← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 22

“Hail Hitler,” Paul nói. “Tha lỗi cho tôi nếu quấy rầy ngài, thưa ngài.”

‘Chào,” hắn trả lời gọn lỏn. “Cậu là…?”

‘Tên tôi là Fleischman. Tôi đang đo thảm”

“À, thảm.”

Một bóng người khác liếc vào phòng, một tên lính gác to lớn mặc đồng phục đen. Hắn yêu cầu được xem giấy tờ của Paul, đọc chăm chú rồi quay lại phòng chờ, kéo một cái ghế ra ngồi ngay ngoài cửa.

Ernst hỏi Paul, “Căn phòng của ta ở đây rộng bao nhiêu?”

“8 X 9,5 mét ạ.” Trái tim Paul đang đập thình thịch, gã suýt nữa thì nói là “thước.”

“Ta đã nghĩ nó rộng hơn thế.”

“Ồ, nó rộng hơn, thưa ngài. Ý tôi đang nói đến kích thước thảm. Nói chung với sàn- nhà đẹp như thế này, khách hàng của chúng tôi sẽ muốn đường vân gỗ phải nổi bật.”

Ernst liếc nhìn xuống sàn như thể hắn chưa từng thấy vấn gỗ sồi. Hắn cởi áo khoác treo lên trên bộ vest cạnh bàn làm việc.

Hắn ngả người vào lưng ghế, nhắm mắt lại rồi đưa tay lên dụi mắt. Ngồi thẳng lại trên ghế, hắn lôi ra cặp kính gọng dây và đọc một số tài liệu.

“Chủ nhật mà ngài vẫn làm việc ư?” Paul hỏi.

“Như cậu thôi,” Ernst trả lời với một tiếng cười, không ngẩng mặt lên.

“Lãnh tụ rất nóng lòng muốn hoàn thiện việc nâng cấp cho tòa nhà.”

“Phải, nhất định rồi.”

Khi cúi xuống đo một góc phòng nhỏ thụt vào, Paul liếc nhìn nửa thân người của Ernst. Gã để ý thấy một bàn tay có sẹo, những nếp nhăn quanh khóe miệng, đôi mắt đỏ ngầu, dấu hiệu đặc trưng của một người có trăm ngàn ý tưởng đang hình thành trong tâm trí, người đang gánh trên vai nghìn gánh nặng.

Một tiếng cót két khá yếu vang lên khi Ernst xoay ghế lại nhìn ra cửa sổ, bỏ kính xuống. Dường như toàn thân hắn thèm khát được tắm trong chùm ánh nắng chói lọi và hơi nóng của mặt trời với niềm khoái cảm, nhưng kèm theo đó là dấu hiệu của tiếc nuối. Như thể hắn là một kẻ hướng ngoại đang buồn phiền khi phải nhốt mình trong căn phòng làm việc.

“Cậu làm công việc này được bao lâu rồi, Fleischman?” hắn hỏi mà không quay người lại.

Paul đứng dậy, ép chặt cuốn sổ tay vào một bên người. “Trọn đời tôi, thưa ngài. Kể từ Thế Chiến thứ I.”

Ernst tiếp tục đắm mình trong ánh nắng, khẽ ngửa đầu ra sau, hai mắt nhắm nghiền. Paul lặng lẽ bước đến lò sưởi. Nằm trên đó là chiếc lưỡi lê dài. Nó đen thui, rõ ràng dạo gần đây không được đánh bóng, nhưng vẫn hoàn toàn có thể gây chết người.

“Cậu thích nó không?” Ernst hỏi.

“Nó hợp với tôi.”

Gã có thể chụp lấy thứ vũ khí ghê tởm này, bước đến sau lưng Ernst chỉ trong một giây và giết hắn nhanh gọn. Gã đã từng giết người bằng dao găm. Dùng dao không giống như đánh kiếm trong phim của Douglas Fairbanks. Con dao chỉ đơn thuần là sự nâng cấp chết người từ nắm đấm. Một võ sĩ giỏi là một kẻ dùng dao giỏi.

Chạm vào đá…

Nhưng còn tên lính canh ngoài cửa thì tính sao? Tên đó cũng sẽ phải chết. Nhưng Paul chưa từng giết vệ sĩ của kẻ bị hóa kiếp. Thậm chí, gã chưa từng khiến hắn phải tham gia vào tình huống có thể hắn phải tham gia. Gã có thể giết Ernst bằng một con dao, sau đó hạ gục tên lính gác bên ngoài. Nhưng với tất cả những tên lính khác xung quanh, ai đó có thể nghe thấy những âm thanh náo động và chúng sẽ bắt lấy gã. Thêm nữa, cấp trên của gã chắc chắn muốn cái chết này phải được công khai.

