← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15

Chiếc taxi phóng hết tốc lực qua một khách sạn lớn, trên đó những lá cờ Phát xít màu đỏ-trắng-đen bay phấp phới.

“Chà, Metropol đấy,” tài xế nói. “Anh biết giờ ai đang thuê phòng ở đó không? Nữ diễn viên kiêm ca sĩ vĩ đại Lillian Harvey đấy! Chính mắt tôi đã thấy cô ấy. Chắc anh phải thích các vở nhạc kịch của cô ấy lắm.”

“Cô ta giỏi đấy.” Paul chẳng biết người phụ nữ này là ai.

“Hiện tại, cô ấy đang đóng phim ở Babelsberg tại Trường quay UFA. Tôi rất muốn cô ấy đi xe của tôi, nhưng dĩ nhiên cô ấy có limousine rồi.”

Paul lơ đãng liếc nhìn khách sạn xa hoa - đúng là kiểu khách sạn một ngôi sao điện ảnh sẽ ở. Sau đó, chiếc taxi quay về phía Bắc, khung cảnh vùng này đột ngột thay đổi ngày càng chằng chịt những khối nhà. Năm phút sau, Paul nói với tài xế, “Xin anh cho tôi xuống đây.”

Anh ta thả gã xuống lề đường, lúc này vì cảnh giác trước đầu mối taxi, Paul đợi cho đến khi chiếc xe hòa vào dòng giao thông rồi mới đến phố Drangoner cách hai khối nhà. Sau đó, gã tiếp tục đến quán cà phê Aryan.

Vào trong quán, gã không phải tìm kiếm Otto Webber nữa. Tay người Đức đã ngồi tại bàn ở quán bar ngoài cùng, đang tranh cãi với một người đàn ông mặc áo vest xanh nhạt, đầu đội mũ rơm chóp phẳng. Webber ngước mắt lên và nở nụ cười tuyệt đẹp dành cho Paul, sau đó nhanh chóng bỏ rơi anh bạn kia.

“Đến đây, đến đây nào, anh John Dillinger! Khỏe chứ hả, anh bạn?” Webber đứng lên ôm chầm lấy gã.

Họ cùng ngồi xuống. Paul chưa kịp cởi khuy áo khoác, Liesl, ả hầu bàn trẻ trung quyến rũ từng phục vụ họ, tiến thẳng đến chỗ gã. “Chà, anh quay lại rồi,” ả tuyên bố, đặt một tay lên vai gã và xiết chặt. “Anh không thể cưỡng lại em được! Em biết mà! Giờ anh sẽ uống gì đây?”

“Bia Pschorr cho tôi,” Paul đáp. “Bia Berlin cho anh ấy.”

Những ngón tay của ả khẽ sờ gáy gã khi quay bước đi.

Đôi mắt Webber nhìn theo Liesl. “Có vẻ cậu tự kiếm cho mình một người bạn đặc biệt rồi. Điều gì đã mang cậu quay lại thể? Sức quyến rũ của Liesl? Hay cậu lại bị mấy thằng áo nâu thối tha nữa tẩn cho bầm dập và cần tôi giúp?”

“Tôi nghĩ cuối cùng chúng ta có thể làm ăn một chút.”

“Chà, những lời nói của cậu tôi nghe như nhạc Mozart ấy. Tôi biết cậu là kẻ sắc sảo mà.”

Liesl mang hai cốc đến ngay lập tức. Paul để ý ít nhất có hai khách hàng đã gọi từ trước, nhưng không dược phục vụ. Ả nhăn mặt nhìn quanh quán bar. “Em phải làm việc rồi. Không thì em sẽ ngồi với anh để anh mua mấy ly rượu snap của em.” Nói rồi, ả cau có bỏ đi.

Webber chạm mạnh cốc mình vào cốc của Paul. “Cảm ơn vì cốc này.” Gã gật đầu sau khi người đàn ông mặc bộ vest màu xanh xám đã đến quầy bar. “Tôi cũng có những rắc rối như thế.Cậu sẽ không tin được đâu. Hitler đã tuyên bố một mẫu xe mới tại Triển lãm Ô tô Berlin năm ngoái. Tốt hon cả xe Audi, rẻ hơn xe DKW. Folks-Wagon, nó sẽ được gọi như vậy. Một chiếc xe cho tất cả mọi người. Cậu có thể thanh toán trả góp rồi mang nó về khi cậu đã trả đủ tiền. Không phải là một ý tồi đâu. Công ty có thể kiếm được tiền mà vẫn giữ lại xe trong trường hợp cậu không đủ tiền trả hết. Không phải tuyệt vời sao?”

Paul gật đầu.

“Chà, tôi thật may mắn khi tìm thấy một nghìn cái lốp.”

“Tìm thấy?”

Webber nhún vai. “Và giờ tôi biết rằng các kỹ sư chểt tiệt đã thay cỡ bánh xe. Kho hàng của tôi thành vô dụng rồi.”

“Anh tổn thất bao nhiêu?”

Webber ngắm lớp bọt trong cốc bia của mình. “Thực sự tôi chưa mất tiền. Nhưng tôi sẽ không kiếm được tiền nữa. Thế cũng đủ tồi tệ rồi. Ô tô là một thứ mà quốc gia này làm rất tốt. Sản phẩm tút lại của Little Man* chạy khắp đường. Nhưng chúng ta có một câu chuyện cười. Anh có thể du lịch đến bất kỳ đâu trong quốc gia này, phóng với tốc độ cực đại, cực kỳ thoải mái. Nhưng tại sao cậu lại muốn thế? Vì tất cả những gì cậu thấy phía cuối con đường là có nhiều tên Quốc Xã nữa.” Anh ta cười phá lên.

Bên kia phòng Liesl đang nhìn Paul đầy mong đợi. Ả muốn gì nhỉ? Một lời gọi bia nữa, một khoản boa kha khá hay một lời cầu hôn? Paul quay sang Webber. “Tôi thừa nhận anh đã đúng, Otto. Tôi không chỉ là một ký giả thể thao.”

“Nếu cậu hoàn toàn là một ký giả thể thao.”

“Tôi có một đề xuất.”

“Tốt, tốt. Nhưng chúng ta hãy nói bốn mắt nhìn nhau nhé. Cậu hiếu ý tôi không? Chỉ có hai ta thôi. Có một nơi tốt hơn để nói chuyện và tôi cần đi giao một thứ.”

Họ uống hết hai cốc bia, Paul để lại mấy mác trên bàn. Webber cầm lên một túi mua sắm quần áo với mấy chữ KaDeWe -Cửa hàng Tốt Nhất Thế Giới in ngoài bìa. Họ ra khỏi quán mà không chào tạm biệt Liesl.

“Đi lối này.” Ra ngoài họ rẽ về phía Bắc xa khỏi khu mua sắm, những cửa hàng, khách sạn Metropol và tiến vào một khu vực ngày càng lòe loẹt, phô trương.

Ở đây có một số hộp đêm, quán rượu tất cả đều đóng cửa kín mít. “Ôi nhìn xem này. Địa bàn cũ của tôi đấy. Tất cả đều đi hết rồi. Nghe này, cậu John Dillinger, tôi sẽ nói với cậu rằng tôi rất nổi tiếng tại Berlin. Giống như mấy kẻ du côn của cậu, tôi đã đọc về những nhân vật tội ác điển hình, chúng tôi ở đây cũng có Ringvereine của riêng mình.”

Paul không quen lắm với từ này, dịch theo nghĩa đen là “hiệp hội” nhưng theo giải thích của Webber, thì phải dịch là những “băng đảng.”

Webber nói tiếp. “À, chúng tôi đông lắm. Rất mạnh. Băng của tôi được gọi theo tên Miền Tây Hoang Dã của cậu. Chúng tôi là những chàng Cao Bồi.” Anh ta dùng một từ tiếng Anh. “Tôi là chủ tịch của băng một thời gian, Phải, chủ tịch đấy. Trông cậu ngạc nhiên kìa. Nhưng chúng tôi có bầu cử để chọn ra những lãnh đạo đứng đầu.”

