu hỏi, “Chúng có… Anh nghĩ xem có liên quan đến chúng không?”
“Tôi không thích mạo hiểm. Tại Gestapo, anh có quan hệ với SD tốt hơn Cảnh sát Hình sự chúng tôi. Anh có thể thẩm vấn ông ta mà không chịu nhiều hậu quả. Nếu chúng thấy tên tôi dính líu đến ông ta trong một cuộc điều tra, sự nghiệp của tôi xem như hết.”
“Nhưng dù thế… thẩm vấn một trong những người thân của Heydrich?” Krauss nhìn xuống vỉa hè, rồi hỏi Kohl. “Anh có cho rằng ông ta biết thông tin gì giá trị không?”
Kohl dò xét người bán bánh khốn khổ. “Tôi nghĩ có lẽ ông ta biết nhiều hơn nhưng chẳng có gì đặc biệt hữu ích với chúng tôi. Tôi có cảm giác giống anh rằng ông ta đang lẩn tránh điều gì đó, thực ra chẳng có gì ngoài cách nhào bột với mạt cưa, hay sử dụng bơ ở chợ đen.” Thanh tra liếc nhìn quanh vùng này. “Tôi chắc chắn nếu Janssen và tôi tiếp tục ở đây, chúng tôi có thể biết thêm bất kỳ thông tín gì liên quan đến vụ ngõ Dresden và đồng thời” - ông hạ thấp giọng - “đừng để chúng tôi mất việc nhé.”
Đi tới đi lui, Krauss có lẽ đang cố gắng nhớ lại anh ta có nói tên mình cho người đàn ông này chưa. Ông ta có thể tiết lộ ngược lại cho ông anh họ Heydrich. Rồi anh ta đột ngột nói, “Tháo còng ra.” Khi tay sĩ quan trẻ làm theo, anh ta nói, “Chúng tôi sẽ cần một báo cáo về vụ ngõ Dresden sớm, Willi.”
“Dĩ nhiên.”
“Hail Hitler.”
“Chào.”
Hai tay sĩ quan Gestapo lên chiếc Mercedes, lượn vòng quanh tượng Lãnh tụ rồi hòa vào dòng người đang đi lại.
Khi chiếc xe đã đi xa, Kohl trả lại ông bán bánh chứng minh thư. “Của ông đây, ông Rosenbaum. Ông có thể quay lại làm việc rồi. Chúng tôi sẽ không quấy rầy ông nữa.”
“Cảm ơn, ôi cảm ơn ngài,” người bán bánh nhiệt thành nói. Đôi bàn tay ông ta vẫn đang run, nước mắt đọng lại thành vệt quanh miệng. “Chúa phù hộ cho ngài.”
“Suỵt,” Kohl nói, tức giận trước thái độ hàm ơn hớ hênh này. “Quay lại với cửa hàng của ông đi.”
“Vâng, thưa ngài. Một ổ bánh mỳ cho ngài nhé? Vài bánh táo tẩm đường nhé?”
“Không, không. Quay về cửa hàng của ông, ngay bây giờ.”
Người đàn ông nhanh chóng quay vào trong.
Khi họ trở lại xe, Janssen hỏi, “Tên ông ta không phải là Heydrich? Mà là Rosenbaum mà?”
“Liên quan đến chuyện này, Janssen, tốt hơn hết cậu đừng có hỏi. Nó sẽ không giúp cậu trở thành một thanh tra giỏi hơn đâu.”
“Rõ, thưa sếp.” Cậu ta gật đầu theo cách chế nhạo.
“Bây giờ,” Kohl nói tiếp, “chúng ta biết rằng nghi phạm đã xuống taxi ở đó và ngồi tại quảng trường trước khi hắn đi làm nhiệm vụ ở đây, bất kể nhiệm vụ đó là gì. Hãy cùng đi hỏi những người đang sưởi nắng trên ghế xem họ có thấy gì không.”
Họ không gặp may với đám đông này, đúng như Kohl đã giải thích với Janssen, phần nhiều trong số này không đồng cảm chút nào với Đảng hay Cảnh sát. Họ chẳng moi được gì cho tới khi đến gặp người đàn ông đang ngồi dưới bóng râm tượng Lãnh tụ bằng đồng. Kohl quan sát ông ta và ngửi thấy mùi chiến binh - hoặc là quân đội chính quy của Free Corps, lực lượng dân quân không chính thức được thành lập sau Thế Chiến thứ I.
Ông ta gật đầu cái rụp khi Kohl hỏi về nghi phạm. “Chà, đúng, đúng. Tôi hiểu ý cậu.”
“Xin hỏi ông là ai?”
“Tên tôi là Helmut Gershner, cựu Hạ sĩ trong quân đội của Kaiser Wilhelm.”
“Và ông có gì để kể cho chúng tôi, Hạ sĩ?”
“Tôi đã nói chuyện với người này khoảng bốn mươi lăm phút trước. Hắn khớp với mô tả của cậu.”
Kohl thấy tim mình đập thình thịch. “Có phải hắn vẫn còn ở đây không? Ông có biết không?”
“Điều đó thì tôi không biết.”