“Nó hợp với cậu,” Ernst nhắc lại. “Một cuộc đời đơn giản, không có xung đột, không có những lựa chọn khó khăn.”

Điện thoại reo vang. Ernst nhấc ống nghe. “A lô… Vâng, Ludwig à, cuộc gặp gỡ có lợi cho chúng ta… Rồi, rồi… Bây giờ ông có tìm được người tình nguyện không? Chà, tốt… Nhưng có lẽ thêm hai, ba người nữa đi… Vâng, tôi sẽ gặp ông tại đó. Chào.”

Ernst, gác máy liếc nhìn Paul rồi bước đến lò sưởi. “Một số vật lưu niệm của ta. Cả cuộc đời mình, ta quen biết những người lính và tất cả bọn họ biến thành những đàn chuột hồi ức như thế này. Ở nhà ta còn nhiều nữa. Lưu giữ các kỷ vật của những sự kiện kinh hoàng này chẳng phải lạ lùng sao? Đôi khi ta thấy mình thật điên rồ.” Hắn nhìn chiếc đồng hồ trên bàn làm việc. “Cậu xong việc chưa, Fleischman?”

“Vâng, tôi xong rồi, thưa ngài.”

“Ta phải làm vài việc riêng tư chút.”

“Cảm ơn ngài đã cho phép tôi vào đây, thưa ngài. Hail Hitler.”

“Fleischman?”

Paul quay người lại trên ngưỡng cửa.

“Cậu là một người may mắn khi công việc cậu làm thích hợp với hoàn cảnh và bản chất của cậu. Điều đó thật hiếm hoi.”

“Tôi cho là vậy, thưa ngài. Chúc ngài một ngày tốt lành.”

“Chào cậu.”

Ra ngoài, bước chân vào tiền sảnh.

Với khuôn mặt và giọng nói của Ernst cháy bỏng trong tâm trí, Paul bước xuống cầu thang, mắt nhìn thẳng phía trước, di chuyển chậm rãi, đường hoàng bước đi giữa những tên lính ở đây, mặc đồng phục đen hoặc xám, hay những người lao động mặc quần áo thường hoặc áo liền quần. Và đi đến đâu những cặp mắt nghiêm nghị, không có chiều sâu cũng nhìn xuống gã trừng trừng từ những bức vẽ trên tường: bộ ba bức vẽ với những cái tên được khắc trên các tấm biển bằng đồng: A. Hitler, H. Gỏring và p. J. Goebbels.

Xuống đến tầng trệt, gã quay về phía cửa trước rực nắng mở ra Phố Wilhelm, những tiếng bước chân dội lại inh ỏi. Webber trang bị cho gã đôi ủng dùng rồi, một sự bổ sung tốt cho trang phục, ngoại trừ việc một cái đinh đầu to đã xuyên thủng lớp da. Paul có khéo léo đến mấy nó vẫn nện cồm cộp theo mỗi bước chân.

Gã còn cách cái cửa 15 mét, ánh mặt trời bừng sáng bao quanh nó là một vầng hào quang.

12 mét.

Cộp, cộp, cộp.

6 mét.

Giờ gã có thể thấy được bên ngoài rồi, những chiếc xe đang đi lướt qua trên phố.

3 mét…

Cộp… cộp…

“Tên kia! Tên kia, đứng lại.”

Paul lạnh người. Quay lại, gã thấy một tên mặc đồng phục xám đang rảo bước đến chỗ mình.

“Mày vừa xuống cầu thang kia. Mày đã ở đâu?”

“Tôi chỉ…”

“Cho tao xem giấy tờ của mày.”

“Tôi đang đi đo thảm, thưa ngài,” Paul nói, lôi ra các giấy tờ của Webber trong túi áo.

Tên SS liếc qua chúng thật nhanh, đối chiếu bức ảnh và đọc phiếu yêu cầu công việc. Hắn cầm lấy thước đo từ tay Paul như thể là một món vũ khí.

Hắn đưa trả lại phiếu yêu cầu công việc rồi ngước mắt lên. “Giấy phép đặc biệt của mày đâu?”

“Giấy phép đặc biệt? Có ai bảo tôi phải có giấy phép đặc biệt đâu.”

“Để lên được trên gác thì mày phải có.”

“Cấp trên của tôi chẳng nói cho tôi biết.”

“Chúng tao không quan tâm chuyện đó. Ai muốn tiếp cận các tầng cao hơn thì phải có giấy phép đặc biệt. Thẻ Đảng của mày đâu?”

“Tôi… Tôi không mang theo người.”

“Mày không phải là Đảng viên à?”