“Dân chủ đấy.”

Webber trở nên nghiêm túc. “Cậu phải nhớ, chúng tôi, hay Chính phủ Đức hồi ấy của chúng tôi là Cộng hòa. Tôhg thống là Hindenburg. Những bang hội của chúng tôi được điều hành rất tốt. Đông đảo lắm. Chúng tôi sở hữu những tòa nhà, nhà hàng và tổ chức nhiều bữa tiệc lớn. Thậm chí cả những buổi khiêu vũ hóa trang nữa và chúng tôi mời đến đấy những chính trị gia, các quan chức cảnh sát. Chúng tôi là một lũ tội phạm, đúng, nhưng chúng tôi được tôn trọng. Chúng tôi đáng tự hào và cũng lành nghề nữa. Ngày nào đó, tôi có thể khoe với cậu một trong những mánh lừa đảo giỏi hơn của tôi.”

“Tôi không biết nhiều về giới tội phạm của cậu, John Dillinger - những AI Capone, những Dutch Schultz của cậu -nhưng giới tội phạm của chúng tôi được bắt đầu ở các Câu lạc bộ đấm bốc. Những người lao động gặp gỡ nhau làm vài trận sau giờ làm và họ bắt đầu lập thành những băng cướp. Chúng tôi có nhiều năm nổi loạn và quấy nhiễu dân chúng một thời gian sau Thế Chiến thứ I, chiến đấu với những người Cộng sản. Thật điên rồ. Và rồi lạm phát khủng khiếp… Đốt các hối phiếu ngân hàng để sưởi ấm còn rẻ hơn là dùng để mua củi. Một trong các đồng đô la của cậu có thể mua được hàng tỉ mác. Những khoảng thời gian kinh hoàng. Chúng tôi có một câu nói lan truyền trong nước: “Đói thì đầu gối phải bò.” Tất cả chúng tôi đều đói rạc. Đó là lý do tại sao Little Man lên nắm quyền. Và đó là cách tôi tự tạo thành công cho mình. Thế giới của tôi là trao đổi hàng hóa và chợ đen. Tôi tỏa sáng trong bầu khí quyển đó.”

“Tôi có thể hình dung được,” Paul nói. Rồi gã hất đầu về phía một hộp đêm có múa hát giúp vui bị đóng cửa. “Và những kẻ Quốc Xã đã dọn sạch mọi thứ.”

“Chà, đó là một cách tiêu tiền đấy. Phụ thuộc vào cách cậu định nghĩa thế nào là “dọn sạch.” Đầu óc của Little Man không ổn. Hắn không uống rượu, không hút thuốc, thậm chí không thích cả phụ nữ. Hoặc đàn ông. Xem cách hắn lấy mũ che đũng quần tại các cuộc mít tinh lớn ấy. Chúng tôi nói rằng hắn đang bảo vệ kẻ thất nghiệp cuối cùng của nước Đức!” Webber phá lên cười lớn, rồi nụ cười tắt dần. “Nhưng chuyện này không đùa đâu. Nhờ có hắn, những thằng tù đã vượt ngục hết rồi.”

Họ tiếp tục im lặng một lúc. Rồi Webber dừng lại, tự hào chỉ tay vào một tòa nhà đổ nát.

“Chúng ta đến nơi rồi, bạn tôi. Nhìn cái tên đi.”

Tấm biển đã phai màu viết bằng tiếng Anh, Câu lạc bộ Texas.

“Nơi đây đã từng là sào huyệt của tôi. Của bang hội Những Tay Cao Bồi của tôi, mà tôi nói lúc nãy. Hồi đó, nó đẹp lắm, đẹp hơn nhiều. Cẩn thận bước chân đấy, cậu John Dillinger. Đôi khi có những người đàn ông ngủ lang trên lối vào. Ôi chà, tôi có nên đi than vãn chuyện thời thế đổi thay này không đây?”

Webber đã giao xong cái túi đựng hàng bí ẩn cho người phục vụ quầy rượu, rồi nhận một phong bì.

Căn phòng đầy khói thuốc, mùi hôi của rác rưởi và tỏi. Sàn nhà vứt vương vãi thuốc lá và đầu mẩu xì gà đã hút đến chỉ còn lại những mẩu bé xíu.

“Ở đây chi có một loại bia thôi,” Webber cảnh báo. “Họ không thể pha trộn các bom bia. Chúng đóng thùng từ nhà máy bia rồi. Còn gì khác không nhỉ? À, họ pha rượu snap với ethyl và tính chất thực phẩm. Rượu vang… mà thôi thậm chí đừng hỏi. Còn về đồ ăn…” Anh ta hất đầu về phía các bộ dao, dĩa và thìa gắn vào tường bên cạnh từng bàn. Một thanh niên trong bộ quần áo nhem nhuốc đang bước quanh phòng, tay rửa mấy chiếc dao dĩa hay thìa dùng rồi trong cái xô nhờn mỡ. “Tốt hơn không nên về khi bụng còn đói,” Webber nói. “Hoặc cậu không hề muốn ra về.”

Họ gọi món rồi tìm chỗ ngồi. Tay phục vụ ở quầy rượu suốt từ nãy ném sang Paul cái nhìn chằm chằm thiểu não, mang hai cốc bia đến bàn. Cả hai cùng lau miệng cốc trước khi uống. Webber vô tình liếc nhìn xuống rồi nhíu mày. Anh gác chân này lên chân kia rồi xem xét quần dài. Dưới đáy gấu quần đã bục chỉ, những sợi vải rũ xuống.

Anh ta xem xét thiệt hại. “Ôi chà. Mấy cái quần này từ Anh đấy! Phố Bond! Để một trong những cô bé của tôi sửa vậy.”

“Cô bé? Anh có con gái à?”

“Có thể. Có lẽ là cả con trai nữa. Tôi không biết. Nhưng ý tôi là một trong mấy em tôi sống cùng.”

“Mấy em? Sống cùng nhau à?”

“Dĩ nhiên là không.” Webber đáp. “Có lúc ở chỗ của em này, có hôm lại đến chỗ của em khác. Tuần này ở đây, tuần sau lại ở kia. Một trong số họ thừa hưởng tài năng nấu nướng của Escoffier, một em biết may vá như tác phẩm điêu khắc của Michelangelo, một em có kinh nghiệm giường chiếu tuyệt hảo. Chà, tất cả bọn họ đều là những viên ngọc, mỗi người một vẻ.”

“Họ có…”

“Biết nhau không chứ gì?” Webber nhún vai. “Có thể có, có thể không. Họ không hỏi thì tôi không nói.” Anh ta ngả người về phía trước. “Nào, cậu John Dillinger. Tôi có thể làm gì cho cậu?”

“Tôi có chuyện sắp nói với anh đây, Otto. Và anh có thể lựa chọn đứng dậy ra về. Tôi sẽ hiểu nếu anh làm thế. Hoặc anh có thể ở lại và lắng nghe tôi. Nếu thế, và nếu anh có thể giúp tôi, anh sẽ được hưởng một khoản tiền khá sộp trong việc này.”

“Tôi tò mò đấy. Nói tiếp đi.”

“Tôi có một anh bạn tại Berlin. Người của anh ta đã tiến hành chút nghiên cứu về anh.”

“Về tôi? Đừng đùa chứ.” Và anh ta dường như thật muốn nói thế.

“Anh sinh ra tại Berlin năm 1886, chuyên đến Cologne khi anh mười hai tuổi. Ba năm sau, anh quay lại đây sau khi bị nhà trường đuổi học.”

Giờ thì Webber nhíu mày. “Tôi tình nguyện bỏ học mà. Câu chuyện này thường bị hiểu sai.”

“Còn chuyện thó đồ nấu bếp và có quan hệ với một nàng hầu gái.”