“Rồi, kể cho chúng tôi nghe về hắn đi.”
“Vâng, Thanh tra. Chúng tôi đang nói chuyện về Thế Chiến thứ I. Ban đầu, tôi nghĩ chúng tôi là đồng chí, nhưng sau đó tôi cảm thấy có điều lạ lùng.”
“Đó là gì thưa ngài?”
“Hắn có nói đến trận chiến St.Mihiel. Thế nhưng hắn lại chẳng bị làm sao.”
“Bị làm sao?”
Ông ta lắc đầu. “Chúng tôi đã mất mười lăm nghìn lính bị bắt trong trận đó, và nhiều, nhiều lính chết nữa. Đối với tôi, đó là một ngày đen tối nhất cho cả đơn vị của tôi, Biệt đội C. Đúng là một bi kịch! Quân Mỹ và quân Pháp đẩy chúng tôi về đến tận Phòng tuyến Hindenburg. Có vẻ như hắn biết nhiều về cuộc chiến này. Tôi nghi ngờ việc hắn có mặt ở đó. Nhưng trận chiến này đối với hắn không phải là nỗi kinh hoàng. Tôi có thể thấy điều đó trong mắt hắn, rằng hắn xem những ngày kinh hoàng đó chẳng là gì. Và,” - đôi mắt ông ta bùng lên căm phẫn - “hắn không chịu uống cùng lọ rượu bẹt với tôi để vinh danh những người đã chết. Tôi không hiểu tại sao hai người lại đi tìm hắn, nhưng chỉ riêng phản ứng này thôi cũng khiến tôi nghi ngờ. Tôi nghi ngờ rằng hắn là kẻ đào ngũ. Hay là một tên hèn nhát. Có lẽ hắn thậm chí còn là kẻ đâm sau lưng.”
Kohl buồn bã nghĩ, hoặc có thể hắn chính là kẻ thù. Thanh tra hỏi, “Hắn có nói điều gì nữa về công việc của hắn tại đây không? Hay đến bất kỳ đâu chẳng hạn?”
“Không, thưa ngài, hắn không nói. Chứng tôi chỉ nói chuyện một lát thôi.”
“Hắn có đi một mình không?”
“Tôi nghĩ là không. Hắn dường như đi cùng một người khác, nhỏ nhắn hơn tôi một chút. Nhưng tôi không nhìn rõ lắm, xin lỗi. Tôi không chú ý, thưa ngài.”
“Ngài làm tốt lắm, chiến binh,” Janssen nói. Quay sang Kohl, tay thanh tra học việc gợi ý. “Có lẽ, người chúng ta thấy tại sân trong là đồng nghiệp của hắn. Một kẻ mặc bộ vest đen, nhỏ người hơn.”
Kohl gật đầu. “Có khả năng. Một trong số những người đi cùng tại Khu Vườn Mùa Hạ.” Ông hỏi người cựu chiến binh. “Người cao lớn đó, hắn tầm bao nhiêu tuổi?”
“Khoảng bốn mươi, chắc thêm một hai năm gì đó. Tầm tuổi như tôi.”
“Và ông nhìn rõ mặt hắn chứ?”
“À, có thưa ngài. Tôi ngồi gần hắn như đang ngồi gần ngài bây giờ. Tôi có thê’ mô tả hắn chính xác.”
Đội ơn Chúa, Kohl nghĩ: dịch mù lòa đã chấm dứt rồi. Ông liếc nhìn lên con phố, tìm kiếm một người mà ông đã quan sát khi xem xét khu vực này nửa giờ trước. Ông nắm lấy cánh tay người cựu chiến binh, giơ một tay lên để chặn luồng giao thông, dẫn người đàn ông tàn tật này sang đường.
“Cậu gì ơi,” ông nói chuyện với người bán hàng mặc áo khoác bẩn thỉu, đang ngồi cạnh một xe đẩy rẻ tiền chở tranh đi bán. Người nghệ sĩ đường phố nhìn lên từ bức tranh tĩnh vật hoa anh ta đang vẽ. Anh ta bỏ bút xuống, đứng dậy cảnh giác khi thấy tấm thẻ cảnh sát của Kohl.
“Tôi xin lỗi, Thanh tra. Tôi thề với ngài tôi cố nhiều lần rồi để có giấy phép, nhưng mà…”
Kohl ngắt lời. “Cậu có dùng bút chì không, hay chỉ dùng màu vẽ thôi?”
“Tôi…”
“Bút chì! Cậu dùng được bút chì không?”
“Có, thưa ngài. Tôi thường xuyên bắt đầu bằng bút chì để phác thảo ban đầu, sau đó tôi…”
“Rồi, rồi, tốt rồi. Bây giờ, tôi có việc cho cậu đây.” Kohl đỡ tay hạ sĩ tàn tật ngồi xuống chiếc ghế vải tồi tàn, chìa ra trước mặt tay nghệ sĩ một tập giấy.
“Ông muốn tôi vẽ người đàn ông này à?” tay bán hàng hỏi, liều lĩnh nhưng bối rối.
“Không, tôi muốn cậu vẽ người đàn ông mà người này sắp mô tả.”