“Dĩ nhiên, thưa ngài. Tôi là một Đảng viên Quốc Xã trung thành, tin tôi đi.”

“Nếu không mang theo thẻ thì mày không phải là Đảng viên Quốc Xã trung thành.” Tên sĩ quan khám người gã, lật qua cuốn sổ tay, liếc nhìn các bản phác thảo những căn phòng và kích thước. Hắn lắc đầu.

Paul nói, “Trong tuần này, tôi sẽ quay lại đây, thưa ngài. Tôi có thể mang cho ngài một giấy phép đặc biệt và thẻ Đảng vào lúc đó.” Gã nói thêm. “Và đến lúc đó, tôi có thể đo thảm cho cả văn phòng của ngài luôn.”

“Văn phòng tao nằm dưới tầng trệt, ở phía sau - khu vực không nằm trong kế hoạch nâng cấp,” tên sĩ quan SS chua chát nói.

“Lại càng thêm lý do phải sắm thảm Ba Tư xịn. Thứ này chúng tôi vô tình có vài loại nhiều hơn số lượng được phân phối. Để chúng mốc lên trong kho thì cũng không tốt.”

Tên lính cân nhắc điều này, rồi hắn liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Tao không có thời gian theo đuổi vấn đề này. Tao là Phó Chỉ huy An ninh Schechter. Mày sẽ tìm được văn phòng của tao dưới cầu thang về bên phải. Tên tao viết trên cửa. Giờ mày đi được rồi. Nhưng khi quay lại, mày phải có giấy phép đặc biệt, nếu không phố Prince Albrecht sẽ chào đón mày đó.”

Khi ba người đàn ông phóng xe ra khỏi Quảng trường Wilhelm, một tiếng còi vang lên gần đó. Paul và Reggie Morgan khó chịu nhìn ra cửa kính xe tải bốc mùi bắp cải cháy và mồ hôi.

Webber phá lên cười. “Còi xe cứu thương thôi. Thoải mái đi.” Một lúc sau, chiếc xe cứu thương ngoặt ở góc phố. “Tôi biết hết âm thanh của đủ các loại xe chính thức. Một kiến thức cần biết tại Berlin ngày nay.”

Một lúc sau nữa Paul lặng lẽ nói, “Tôi đã gặp hắn.”

“Gặp ai?” Morgan hỏi.

“Ernst.”

Morgan trố mắt. “Hắn ở đó à?”

“Hắn vào văn phòng ngay sau khi tôi tới đó.”

“Chà, chúng ta làm gì đây?” Webber nói. “Chúng ta không thể quay vào Phủ Thủ tướng nữa. Làm sao chúng ta biết hắn sẽ ở đâu?”

“Ồ, điều đó tôi tìm ra rồi,” Paul đáp.

“Tìm được rồi à?” Morgan hỏi.

“Tôi đã có thời gian xem xét bàn làm việc của hắn trước khi hắn đến. Hôm nay hắn sẽ đến Sân vận động.”

“Sân nào?” Morgan hỏi. “Có đến hàng tá sân trong thành phố.”

“Thế vận hội. Tôi đã xem một bản ghi nhớ. Hitler sẽ chụp ảnh các quan chức Đảng cao cấp tại đó chiều hôm nay.” Gã liếc nhìn một tháp đồng hồ gần đó. “Nhưng chúng ta chỉ còn vài giờ nữa để đưa tôi đến đó. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ lại cần sự giúp đỡ của anh đấy, Otto.”

“Chà, tôi có thể đưa cậu đến bất kỳ chỗ nào cậu muốn, John Dillinger. Tôi tạo nên những điều kỳ diệu… và cậu trả tiền cho nó. Đó là lý do tại sao chúng ta là những đối tác tốt, dĩ nhiên. Và nói về chuyện này, khoản tiền mặt đô la Mỹ của tôi, làm ơn.” Anh ta sang số chiếc xe tải gầm rú. Tay phải chìa ra, lòng bàn tay ngửa lên cho đến khi Morgan thả vào đó chiếc phong bì.

Một lúc sau, Paul để ý thấy Morgan đang dò xét mình. Ông ta hỏi, “Trông Ernst thế nào? Hắn có vẻ giống một kẻ nguy hiểm nhất châu Âu không?”

“Hắn lịch sự, lo lắng, mệt mỏi. Và u buồn.”

“Buồn?” Webber hỏi.

Paul gật đầu, nhớ lại đôi mắt linh hoạt nhưng trĩu nặng của hắn, đôi mắt của ai đó đang đợi chờ những thử thách gian nan chóng kết thúc.