“Cổ ta là một ả lẳng lơ và…”

“Anh đã bị bắt bảy lần và thụ án tổng cộng mười ba tháng tại Moabit.”

Webber cười ngoác mồm. “Bị bắt thì nhiều thật, nhưng án thì ngắn thôi. Không tin cứ đi hỏi mấy liên hệ của tôi ở cấp cao thì biết.”

Paul kết luận: “Và người Anh họ không vui gì với anh vì món dầu ôi thiu anh bán cho Đại sứ quán của họ năm ngoái. Người Pháp cũng thế vì món thịt ngựa anh chuyển đến thực ra là thịt cừu. Họ đã gửi thông báo chấm dứt làm ăn với anh.”

“Chà, người Pháp,” anh ta nhếch mép. “Và tôi đang nói với cậu rằng, cậu muốn chắc chắn rằng cậu có thể tin tôi, rằng tôi đang tỏ ra mình là tên tội phạm thông minh chứ không ngu ngốc như gián điệp Quốc Xã. Cậu chỉ đơn giản là thận trọng thôi. Tại sao tôi thấy mình nên bị tổn thương vì chuyện này nhỉ?”

“Không, điều làm anh tổn thương đó là anh bạn của tôi đã thu xếp để báo mọi người ở Berlin, vài người trong Chính phủ của chúng tôi. Giờ anh được tự do lựa chọn chẳng có liên quan gì đến tôi. Thất vọng nhưng có thể thông cảm được. Nhưng nếu anh quyết định giúp đỡ chúng tôi, và nếu anh phản bội tôi thì những người này sẽ đến tìm anh. Và những hậu quả sẽ rất khó chịu đấy. Anh có hiểu tôi đang nói gì không?”

Vừa đấm vừa xoa, những cột mốc tin tưởng tại Berlin như Reggie Morgan đã nói.

Webber lau mặt, cụp mắt xuống và lẩm bẩm, “Tôi cứu mạng cậu và đây là cách cậu đối xử với tôi à?”

Paul thở dài. Gã thích con người bí ẩn này nhưng chẳng còn cách nào khác để lần theo dấu vết của Ernst. Không còn cơ hội nào để các liên hệ của Morgan tìm hiểu thông tin cá nhân của Webber, để tiến hành thu xếp sao cho bảo đảm rằng anh ta không phản bội họ. Đây là những đề phòng có vai trò thiết yếu trong thành phố nguy hiểm này, “Vậy tôi cho rằng chúng ta uống hết bia trong im lặng, rồi đường ai nấy đi.”

Nhưng một lúc sau, gương mặt Webber nở một nụ cười. “Nhưng tôi phải thừa nhận rằng tôi không tổn thương như lẽ ra phải thế, cậu Schumann.”

Paul chớp mắt. Gã chưa bao giờ nói với Webber tên mình.

“Cậu thấy không, tôi cũng có những nghi ngờ đối với cậu. Tại quán cà phê Aryan, ngay trong buổi gặp gỡ đầu tiên, khi cậu đi lướt qua tôi để trang điểm lại che đi vết thương, tôi đã giấu hộ chiếu của cậu và ngó qua. Chà, cậu chẳng toát ra mùi Quốc Xã chút nào hết, nhưng cậu đã bảo người ta không bao giờ có thể quá thận trọng ở thành phố điên rồ này của chúng ta. Thế nên tôi đã điều tra về cậu. Không một liên hệ nào giữa cậu với phố Wilhelm mà người của tôi không khám phá ra. À mà thấy kỹ năng của tôi thế nào? Cậu không cảm thấy gì hết, đúng không, khi tôi trộm hộ chiếu của cậu?”

“Không,” Paul nói, mỉm cười buồn bã.

“Nên tôi nghĩ chúng ta đã đạt được sự tôn trọng lẫn nhau vừa đủ” - anh ta chế nhạo nói - “để có thể cân nhắc một đề nghị làm ăn. Vui lòng tiếp tục đi, cậu John Dillinger. Cho tôi biết cậu đang nghĩ gì.”

Paul đưa cho Webber tờ 100 mác Morgan đã cho gã, anh ta nhướn mày.

“Cậu muốn mua cái gì?”

“Tôi cần một ít thông tín.”

“Chà thông tín. Rồi, rồi. Việc này có thể đáng giá 100 mác đây. Hoặc có thể tốn nhiều hơn thế. Thông tin về ai hay cái gì?”

Gã quan sát đối mắt đen của người đàn ông ngồi trước mặt. “Reinhard Ernst.”

Môi dưới của Webber bĩu ra khi anh ta lắc đầu. “Vậy là cuối cùng các mảnh ghép đã hoàn chỉnh. Cậu đến đây vì một sự kiện Thế vận hội mới mẻ rất thú vị. Săn thú lớn. Và cậu đã có một lựa chọn tốt đấy, bạn tôi ạ.”

“Tốt ư?” Paul hỏi.

“Đúng, đúng. Viên đại tá này đang tiến hành những thay đổi ở đây. Nhưng không phải vì lợi ích quốc gia. Cứ chuẩn bị tinh thần đối mặt với nguy hiểm đi. Little Man là một kẻ ngu nhưng xung quanh y là những người thông minh và Ernst là kẻ thông minh nhất.” Webber châm một điếu xì gà của mình. Với điếu Chesterfield, lần này Paul chỉ làm hỏng hai que diêm từ hộp diêm rẻ tiền để châm thuốc.

Webber dõi mắt nhìn về phía xa. “Tôi phục vụ cho Hoàng đế Đức được ba năm. Cho đến khi đầu hàng. Ôi, tôi nói với cậu, tôi đã lập những chiến tích dũng cảm. Trung đội của tôi có lần đã từng hành quân hơn 100 ki-lô-mét để chống quân Anh, chúng tôi chỉ mất có hai tháng thôi. Chính nhờ trận đó, chúng tôi được tặng mấy huy chương. Chúng tôi đã sống sót được. Ở mấy ngôi làng đã lập những tấm thẻ bài, ghi chữ Tặng những người đã ngã xuống. Thành phố còn không đủ đồng để viết hết tên người chết lên đó.” Anh ta lắc đầu. “Đám Yankee các cậu có súng liên thanh Maxim. Chúng tôi thì có Súng Máy. Cũng tương tự như liên thanh Maxim. Chúng tôi đã ăn cắp thiết kế của các cậu hay là ngược lại tôi cũng chẳng nhớ nữa. Nhưng mà quân Anh họ sở hữu súng máy Vicker. Được làm mát bằng nước. Giờ thì nó biến thành cối nghiền thuốc hít cho cậu đấy. Đó đúng là một tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại… Không, không, chúng tôi không muốn một cuộc chiến khác, bất kỳ điều gì Little Man nói chúng tôi không ai làm theo. Đó sẽ là dấu chấm hết cho mọi thứ. Và đó chính là việc tên đại tá sắp làm.” Webber nhét đồng 100 mác vào túi, phà một hơi khói từ điếu xì gà thế phẩm xấu xí của anh ta. “Cậu muốn biết điều gì?”

“Lịch sinh hoạt của hắn trên phố Wilhelm. Khi nào hắn đi làm, khi nào hắn về, hắn đi loại xe nào, hắn đỗ xe ở đâu và ngày mai hắn có đến đó không, thứ Hai hay thứ Ba, hắn đi trên những lộ trình nào và bất kỳ quán cà phê nào ưa thích của hắn trong khu vực đó.”

“Người ta có thể tìm ra bất kỳ cái gì, chỉ cần có đủ thời gian. Và trứng nữa.”

“Trứng?”

Anh ta vỗ vỗ vào túi. “Tiền ý. Tôi phải nói thật, cậu John Dillinger. Chúng ta không phải đang lập kế hoạch lừa đảo, rằng con cá hồi ba ngày tuổi ở Landwher cũng tươi như ở Havel. Đây là một vấn đề có thể khiến tôi phải về hưu một thời gian đấy. Sẽ có những ảnh hưởng nghiêm trọng, và tôi sẽ phải làm ngầm. Như thế sẽ…”

“Otto, cứ nói một con số ra đi.”

“Rất nguy hiểm… Thêm vào đó, tiền là gì đối với cậu hả chàng người Mỹ? Cậu có FDR của mình.” Anh ta nói bằng tiếng Anh. “Cậu đang sống trong tiền.”

“Trên tiền,” Paul sửa lại. “Bao nhiêu?”

“1.000 đô la Mỹ.”

“Cái gì?”

“Không phải tiền mác. Họ nói rằng lạm phát đã chấm dứt, nhưng không một ai sống qua quãng thời gian đó tin vào điều ấy.

Đó là lý do tại sao năm 1928, một lít dầu mất những năm trăm nghìn mác. Và năm…”

Paul lắc đầu. “Nhiều tiền quá.”

“-Nhưng thực sự là không mắc - nếu tôi có được thông tin cho cậu. Và tôi cam đoan tôi sẽ có thông tin. Cậu chỉ trả tôi một nửa xem như đặt cọc.”

Paul chỉ tay vào túi Webber, nơi cất những đồng mác. “Đó là phần trả trước cho anh.”

“Nhưng mà…”

“Phần còn lại sẽ thanh toán khi và chỉ khi có được thông tin. Và nếu tôi xin được.”

“Sẽ có nhiều khoản phải chi.”

Paul dúi thêm 100 mác còn lại. “Đấy.”

“Không đủ, nhưng tôi sẽ làm.” Rồi Webber dò xét Paul chăm chú. “Tôi tò mò đấy.”

“Về điều gì?”

“Về cậu, John Dillinger. Câu chuyện của cậu là gì?”

“Chẳng có câu chuyện nào đâu.”

“Ấy, luôn luôn có một câu chuyện. Tiếp đi, kể cho Otto nghe câu chuyện của cậu đi. Giờ đây chúng ta đang làm ăn với nhau. Còn thân thiết hơn cả trên giường nữa. Và hãy nhớ rằng, anh ấy nhìn thấu tất cả, sự thật cũng như những lời dối trá. Dường như cậu không có khả năng là ứng cử viên cho công việc này. Có lẽ đó là lý do tại sao cậu là người được phái đến thành phố trung bình này của chúng tôi. Vì có vẻ như cậu không có khả năng. Làm sao cậu bước vào được cái nghề cao quý này thế?”

Paul im lặng một lúc, rồi đáp. “Ông nội tôi đã sang Mỹ nhiều năm trước. Ông ấy đã chiến đấu trong chiến tranh Pháp - Phổ, nên không còn thiết tha với chiến tranh nữa. Ông bắt đầu mở một công ty in ấn.”

“Tên ông ấy là gì?”

“Wolfgang. Ông bảo mực in đã nằm trong mạch máu của mình, ông cho rằng tổ tiên ông đã sống ở Mainz và làm việc với Gutenberg.”

“Những câu chuyện của người ông,” Webber nói, gật đầu. “Ông tôi nói rằng ông ấy là em họ của Bismarck.”

“Công ty của ông nằm trong khu Lower East Side ở New York, đó là khu sinh sống của người Mỹ gốc Đức trong thành phố. Năm 1904, xảy ra một thảm kịch - trên một ngàn người ở đó bị xóa sổ trong một vụ cháy tàu du lịch trên Sông Đông.Tàu General Slocum*.

“Chà, đúng là một điều buồn bã.”

“Ông nội tôi có mặt trên chiếc tàu đó. Ông cùng bà nội tôi tuy không chết nhưng ông bị bỏng nặng vì cứu mọi người, và không thể làm việc được nữa. Sau đó, hầu hết cộng đồng người Đức chuyển nhà đến Yorkville, xa hơn Manhattan về phía Bắc. Vì quá đau buồn nên không ai còn ở lại Tiểu nước Đức nữa. Việc kinh doanh của ông vì thế đổ bể, ông nội tôi ốm nặng, cộng thêm việc ngày càng ít người đặt hàng in ấn. Nên cha tôi đành tiếp quản. Dù ông không muốn trở thành thợ in mà muốn chơi bóng chày. Anh biết bóng chày không?”

“Dĩ nhiên rồi.”

“Nhưng ông không còn lựa chọn. Ông còn vợ, còn anh chị em tôi phải nuôi dưỡng - cả ông bà tôi nữa. Nhưng chúng tôi dám nói rằng, ông đã đi lên từ cơ hội này. Ông đã làm tròn bổn phận của mình. Ông chuyển nhà đến Brooklyn, bổ sung thêm việc in ấn sách tiếng Anh và mở rộng công ty. Biến nó thành một công ty phát đạt. Em hai tôi không thể đăng ký đi lính trong Thế Chiến, nên họ cùng điều hành công ty khi tôi ở Pháp. Sau khi quay về mới làm việc cùng họ, bố con tôi đã xây dựng nơi này lớn mạnh thật sự.” Gã phá lên cười. “Giờ tôi chẳng biết anh đã từng nghe đến nó chưa, nhưng đất nước của chúng tôi có một thứ gọi là Lệnh Cấm Rượu. Anh biết…”

“Có, có, dĩ nhiên. Tôi có đọc những nhân vật tội ác điển hình của cậu, nhớ không, uống rượu là bất hợp pháp! Điên rồ!”

“Nhà máy của bố tôi nằm ngay cạnh con sông tại Brooklyn. Con sông ấy có một vũng tàu đậu và một nhà kho lớn để trữ giấy và các thành phẩm. Một trong số các băng nhóm muốn chiếm dụng nó dùng làm nơi bảo quản rượu whisky. Chúng buôn lậu vào đây từ bến cảng. Cha tôi từ chối. Một hôm, có hai thằng du côn đến kiếm ông. Chúng đánh đập em tôi và khi ông vẫn kiên quyết không chịu, chúng cho cả hai cánh tay ông vào máy in chữ.”

“Ôi, không, bạn tôi.”

Paul nói tiếp. “Ông bị cán nặng lắm, vài ngày sau thì mất, ngày hôm sau em trai cùng mẹ tôi bán nhà máy cho chúng được 100 đô la.”

“Vậy là cậu thất nghiệp, gia nhập vào đám đông khó khăn?” Webber gật đầu.

“Không, chuyện không phải như thế,” Paul nhẹ nhàng nói. “Tôi đi báo cảnh sát. Chúng không quan tâm đến việc giúp đỡ tìm những kẻ sát nhân đặc biệt này. Anh hiểu không?”

“Cậu đang hỏi tôi có biết chuyện cảnh sát tham nhũng không à?” Webber phá lên cười.

“Nên tôi tìm lại khẩu Colt cũ của mình trong quân ngũ. Tôi biết được bọn chúng là ai. Tôi bám theo chúng trong suốt một tuần. Tôi biết được mọi điều về chúng. Và hóa kiếp chúng nó.”

“Cậu…?”

Gã nhận ra mình đã dịch câu nói này theo nghĩa đen, nhưng không có nghĩa trong tiếng Đức. “Chúng tôi nói ‘hóa kiếp’ nghĩa là găm một viên đạn vào sau đầu chúng nó.”

“À phải,” Webber thì thầm, lúc này anh ta không cười nữa. “Chúng tôi sẽ nói là ‘khử.’”

“À, phải, tôi cũng biết chúng nó làm việc cho ai, thằng cha bán rượu lậu ra lệnh tra tấn cha tôi. Tôi cũng hóa kiếp hắn luôn.”

Webber im lặng. Paul nhận ra gã chưa từng kể câu chuyện này cho bất kỳ ai.

“Cậu có lấy lại công ty không?”

“À, không, nơi đó bị cảnh sát tấn công và sau đó bị Chính phủ tịch thu. Còn về phần tôi, tôi biến mất vào thế giới ngầm tại Helts Kitchen ở Manhattan. Và tôi đã sẵn sàng chết.”