Mặt trời cuối cùng cũng lặn…

Morgan liếc nhìn những cửa hàng, tòa nhà và cờ quạt trên đại lộ rộng trên phố Under the Lindens. Ông hỏi, “Có thành vấn đề không?”

“Vấn đề?”

“Việc chạm trán hắn có khiến cậu ngần ngừ… làm cái việc cậu tới đây làm không? Có tạo ra sự khác biệt không?”

Paul Schumann muốn thề với Chúa rằng gã đang cảm thấy thế. Việc chạm trán một người gần đến thế, nói chuyện với hắn sẽ làm tan chảy lớp băng giá, sẽ khiến gã ngần ngại lấy mạng hắn. nhưng gã trả lời trung thực. “Không. Sẽ không có sự khác biệt nào hết.”

Họ nhễ nhại mồ hôi vì nóng, Kurt Fischer thậm chí còn toát mồ hôi vì sợ.

Hai anh em chỉ còn cách quảng trường, nơi họ phải gặp Unger hai khối nhà. Ông ta sẽ đưa linh hồn họ rời khỏi đất nước đang chết dần, đoàn tụ với cha mẹ.

Người đàn ông họ tin tưởng bằng cả mạng sống.

Hans cúi người xuống nhặt một viên đá ném ngang trên mặt nước kênh Landwehr.

“Đừng!” Kurt thì thầm qua kẽ răng. “Đừng gây sự chú ý.”

“Thư giãn đi, anh trai. Ném đá chẳng làm người ta chú ý đâu. Ai chẳng làm thế. Trời ạ, nóng quá. Chúng ta dừng lại làm cốc bia gừng được không?”

“Trời, mày tưởng bọn mình đang đi nghỉ?” Kurt liếc nhìn xung quanh. Không có nhiều người ra ngoài vào giờ này. Vẫn còn sớm, nhưng trời đã nóng như thiêu.

“Xem ai đi theo chúng ta không?” em trai anh hỏi với một chút mỉa mai.

“Mày có muốn ở lại Berlin không? Đã cân nhắc hết chưa?”

“Tất cả những gì em biết đó là chúng ta bỏ nhà bỏ cửa, và sẽ không thấy lại nữa.”

“Nếu chúng ta không bỏ đi thì sẽ không bao giờ gặp lại bố mẹ nữa. Có thể sẽ chẳng bao giờ gặp lại bất cứ ai nữa.”

Hans cau có, nhặt lên một viên đá nữa. Lần này cậu ném viên đá nảy ba lần. “Nhìn này! Anh thấy chưa?”

“Nhanh lên.”

Hai anh em rẽ vào một phố chợ, nơi những quầy hàng đang được dựng lên. Có một số xe tải đỗ trên các phố và via hè. Các xe chất đầy củ cải, củ cải đỏ, táo, khoai tây, cá hồi kênh đào, cá chép và dầu gan cá tuyết. Dĩ nhiên không hề có những mặt hàng thiết yếu nhất như thịt, dầu ô liu, bơ và đường. Dù thế, nhiều người đang xếp hàng để mua được những món hàng - ngon nhất - hoặc không quá chán.

“Nhìn xem, ông ấy kia rồi,” Kurt nói, băng qua đường tiến đến một xe tải cũ đỗ đối diện quảng trường. Một người đàn ông với mái tóc quăn màu nâu đứng tựa vào xe tải, hút thuốc khi xem qua một tờ báo. Ông ta ngước mắt lên, trông thấy hai chàng trai và khẽ gật đầu, ném tờ báo vào buồng lái.

Khi vấn đề là niêm tin…

Và đôi khi bạn không thất vọng. Kurt đã nghi ngờ rằng ông ta dám xuất hiện.

“Bác Unger!” Kurt nói khi đến gần ông ta. Họ nồng nhiệt bắt tay nhau. “Đây là em trai cháu, Hans.”

“Chà, cháu trông giống hệt bố.”

“Bác bán sô-cô-la à?” chàng trai hỏi, mắt vẫn nhìn xe tải.

“Bác sản xuất và bán kẹo. Bác là giáo sư, nhưng đó không còn là công việc sinh lời nữa. Học tập thì không thường xuyên nhưng ăn kẹo thì liên tục, chưa nói đến chuyện nó an toàn về mặt chính trị. Chúng ta có thể nói chuyện sau. Bây giờ, chúng ta phải ra khỏi Berlin đã. Các cháu có thể ngồi trong buồng lái với bác cho đến khi tới gần biên giới. Sau đó, hai cháu sẽ ngồi vào một chỗ nào đó ở phía sau. Bác thường dùng đá để bảo quản sô-cô-la không bị chảy vào những ngày nóng thế này, các cháu sẽ nằm dưới những tấm bìa bao xung quanh là đá. Yên tâm đi, hai đứa sẽ không bị lanh cóng đến chết đâu. Bác đã đục mấy cái lỗ bên hông xe tải cho hơi nóng tràn vào rồi. Chúng ta sẽ băng qua biên giới như tuần nào bác cũng làm. Bác quen biết bọn lính gác, thường cho chúng sô-cô-la. Bọn chúng không bao giờ khám xét bác.”