“Chết ư?”

“Tôi đã giết một tên rất quan trọng. Thằng trùm tội phạm này. Tôi biết rằng đồng bọn của hắn hay ai đó khác sẽ đến tìm tôi và giết tôi. Tôi đã che đậy những dấu vết của mình rất tốt, cảnh sát không thể tìm ra tôi. Nhưng các băng đảng thì biết rõ tôi. Tôi không muốn dẫn bất kỳ tên nào đến gia đình tôi - hồi ấy em trai tôi đã mở một công ty in ấn của riêng nó - nên thay vì quay lại làm ăn với nó, tôi nhận công việc trong một phòng tập gym, đổi lại tôi có chỗ ở.”

“Và cậu ngồi chờ chết. Nhưng tôi không thể ngăn mình để ý rằng cậu vẫn còn sống cực kỳ khỏe mạnh, John Dillinger. Chuyện gì đã xảy ra?”

“Có những người khác…”

“Các thủ lĩnh băng đảng à?”

“… nghe nói về những việc tôi đã làm. Họ không hài lòng lắm với tên mà tôi đã giết, cái cách hắn làm việc như tra tấn cha tôi và giết hại cảnh sát. Họ nghĩ rằng những tên tội phạm nên là những kẻ chuyên nghiệp. Những quý ông.”

“Giống như tôi,” Webber nói, lấy tay vỗ ngực.

“Họ nghe nói tôi đã giết tên đó cùng băng đảng của hắn ra sao. Rất sạch sẽ, không để lại một bằng chứng nào. Và không làm tổn thương một người vô tội nào. Họ đề nghị tôi làm điều tương tự với một kẻ khác, một kẻ rất xấu xa khác. Tôi không muốn làm nhưng phát hiện ra việc hắn đã làm. Hắn đã giết một nhân chứng và gia đình của anh ta, ngay cả hai đứa con của anh ta. Thế nên tôi đồng ý. Tôi đã hóa kiếp hắn luôn. Họ trả cho tôi hậu lắm. Sau đó, tôi giết một người nữa. Tiền họ thanh toán tôi dành dụm mua một phòng tập gym nhỏ. Tôi sẽ từ bỏ nghề này. Nhưng anh có biết điều gì khiến tôi ngựa quen đường cũ không?”

“Thực ra là có.”

“À, con đường cũ này đã là cuộc đời tôi suốt mấy năm rồi…” Paul im lặng. “Và đó là câu chuyện của tôi đấy. Tất cả toàn là sự thật, không dối trá.”

Cuối cùng, Webber hỏi, “Làm nghề này để kiếm sống? Cậu có thấy áy náy không?”

Paul im lặng một lúc. “Tôi nghĩ nó phải khiến tôi áy náy hơn. Tôi cảm thấy tồi tệ khi hóa kiếp những người lính của anh trong chiến tranh. Tại New York, tôi chỉ hóa kiếp những thằng giết người khác. Vài kẻ xấu xa. Vài kẻ làm những chuyện như mấy tên kia đã làm với cha tôi.” Gã bật cười. “Tôi nói rằng mình chỉ chỉnh sửa lại những sai lầm của Chúa thôi.”

“Tôi thích thế, cậu John Dillinger,” Webber gật đầu. “Những sai lầm của Chúa. Ôi, quanh đây chúng ta có đống kẻ như thế, phải, chúng ta có đấy.” Anh ta tu hết cốc bia. “Hôm nay là thứ Bảy. Quãng thời gian không tiện để lấy thông tin. Gặp tôi vào sáng mai tại Tiergarten. Có một cái hồ nhỏ phía cuối ngõ Stem. về phía Nam. Mấy giờ thì tiện cho cậu được?”

“Sớm đi. Tám giờ.”

“Chà, rất tốt,” Webber vừa nhíu mày vừa nói. “Thế là sớm. Nhưng lúc đó tôi sẽ có mặt.”

“Tôi còn cần một thứ nữa,” Paul nói.

“Cái gì? Whisky? Hay thuốc lá? Tôi thậm chí còn kiếm được cocain. Trong thành phố này còn nhiều lắm. Nhưng tôi…”

“Không phải cho tôi. Mà là cho một người phụ nữ. Một món quà.”

Webber cười ngoác đến tận mang tai. “Ái chà, cậu John Dillinger, tốt cho cậu đấy! Đến Berlin chỉ một thời gian ngắn thế mà trái tim đã lên tiếng rồi. Hay có lẽ giọng nói ấy dội từ một nơi khác trong cơ thể cậu. Thế bạn cậu có thích một dây móc bít tất cùng một đôi vớ hợp tông không? Tất nhiên là hàng Pháp. Một áo lót không dây màu đỏ hay đen? Hay cô ấy là người thùy mị hơn? Một áo len dài tay bằng vải kashmir nhé? Có lẽ là một ít sô-cô-la Bỉ. Hay có lẽ là viền đăng ten. Nước hoa luôn luôn tốt. Và dĩ nhiên, đối với cậu đấy, anh bạn của tôi, sẽ có một mức giá rất đặc biệt.”

Chương 16

Những khoảng thời gian bận rộn.

Có đến hàng tá vấn đề có thể làm bận rộn tâm trí của người đàn ông to lớn, đang đổ mồ hôi, khi ngồi trong văn phòng rộng rãi thích hợp của mình bên trong tòa nhà Bộ Phòng không rộng hơn 37 nghìn mét vuông mới hoàn chỉnh, vào cuối buổi chiều thứ Bảy này, tại số 81-85 phố Wilhelm. Thậm chí còn rộng hơn cả Phủ Thủ tướng lẫn các căn hộ của Hitler cộng lại.

Chẳng hạn, Hermann Göring có thể tiếp tục công việc tạo ra một đế chế công nghiệp khổng lồ vẫn đang lên kế hoạch (và sẽ được đặt theo tên của gã, dĩ nhiên). Gã có thể đang soạn thảo một biên bản ghi nhớ ban hành đến tất cả lực lượng chiến binh nông thôn trên toàn quốc, nhắc nhở họ rằng Luật Nhà nước về Bảo vệ Động vật, do đích thân gã viết ra, sẽ được nghiêm khắc thi hành. Vồ bất kỳ ai bị bắt quả tang săn cáo bằng chó săn sẽ bị phạt nặng.

Hoặc có một vấn đề thiết yếu đối với bữa tiệc mừng Thế vận hội của gã, đó là Göring xây dựng ngôi làng riêng Thế vận hội trong chính Bộ Phòng không (gã đã ngó qua các kế hoạch sự kiện cho chương trình diệt lũ sâu bọ trị giá hàng nghìn mác của riêng Goebbels). Và dĩ nhiên có một vấn đề ngày càng quan trọng là gã sẽ mặc gì đến bữa tiệc. Thậm chí gã có thể gặp gỡ các sĩ quan phụ tá liên quan đến nhiệm vụ hiện tại gã đảm nhiệm trong ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ: xây dựng lực lượng không quân tính nhuệ nhất thế giới.

Nhưng điều làm Hermann Göring bốn mươi ba tuổi bận tâm lúc này là người góa phụ được hưởng trợ cấp có số tuổi gấp đôi gã sống trong một ngôi nhà nông thôn ngoài Hamburg.

Dĩ nhiên, với các chức danh từ Bộ trưởng không bộ, ủy viên Hội đồng Hàng không, Tổng tư lệnh Không quân, Bộ trưởng Nội vụ Phổ, Bộ hưởng Hàng không và chuyên gia săn lùng của đế chế, gã không phải đích thân tiến hành bất kỳ công tác nghiên cứu thu thập thông tin nào liên quan đến bà Ruby Kleinfeldt. Một tá tên tay sai và các sĩ quan Gestapo của gã đã tỏa đi khắp phố Wilhelm và tại Hamburg, tìm hiểu qua các ghi chép và thẩm vấn mọi người.