Unger bước ra phía sau xe tải, đóng cửa lại.

Hans trèo vào trong buồng lái, cầm tờ báo lên rồi bắt đầu đọc. Kurt quay người lại, đưa tay lên lau mày, rồi nhìn lại lần cuối cùng thành phố anh đã sống gần trọn cuộc đời. Trong cái nóng và làn sương mù như ở nước Ý, anh nhớ đến chuyến đi tới Bologna với bố mẹ, khi bố anh có đợt giảng dạy hai tuần tại một trường đại học lâu đời ở đó.

Tay thanh niên vừa định quay lại trèo vào buồng lái cùng em trai, thì cả đám đông cùng há hốc mồm kinh ngạc.

Kurt lạnh người, trợn mắt nhìn.

Ba chiếc xe màu đen phanh kít lại quanh xe tải của Unger. Sáu tên nhảy xuống, mặc đồng phục đen của SS.

Không!

“Hans, chạy đi!” Kurt hét lên.

Nhưng hai tên lính SS đã lao đến ghế hành khách trên xe. Chúng mở tung cửa, lôi cậu em trai anh xuống phố. Thằng bé kháng cự lại cho đến khi bị một tên đánh vào bụng bằng dùi cui. Hans kêu lên the thé và ngừng chống cự, lăn tròn trên mặt đất, tay túm chặt lấy bụng. Mấy tên lính kéo cậu ta đứng dậy. “Không, không, không!” Unger gào lên. Cả ông ta lẫn Kurt đều bị xô mạnh vào một bên xe tải.

“Giấy tờ đâu! Chúng mày lộn túi ra.”

Ba kẻ bị bắt liền làm theo.

“Bọn trẻ nhà Fischers,” tên tư lệnh SS nói khi nhìn qua các chứng minh thư của họ, gật đầu xác nhận.

Hai má giàn giụa nước mắt, Unger nói với Kurt. “Bác không phản bội hai đứa. Bác thề bác không làm thế!”

“Hắn không làm đâu,” tên sĩ quan SS nói, rút khẩu Luger ra khỏi bao, tháo chốt an toàn rồi bắn vào đầu ông ta. Unger gục xuống mặt đường, Kurt thở hổn hển vì khiếp đảm. “Bà ta làm đấy,” tên SS nói thêm, hất đầu về phía mụ đàn bà to béo, tuổi trung niên đang thò đầu ra từ cửa kính xe SS.

Giọng của mụ chất đầy nỗi giận dữ, rủa xả hai chàng trai. “Bọn phản bội! Đồ con lợn!”

Chính là mụ Lutz, góa phụ thời chiến sống cùng tầng chung cư với họ, người phụ nữ vừa mới chúc họ một ngày tốt lành!

Choáng váng, nhìn trừng trừng cái xác mềm oặt của Unger, máu vẫn đang chảy ra xối xả, Kurt nghe thấy tiếng thét không kịp thở của mụ, “Lũ lợn ăn cháo đá bát. Tao đã theo dõi chúng mày. Tao biết bọn mày đã làm gì, tao biết đứa nào đã đến căn hộ của bọn mày. Tao đã viết lại những gì tao thấy. Bọn mày đã phản bộ Lãnh tụ của chúng tao!”

Tên tư lệnh SS nhăn mặt giận dữ với mụ ta. Hắn hất hàm lệnh cho tên sĩ quan trẻ hơn buộc mụ ta vào xe.

“Cả hai đứa chúng mày đã vào danh sách một thời gian rồi.”

“Chúng tôi chẳng làm gì cả!“Kurt nhìn trừng trừng bãi máu của Unger, không thể rời ánh mắt khỏi bể máu đỏ ối, thì thầm, “Chẳng làm gì cả. Tôi thề. Chúng tôi chỉ đang cố gắng về bên bố mẹ chúng tôi.”

“Trốn khỏi đất nước bất hợp pháp, chủ nghĩa yêu hòa bình, các hoạt động chống phá Đảng… toàn là các tội nghiêm trọng.” Hắn kéo Hans lại gần hơn, dí khẩu súng ngắn vào đầu cậu tạ. Cậu ta khóc thút thít. “Xin đừng, làm ơn!…”

Kurt bước lên phía trước thật nhanh. Một tên lính đấm mạnh vào bụng, anh gập người lại. Anh trông thấy tên tư lệnh dí khẩu súng vào gáy cậu em trai.

“Không!”

Tên tư lệnh liếc mắt, ngả người về phía sau để tránh máu và thịt bắn vào người.

“Xin ngài!”

Nhưng một tên sĩ quan khác thì thầm,“Chúng ta có lệnh, thưa ngài. Trong thời gian Thế vận hội phải kiềm chế.” Hắn hất đầu về phía chợ, nơi một đám đông đã tụ tập đứng xem.

“Những người nước ngoài có thể ở đây, có lẽ cả phóng viên nữa.”

Ngần ngừ một lúc lâu, tên tư lệnh nóng ruột làu bàu. “Được rồi. Mang chúng đến Columbia House.”

Cho dù đang từng bước được hủy bỏ để xây dựng trại Oranienburg kín đáo hơn và hiệu quả tàn bạo cao hơn, Columbia House vẫn là nhà giam khét tiếng nhất Berlin.

Hắn hất hàm về phía xác Unger. “Chôn chỗ nào đó đi. Tìm hiểu xem hắn có vợ không, nếu có, gửi cho mụ ta áo sơ mi thấm máu hắn.”

“Rõ, thưa chỉ huy. Với thông điệp gì ạ?”

“Cái áo sơ mi chính là thông điệp.” Tên tư lệnh cất súng vào bao rồi quay lại xe. Hắn thoáng liếc nhìn hai anh em Fischer, nhưng đôi mắt hắn không thực sự nhìn họ, như thể họ đã chết.

“Mày ở đâu thế, Paul Schumann?”

Giống như câu hỏi của ông hôm qua dành cho nghi phạm lúc đó còn nặc danh - Mày là ai? - Willi Kohl hét to và trong cơn phẫn nộ, không hy vọng sẽ có được ngay câu trả lời. Viên thanh tra đã nghĩ rằng việc biết được tên hắn sẽ giúp đẩy nhanh tốc độ vụ này. Nhưng không phải.

Kohl không nhận được câu trả lời nào cho các bức điện tín gửi đến Cục Điều tra Liên bang Mỹ, cũng như ủy ban Olympic Quốc tế. Có chăng là câu trả lời ngắn ngủi của Sở Cảnh sát Thành phố New York nói rằng họ sẽ chi xem xét vấn đề này “khi thích hợp”.

Kohl không quen với từ này, nhưng khi tra trong từ điển Anh - Đức của phòng, một cục tức dâng đầy mặt ông. Suốt năm qua, ông đã cảm thấy sự miễn cưỡng từ phía các nhà thi hành luật pháp Mỹ khi cộng tác với Cảnh sát Hình sự Đức. Một phần nguyên nhân do mối ác cảm dành cho Quốc Xã tại Mỹ. Ông tin rằng một phần nữa có thể bắt nguồn từ vụ bắt cóc đứa bé tên Lindbergh. Bruno Hauptmann đã thoát khỏi nơi giam giữ của Cảnh sát tại Đức, sau đó trốn sang Mỹ, nơi hắn sát hại đứa trẻ.

Kohl đã gửi bức điện tín ngắn thứ hai bằng thứ tiếng Anh vụng về của ông, cảm ơn NYPD và nhắc họ về tính khẩn cấp của vấn đề. Ông cảnh báo các lính gác vùng biên giữ Schumann lại nếu gã cố gắng bỏ trốn, nhưng lời cảnh báo chỉ tới được những điểm giao nhau chính.

Chuyến đi thứ hai của Janssen đến làng Thế vận hội cũng không thành công. Paul Schumann không có mối liên hệ chính thức nào với đội tuyển Mỹ. Hắn phải đến Berlin với tư cách một ký giả tự do. Hắn rời khỏi làng Thế vận hội một ngày trước đấy và không ai còn trông thấy hắn kể từ đó, cũng như không ai biết hắn có thể đi đâu. Cái tên Schumann không nằm trong danh sách khách hàng mua đạn Largo hoặc súng Modelo A gần đây. Nhưng điều này không gây ngạc nhiên, vì hắn chỉ đến cùng đội tuyển vào ngày thứ Sáu.

Ngồi đu đưa trên ghế nhìn qua hộp đựng vật chứng, đọc lại những ghi chép bằng bút chì… Kohl ngước mắt lên, thấy Janssen dừng lại ở ngưỡng cửa đang nói chuyện với mấy trợ lý thanh tra trẻ tuổi mặc thường phục khác và các thanh tra học việc.

Kohl nhíu mày trước tiếng nói chuyện bên ly cà phê.