Bản thân Göring đang nhìn chằm chằm qua cửa sổ văn phòng sang trọng, ăn một đĩa mỳ spaghetti ú ụ. Đây là món ăn ưa thích của Hitler, hôm qua Göring đã thấy Lãnh tụ đang ăn một bát mỳ. Phần thức ăn được mang đến kích thích ham muốn trong Göring, biến nó thành cơn thèm khát mãnh liệt, dù hôm nay gã đã ăn ba suất lớn.

Chúng tôi sẽ tìm được gì về mụ? Gã lặng lẽ hỏi bà già. Bà vẫn không hề biết thông tin về chuyện mình đang được điều tra, tìm kiếm hối hả. Cuộc điều tra dường như lạc đề đến ngớ ngẩn, xét đến rất nhiều các dự án thiết yếu xuất hiện trong chương trình nghị sự của gã. Thế nhưng dự án này tối quan trọng, vì có thể dẫn đến sự sụp đổ của Reinhard Ernst.

Đi lính được xem là sự nghiệp trọng tâm trong đời Hermann Göring, gã thường xuyên nhớ lại những ngày hạnh phúc của Thế Chiến thứ I, khi cầm lái chiếc phi cơ hai tầng cánh Fokker D-7 toàn thân sơn trắng bay qua Pháp và Bỉ, giao chiến với bất kỳ tên phi công Đồng minh ngu dại nào trên các bầu trời gần đó (theo xác nhận, hai mươi hai tên đã phải trả giá cho sai lầm bằng mạng sống của chúng, cho dù Göring vẫn tin rằng mình đã giết nhiều hơn thề). Giờ đây, cơ thể gã thậm chí không còn ngồi vừa vào buồng lái chiếc máy bay cũ nữa. Một người đàn ông dành cả đời uống thuốc giảm đau, đắm chìm vào đồ ăn, tiền bạc, nghệ thuật và quyền lực. Nhưng nếu bạn hỏi gã tận trong thâm tâm thì gã là ai, câu trả lời của Göring sẽ là: Một chiến binh.

Và một chiến binh biết cách tốt nhất để biến quốc gia của gã một lần nữa thành đất nước của những chiến binh - bạn phải phô ra sức mạnh của mình. Bạn không thương lượng, không chạy khắp nơi như một thằng nhóc lẩn vào bụi rậm sau kho lúa hút trộm tẩu thuốc của cha - hành vi của Đại tá Reinhard Ernst.

Đàn ông làm việc mà tính như đàn bà. Ngay cả Roehm đồng tính, cầm đầu lực lượng Xung Kích bị Göring và Hitler giết chết hai năm trước, vẫn còn mạnh mẽ chán nếu so với Ernst. Những mối làm ăn bí mật không thân thiết với Krupp, căng thẳng chuyển tài nguyên từ xưởng đóng tàu này sang xưởng đóng tàu khác, ép buộc “quân đội” hiện tại của họ, vốn đã yếu kém, phải dùng súng gỗ và pháo gỗ chia thành nhóm nhỏ trong huấn luyện để không gây sự chú ý. Và một tá chiến thuật mèo khác…

Tại sao lại do dự? Bởi vì Göring tin rằng kẻ trung thành với Quốc Xã chính là nghi phạm. Lãnh tụ và Goring không phải là con nít ba tuổi. Chúng biết số lượng người ủng hộ chúng không phải là nhiều. Bạn có thể thắng được phiếu bầu bằng súng và nắm đấm, nhưng bạn không thể dành được trái tim. Và nhiều trái tim trong nước không dâng hiến cho Chủ nghĩa Phát xít, trong số này có những người quyền cao chức trọng trong các lực lượng vũ trang. Ernst có thể cố tình kéo dài thời gian rất tốt, nhằm ngăn cản Hitler và Göring có được thể chế chúng cực kỳ thèm muốn: một đội quân mạnh mẽ. Có khả năng chính Ernst cũng hy vọng ngồi lên ngai vàng, nếu hai kẻ thống trị này bị hạ bệ.

Nhờ giọng lưỡi dẻo quẹo của hắn, tính cách dễ chịu của hắn, những phương pháp mềm mỏng của hắn, hai Huân chương Chữ Thập Sắt khốn kiếp và hàng tá huy chương khác, Ernst hiện đang hưởng ân huệ của Sói Xám (vì điều đó khiến hắn cảm tưởng mình gần gũi với Lãnh tụ. Göring thích sử dụng biệt danh phụ nữ đôi khi hay dùng để chỉ Hitler, cho dù dĩ nhiên tên Bộ trưởng chỉ dám lẩm bẩm cái tên thân mật này trong những suy nghĩ của gã).

Hãy cứ nhìn cách hắn tấn công Göring hôm qua về vấn đề chiến đấu cơ Me 109 tại Thế vận hội! Tay Bộ trưởng Hàng không đã thức trắng nửa đêm trước, giận điên lên trước màn trao đổi này, không ngừng hình dung cảnh Sói Xám đang hướng cặp mắt xanh về phía Ernst và đồng tình!

Một cơn lửa giận nữa tràn qua người gã. “Chúa trên Thiên đàng!” Göring ném thẳng đĩa mỳ spaghetti xuống sàn. Nó vỡ tan.

Một trong những người phục vụ của gã, cựu chiến binh Thế Chiến thứ I, chạy vào, đứng như hóa đá trên cái chân tàn tật.

“Thưa ngài?”

“Dọn sạch đi!”

“Tôi sẽ đi lấy xô…”

“Ta không bảo lau sàn nhà. Chi nhặt mảnh vỡ thôi. Tối nay sẽ lau sàn.” Nói rồi tên Bộ trưởng cao lớn liếc nhìn chiếc áo sơ mi bóng bẩy của mình, thấy bị dây bẩn cà chua. Cơn giận tăng lên gấp đôi. “Ta cần một áo sơ mi sạch,” gã ngắt lời. “Đĩa đựng thức ăn Trung Quốc quá nhỏ. Dặn đầu bếp tìm đĩa nào khác to hơn đi. Lãnh tụ đã có bộ đĩa Meissen màu trắng và xanh dương rồi. Ta muốn có những chiếc đĩa như thế.”

“Vâng, thưa ngài.” Người đàn ông đang cúi xuống những mảnh vỡ.

‘Không, làm sạch áo sơ mi của ta trước.’

“Vâng, thưa Bộ trưởng Hàng không.” Người đàn ông chạy đi thật nhanh. Lát sau ông ta quay lại, tay mang một áo sơ mi màu xanh dương sẫm treo trên móc.

“Không phải chiếc đó. Lần trước khi ngươi mang đến, ta đã bảo nó khiến ta trông như Mussolini còn gì.”

“Đó là chiếc màu đen, thưa ngài, tôi đã bỏ đi rồi. Cái này màu xanh dương mà.”

“Ta muốn cái áo màu trắng. Lấy áo sơ mi trắng cho ta! Sơ mi lụa!”

Người đàn ông quay đi, rồi trở lại lần nữa mang theo chiếc áo đúng màu.

Một lúc sau, một trong số các sĩ quan phụ tá cấp cao của Göring bước vào phòng.

Bộ trưởng cầm lấy sơ mi rồi gạt qua một bên, gã ngượng ngập về trọng lượng của mình, nên không bao giờ nghĩ đến chuyện thay đồ trước mặt cấp dưới. Gã lại cảm thấy bùng lên cơn giận dữ khác, lần này nhằm vào thể hình mảnh mai của Ernst. Khi người phục vụ đang nhặt những mảnh vỡ đồ sứ, sĩ quan cao cấp của gã nói, “Thưa Bộ trưởng Hàng không, tôi nghĩ chúng ta có tin tốt.”

“Gì thế?”

“Các đặc vụ của chúng ta tại Hamburg đã tìm thấy vài lá thư viết về bà Kleinfeldt. Chúng cho biết rằng bà ta là một người Do Thái.”