Các sĩ quan trẻ hơn nhìn họ kính nể.

“Hail Hitler.”

“Chào, Thanh tra Kohl.”

“Chào, chào.”

“Chúng tôi đang định đi nghe diễn thuyết. Ông có đi không?”

“Không,” Kohl làu bàu. “Tôi đang làm việc.” Kể từ khi Đảng lên nắm quyền năm 1933, những cuộc nói chuyện dài một tiếng về Chủ nghĩa Phát xít được tổ chức đều đặn tại hội trường chính của Alex. Tất cả các sĩ quan Cảnh sát Hình sự đều phải tham dự. Willi Kohl lãnh đạm hiếm khi có mặt. Buổi nói chuyện cuối cùng ông tham dự đã từ hai năm trước có tựa đề “Hitler, Chủ nghĩa Đạo đức và gốc rễ của thay đổi xã hội căn bản.” Và ông đã ngủ gật.

“Đích thân Lãnh tụ Heydrich có thể xuất hiện đấy.”

“Chưa chắc mà,” một người khác nhiệt tình đế thêm. “Nhưng có thể. Các cậu tưởng tượng được không? Chúng ta có thể được bắt tay ông ấy!”

“Như đã nói, tôi đang làm việc,” Kohl nhìn lướt qua những khuôn mặt trẻ trung, hăng hái của họ. “Cậu có gì rồi, Janssen?”

“Chúc một ngày tốt lành, Thanh tra,” một sĩ quan trẻ hồ hời nói. Họ quay gót, ầm ĩ đi xuống sảnh.

Kohl vẫn nhíu mày nhìn Janssen đang nhăn nhó. “Xin lỗi sếp. Đôi khi các cậu ấy tự dính với tôi vì tôi dính với…”

“Tôi à?”

“Vâng, thưa sếp.”

Kohl hất đầu về phía họ, lên tiếng hỏi. “Chúng nó là thành viên à?”

“Của Đảng á? Vâng, vài người.”

Trước khi Hitler lên nắm quyền, theo luật một sĩ quan cảnh sát không được phép là Đảng viên một đảng chính trị. Kohl nói, “Đừng có bị quyến rũ mà hùa theo đấy, Janssen. Cậu nghĩ nó sẽ giúp cho sự nghiệp của cậu nhưng không phải đâu. Sẽ chỉ khiến cậu càng bế tắc hơn trong tấm lưới nhện mà thôi.”

“Vũng bùn đạo đức,” Janssen trích lại câu nói của sếp.

“Đúng thế.”

“Mà tôi có khả năng tham gia hay sao?” cậu ta nghiêm nghị hỏi, trên môi nở nụ cười hiếm hoi. “Làm việc với ngài khiến tôi chẳng có thời gian đi họp nữa.”

Kohl cười đáp lại rồi hỏi, “Giờ thì cậu có gì rồi?”

“Xét nghiệm pháp y vụ ngõ Dresden.”

“Đã đến lúc.” Hai mươi bốn giờ tiến hành xét nghiệm một cái xác. Không thể tha thứ được.

Cậu thanh tra học việc trao cho sếp một tập hồ sơ mỏng chỉ gồm hai trang.

“Cái gì đây? Tên điều tra cái chết bất thường đó vừa xét nghiệm vừa ngủ à?”

“Tôi…”

“Thôi quên đi,” Kohl làu bàu rồi đọc qua tài liệu. Dĩ nhiên như mọi hồ sơ xét nghiệm pháp y khác luôn làm, hồ sơ này viết bằng thứ ngôn ngữ rõ ràng, dày đặc về sinh lý học và hình thái học, nguyên nhân chết là do chấn thương nghiêm trọng trong não do đường đạn đi qua. Không có bệnh tật về tình dục, có một chút dấu hiệu bệnh gút, một chút bệnh viêm khớp và không có vết thương do chiến tranh gây ra. Nạn nhân và Kohl cùng mang những nốt viêm tấy ở kẽ ngón chân cái, những vết chai trên bàn chân nạn nhân cho thấy rằng ông ta thực sự là người đi bộ hăng hái.

Janssen nhìn qua vai Kohl. “Nhìn này sếp, ông ta có một ngón tay gẫy hình dạng xấu lắm.”

“Chúng ta không quan tâm chuyện đó, Janssen. Đó là ngón tay út hay bị gẫy trong nhiều hoàn cảnh, không phải là hậu quả do chấn thương đặc biệt có thể giúp chúng ta hiểu rõ ông ta hơn. Nếu ngón tay mới bị gãy thì có thể có ích - chúng ta có thể gọi cho các Bác sĩ ở Tây nam Berlin để tìm đầu mối liên quan đến bệnh nhân - nhưng vết này thì cũ rồi.” Ông quay lại với báo cáo.

Lượng cồn trong máu ông ta cho thấy rằng ông ta uống rượu không lâu trước khi chết. Thành phần thức ăn trong dạ dày gồm gà, tỏi, thảo dược, hành, cà rốt, khoai tây, một loại nước súp màu hơi đỏ và cà phê. Dựa vào mức độ tiêu hoá có thể thấy rằng nạn nhân đã thưởng thức bữa ăn chừng nửa tiếng trước khi chết.

“À,” Kohl rạng rỡ, ghi lại tất cả các thông tin này bằng bút chì vào cuốn sổ tay bé xíu, rách nát của ông.

“Chuyện gì vậy sếp?”

“Đây mới là thứ khiến chúng ta quan tâm này, Janssen. Trong khi chúng ta không thể lạc quan, có vẻ như nạn nhân đã chén một suất ngon trong bữa ăn cuối cùng. Có khả năng là món thịt gà hầm với rượu vang đỏ, một món hảo hạng của Pháp gồm có gà ăn với một loại rượu không chắc có phải vang đỏ không. Thông thường là rượu Burgundy như Chambertin. Chúng ta không thường xuyên trông thấy nó, Janssen. Cậu biết tại sao không? Bởi vì những người Đức làm vang đỏ rất kém, còn người Úc làm vang đỏ tuyệt vời nhưng không gửi nhiều sang cho chúng ta. Đúng rồi, điều này hay đấy.” Ông suy nghĩ một lúc rồi đứng dậy, bước đến chỗ tấm bản đồ Berlin heo trên tường. Tìm thấy một cái ghim, ông gắn nó vào ngõ Dresden. “Ông ta chết ở đây vào buổi trưa trước khi ăn trưa tại một nhà hàng 30 phút trước đó. Cậu nên nhớ ông ta là người hay đi bộ, Janssen, những cơ bắp trên chân ông ta từng khiến tôi xấu hổ, cả những vết chai nữa. Vì thế trong khi ông ta có thể đã bắt taxi, hoặc tàu điện ngầm đến với cuộc gặp gỡ chết người, chúng ta giả sử rằng ông ta đã đi bộ. Cứ du di cho ông ta thêm vài phút hút thuốc sau khi ăn xong… cậu còn nhớ những đầu ngón tay vàng khè của ông ta không?”

“Không hẳn, thưa sếp.”

“Phải chịu khó quan sát hơn đi. Trừ thời gian ông ta hút thuốc, thanh toán rồi uống nốt cốc cà phê, chúng ta sẽ giả sử rằng ông ta đi bộ với đôi chân khỏe mạnh trong 20 phút, trước khi đến ngõ Dresden. Trong thời gian đó, người đi bộ nhanh nhẹn này sẽ đi được bao xa?”

“Tôi sẽ đoán là cây số rưỡi.”

Kohl nhíu mày. “Tôi cũng đoán vậy.” Ông xem xét ghi chú trên bản đồ Berlin, vẽ một hình tròn quanh địa điểm vụ giết người.

Janssen lắc đầu. “Nhìn xem. Nó quá rộng. Chúng ta cần mang ảnh nạn nhân đến mọi nhà hàng nằm trong vòng tròn đó?”

“Không, chỉ những nhà hàng nào phục vụ món thịt gà hầm với rượu vang đỏ vào giờ ăn trưa ngày thứ Bảy. Liếc nhanh qua giờ giấc phục vụ và menu trước mặt, sẽ cho chúng ta biết liệu chúng ta có cần điều tra không. Nhưng đó vẫn sẽ là một nhiệm vụ khó khăn và là nhiệm vụ phải được thực hiện ngay lập tức.”

Cậu sĩ quan trẻ nhìn bản đồ trừng trừng. “Tùy thuộc vào tôi và sếp đúng không? Chúng ta có thể đến thăm tất cả các nhà hàng này không? Làm sao được chứ?” Cậu ta lắc đầu, chán nản.

“Dĩ nhiên chúng ta không thể.”

“Vậy thì sao?”

Willi Kohl ngồi xuống ghế, liếc mắt nhìn khắp căn phòng, đôi khi dừng lại trên bàn làm việc. Rồi ông đáp, “Cậu ở đây chờ các bức điện tín hay các tin nhắn khác về vụ án nhé, Janssen.” Kohl nhấc chiếc mũ Panama treo trên móc trong góc văn phòng. “Còn tôi thì tôi có một ý tưởng.”

“Sếp sẽ đi đâu?”

“Đi theo dấu chú gà trống Gaulois.”