“‘Cho biết?’”

“Chứng minh, thưa Bộ trường. Chúng chứng minh điều đó.”

“Thuần à?”

“Dạ không. Là con lai. Nhưng lai theo mẹ. Thế nên không thể tranh cãi được.”

Luật pháp Nuremberg về Quyền Công dân và Chủng tộc ban hành năm ngoái đã tước quyền công dân của người Đức gốc Do Thái, biến họ thành những “đối tượng.” Cũng như hôn nhân, quan hệ tình dục giữa những người Do Thái và Aryan bị xem là vi phạm pháp luật. Luật cũng quy định chính xác ai là một người Do thái trong trường hợp hôn nhân khác chủng tộc do tổ tiên truyền lại. Vói hai ông bà là người Do Thái và hai ông bà không phải là người Do Thái, bà Kleinfeldt là một người mang hai dòng máu.

Điều này không gây nguy hại như nó có thể, nhưng phát hiện này khiến Göring vui sướng, bởi vì người đàn ông là cháu nội của bà Kleinfeldt, Giáo sư-Tiến sĩ Ludwig Keitel là đối tác của Reinhard Ernst trong Nghiên cứu Waltham. Göring vẫn không hiểu cái nghiên cứu bí ẩn này nhằm mục đích gì. Tuy nhiên những sự thật này đủ gây nguy hiểm rồi. Ernst đang làm việc với một người có tổ tiên là người Do Thái và họ đang sử dụng những văn bản của một tên Bác sĩ tâm lý Do Thái tên là Freud. Và nhức nhối nhất là Ernst đã giữ bí mật nghiên cứu này khỏi hai người quan trọng nhất trong chính phủ, chính là gã và Sói Xám.

Göring ngạc nhiên khi Ernst đánh giá gã thấp đến thế. Viên đại tá đã cho rằng Bộ trưởng Hàng không sẽ không nghe trộm điện thoại trong các quán cà phê quanh phố Wilhelm. Chẳng lẽ tên đại diện toàn quyền không biết rằng, trong cái quận sặc mùi hoang tưởng này, chính những cái điện thoại là mỏ vàng lớn nhất? Gã đã có được bản sao nội dung cuộc gọi của Ernst tới Giáo sư-Tiến sĩ Keitel sáng nay, khẩn cấp đề nghị một cuộc gặp.

Chuyện gì xảy ra tại cuộc gặp đó không quan trọng. Điều quan trọng đó là Göring đã biết được tên vị giáo sư, bây giờ lại tìm hiểu được dòng máu Do Thái chảy trong huyết quản ông ta. Hậu quả của tất cả những việc này? Rằng những hậu quả đó phụ thuộc nhiều vào việc Göring muốn chúng như thế nào. Hắn sẽ bị đánh bật khỏi hàng ngũ quan chức cấp cao của Chính phủ, nhưng được giữ lại một chức vụ bợ đỡ nào đó. Phải rồi, vào tuần tới, hắn sẽ may mắn xin được chân chạy đằng sau Bộ trưởng Quốc phòng Von Blomberg, bưng bê va li cho lão hói.

Sự nhiệt tình đã trở lại, Göring uống thêm vài viên thuốc giảm đau, quát gọi thêm một đĩa mỳ spaghetti nữa rồi tự thưởng cho mình vì thành công của trí tò mò, bằng cách hướng sự chú ý về bữa tiệc Thế vận hội. Tự hỏi: Gã có nên xuất hiện trong trang phục một thợ săn Đức không, hay là một tù trưởng Ả Rập, hay Robin Hood, hoàn chỉnh với bộ cung tên và một cánh cung khoác trên vai?

Đôi khi gần như là mình không thể quyết được.

Reggie Morgan lo lắng, “Tôi không có thẩm quyền phê chuẩn 1.000 đô la. Lạy Chúa tôi. Những một ngàn à?”

Họ đang đi bộ qua Tiergarten, qua một tên lính Xung kích đứng trên bục mồ hôi vã ra như tắm. Hắn đang diễn thuyết cho một nhóm ít người bằng giọng khàn khàn. Vài người rõ ràng đang muốn đi chỗ khác, vài người quay lại nhìn với sự khó chịu trong ánh mắt. Nhưng vài người như bị mê hoặc. Paul lại nhớ đến Heinsler trên tàu thủy.

Tao yêu mến Quốc Trưởng và tao sẽ làm bất kỳ điêu gì cho Người và cho Đảng…

“Đe dọa có hiệu quả không?” Morgan hỏi.

“À có. Thực ra tôi nghĩ anh ta tôn trọng tôi nhiều hơn.”

“Và hắn ta có thực sự thu được thông tin hữu ích không?”

“Nếu ai đấy có thể, thì đó là anh ta. Tôi biết kiểu người như anh ta. Thật kinh ngạc khi biết vài người có thể trở nên tháo vát ra sao, khi bạn vung vẩy xấp tiền trước mặt họ.”

“Thế thì để xem chúng tôi có xoay xở được một ít không.”

Họ rời khỏi công viên rẽ về phía Nam tại cổng Brandenburg. Thêm vài khối nhà nữa, họ đi qua một nơi trang trí lộng lẫy. Khi các công tác sửa chữa sau vụ cháy hoàn tất, nơi đây sẽ trở thành Đại Sứ quán Mỹ.

“Nhìn này,” Morgan nói. “Hoành tráng, đúng không? Hoặc sẽ là thế.”

Ngay cả khi tòa nhà này chưa chính thức là Đại Sứ quán Mỹ, một lá cờ Mỹ vẫn cắm trên nóc rủ xuống mặt tiền. Cảnh tượng này khuấy động tâm hồn Paul, khiến gã cảm thấy thật tốt đẹp, dễ chịu hơn nhiều.

Gã nghĩ đến hai tên thanh niên Hitler tại làng Thế vận hội.

Và màu đen… dấu thập ngoặc. Anh sẽ nói là Swatiska… Chà anh biết rồi còn hỏi… Chắc chắn là anh biết…

Morgan rẽ xuống một con ngõ rồi một con ngõ nữa, ngoái nhìn sau lưng rồi mở khóa cửa ra vào. Họ tiến vào trong một tòa nhà yên tĩnh, tối om rồi bước xuống vài hành lang cho đến cho tới một cánh cửa nhỏ cạnh nhà bếp. Họ bước vào trong. Căn phòng sáng lờ mờ, đồ nội thất ít ỏi: một bàn làm việc, vài cái ghế và một cái đài to đến mức Paul chưa từng thấy. Morgan bật đài, những cái ống nóng lên và kêu ro ro.

“Họ bắt được toàn bộ sóng ngắn ở nước ngoài,” Morgan nói, “thế nên chúng ta sẽ truyền thông điệp qua chùm tia vô tuyến đến Amsterdam, rồi London, sau đó được định tuyến qua đường điện thoại đến Mỹ. Phát xít sẽ phải mất một lúc mới lần ra được tần số,” ông ta nói, đeo tai nghe lên, “nhưng chúng có thể gặp may, nên cậu phải giả sử rằng chúng đang nghe trộm. Bất kể cậu muốn nói gì, chỉ được nghĩ trong đầu thôi.”

“Tất nhiên.”

“Chúng ta sẽ phải rời khỏi đây thật nhanh, sẵn sàng chưa?”

Paul gật đầu, đeo tai nghe Morgan đưa cho gã, rồi cắm dây vào ổ cắm ông ta chỉ. Một ngọn đèn màu xanh lá cuối cùng cũng bật lên phía trước thiết bị. Morgan bước đến ô cửa sổ, liếc nhìn ra ngoài con ngõ rồi buông rèm xuống. Ông chỉnh micro gần miệng hơn, nhấn vào một nút trên tay cầm. “Tôi cần kết nối xuyên Đại Tây Dương đến bạn chúng tôi ở phía Nam.” Ông lặp lại câu nói này rồi thả tay khỏi nút truyền, quay sang nói với Paul, “‘Bạn chúng ta ở phía Nam là Bull Gordon’, Washington, cậu biết đấy. ‘Bạn chúng ta ở phía Bắc’ là Thượng Nghị sĩ.”

“Đã nhận,” một giọng trẻ trung cất lên, giọng của Avery. “Chờ một phút. Xin giữ máy. Định vị cuộc gọi.”

“A lô,” Paul nói.

Ngập ngừng một lúc. “Xin chào,” Avery đáp lại. “Cuộc sống của anh thế nào?”

“À, rất tốt. Thật vui khi được nghe giọng cậu.” Paul không tin được anh ta vừa tạm biệt gã mới ngày hôm qua. Cứ tưởng như đã bao nhiêu tháng rồi. “Nửa kia của cậu sao rồi?”

“Đang tránh xa rắc rối.”

“Thật khó tín,” Paul tự hỏi liệu Manielli có đấu võ mồm với tên lính Hà Lan nào không, như cách cậu ta đã mỉa mai hỗn xược tại Mỹ.

“Ở đây anh đang nói ra loa đấy,” giọng tức tối của Manielli vang lên. “Chỉ muốn anh biết vậy thôi.”

Paul phá lên cười.

Tiếp theo là sự im lặng.

“Lúc này là mấy giờ ở Washington?” Paul hỏi Morgan.

“Giờ ăn trưa rồi.”

“Hôm nay là thứ Bảy. Gordon đâu?”

“Chúng ta không phải lo. Họ sẽ tìm được ông ấy.”

Một giọng phụ nữ cất lên, truyền qua tai nghe, “Xin vui lòng đợi một chút. Định vị cuộc gọi.”

Một lúc sau, Paul nghe thấy tiếng điện thoại reo. Rồi một giọng phụ nữ khác trả lời. “A lô?”

Morgan nói, “Xin vui lòng cho gặp chồng bà. Xin lỗi đã quấy rầy bà.”

“Chờ máy.” Như thể bà biết ai là người gọi.

Sau một lúc, Gordon hỏi, “A lô?”

“Là chúng tôi đây, thưa ngài,” Morgan nói.

“Tiếp đi.”

“Thay đổi trong những thu xếp. Chúng tôi phải tiếp cận người địa phương để kiếm thông tin.”

Gordon im lặng một lúc. “Anh ta là ai? Những thuật ngữ chung.”

Morgan ra dấu cho Paul, gã nói. “Anh ta biết một người có thể đưa chúng ta gần đến với khách hàng của chúng ta.”

Morgan gật đầu với sự lựa chọn từ ngữ của gã, rồi nói thêm, “Nhà cung cấp của chúng ta hết hàng rồi.”

Tư lệnh hỏi, “Người này làm việc cho công ty khác à?”

“Không. Làm tự do thôi.”

“Chúng ta có lựa chọn nào khác không?”

Morgan nói, “Lựa chọn khác duy nhất là ngồi đợi, hy vọng vào điều tốt nhất.”

“Cậu tin anh ta?’

Một lúc sau, Paul đáp, “Vâng. Anh ta là một trong chúng ta.”

“Chúng ta?”

“Là tôi,” Paul giải thích. “Anh ta trong đường dây làm ăn với tôi. Chúng tôi, à… đã thu xếp một mức độ tin tưởng nhất định.”

“Có liên quan đến tiền?”

Morgan nói, “Đó là lý do chúng tôi đang gọi. Anh ta muốn rất nhiều tiền. Ngay lập tức.”

“Nhiều là bao nhiêu?”

“1.000. Bằng tiền của ông.”

Ngập ngừng một lúc.-“Đó có thể là vấn đề.”

“Chúng tôi không còn lựa chọn nào,” Paul nóị. “Ông phải lo được.”

“Chúng tôi có thể đưa cậu quay về sớm.”

“Không, ông không muốn làm thế,” Paul mạnh mẽ nói.

Âm thanh từ chiếc radio có thể là do sóng điện từ, hoặc có thể là tiếng thở dài của Bull Gordon.

“Yên tâm đi. Tôi sẽ gọi lại cho cậu ngay khi có thể.”

“Vậy chúng ta có thể có được gì với tiền của tôi?”

“Tôi không biết chi tiết,” Bull Gordon nói chuyện với Cyrus Adam Claybom, người đang trên đầu dây bên kia ở Nevv York. “Họ không thể làm thế này. Lo lắng bị nghe trộm, ông biết đấy. Nhưng rõ ràng quân Phát xít đã cắt hết đường tiếp cận thông tin Schumann cần để tìm ra Ernst. Không nghi ngờ gì nữa.”

Claybom càu nhàu.

Gordon lại thấy ngạc nhiên dễ chịu, cân nhắc đến người ông đang nói chuyện là người giàu nhất đứng thứ tư, hay thứ năm trong nước. (Ông ta vốn được xếp thứ hai, nhưng vì khủng hoảng thị trường chứng khoán, ông ta bị tụt hai bậc.) Tính cách hai người rất khác nhau nhưng họ cùng chia sẻ hai đặc trưng thiết yếu: cả hai cùng chảy trong người dòng máu lính và đều là những người ái quốc. Điều đó xóa nhòa đi khoảng cách về thu nhập và địa vị.

“1.000? Tiền mặt à?”

“Vâng, thưa ngài.”

“Tôi thích tên Schumann đó. Bài bình luận tái tranh cử của hắn khá sắc sảo. FDR run sợ như một con thỏ.” Claybom cười khúc khích. “Cho dù Thượng Nghị sĩ sắp chết điếng luôn.”

“Có vẻ như thế.”

“Được rồi. Tôi sẽ thu xếp tiền.”

“Cảm ơn ngài.”

Claybom đoán ra ngay câu hỏi kế tiếp của Gordon. “Dĩ nhiên, đã là cuối ngày thứ Bảy tại Hun-ville. Và anh ta cần tiền ngay bây giờ, đúng không?”

“Đúng vậy.”

“Chờ chút.”

Mãi ba phút sau, ông trùm tư bản mới quay lại trên đầu dây.

“Bảo họ đến gặp nhân viên ngân hàng tại điểm gặp gỡ như thường lệ tại Berlin. Morgan sẽ biết. Ngân hàng Hàng hải của Mỹ. Số 88 phố Under Den Linden, hay bất kỳ cái tên quái gì cậu gọi. Tôi không bao giờ có thể nhớ nổi.”

“Unter den Linden. Có nghĩa là ‘Dưới bóng Cây Đoạn.”

“Rồi, rồi. Người gác cổng sẽ giữ những kiện hàng.”

“Cảm ơn ngài.”

“Bull này?”

“Vâng, thưa ngài?”

“Chúng ta không có đủ những anh hùng tại đất nước này. Tôi muốn thằng nhóc đó phải trở về nhà lành lặn. Xét đến những tài nguyên của chúng ta…” Những người như Claybom sẽ chẳng bao giờ nói, “tiền của tôi.” Tay thương gia tiếp tục. “Xét đến những tài nguyên của chúng ta, chúng ta có thể làm gì để phát huy những lợi thế?”

Gordon cân nhắc câu hỏi. Chỉ một điều xuất hiện trong tâm trí.

“Cầu nguyện,” ông đáp, ép chặt ống nghe vào giá, tạm dừng một lúc rồi lại nhấc ống nghe.

Little Man: Thằng lùn - ám chỉ Hitler

Tàu General Slocum: Vụ cháy tàu General Slocum vào năm 1904 là thảm họa hàng hải lớn nhất nước Mỹ trong thời bình, đặt dấu chấm hết cho cộng đồng người Đức ở New York. Hon 1.000 người nhập cư Đức đã thiệt mạng trong thảm họa trên nhưng tai nạn thảm khốc đó nhanh chóng đi vào quên lãng.