← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 24

Gã gõ cửa, cô mở khóa cho gã vào phòng mình.

Käthe dường như xấu hổ với không gian sống trong căn nhà trọ. Những bức tường tróc lở, không có cây cối, đồ nội thất ọp ẹp, hoặc cô hoặc ông chủ nhà đã dọn hết những món đồ còn tốt vào các phòng cho thuê. Cũng như chẳng còn đồ đạc cá nhân nào cả. Có thể cô đã đem hết tài sản của mình đi cầm. Ánh mặt trời chiếu lên tấm thảm phai màu, tấm thảm cũng chỉ còn là một hình thang nhỏ nhoi, cô độc và nhợt nhạt, ánh nắng được phản chiếu từ ô cửa sổ đối diện con ngõ.

Thế rồi cô phá lên cười rất nữ tính, vòng tay ôm choàng lấy gã. Cô hôn gã thật sâu. “Người anh có mùi khác lắm. Em thích thế.” Cô ngửi ngửi trên mặt gã.

“Kem cạo râu à?”

“Có lẽ thế, đúng rồi.”

Gã có dùng một ít kem tìm thấy trong nhà vệ sinh của Đức, thay vì dùng thưong hiệu Burma quen thuộc. Gã sợ tên lính gác có thể nghi ngờ, nếu hắn ngửi thấy mùi kem cạo râu xa lạ của Mỹ.

“Đẹp lắm.”

Gã thấy một chiếc va li nằm trên giường. Cuốn sách Goethe nằm trên mặt bàn mòn xơ bên cạnh là một cốc cà phê pha loãng. Có thứ gì đó trăng trắng đang nổi trên bề mặt, gã hỏi cô có phải đây là sữa vắt từ bò Hitler ra không.

Cô phá lên cười bảo rằng Quốc Xã nuôi nhiều lừa lắm, nhưng theo cô biết chúng không tạo ra những con bò phế phẩm. “Ngay cả sữa xịn cũng vón cục khi để quá lâu.”

Rồi gã lên tiếng, “Đêm nay chúng ta sẽ đi.”

Cô gật đầu, nhíu mày. “Đêm nay à? Khi mà anh bảo ‘ngay lập tức’ ra là vậy.”

“Anh sẽ gặp em ở đây lúc 5 giờ.”

“Giờ anh sẽ đi đâu?” Käthe hỏi.

“Chỉ là cuộc phỏng vấn cuối cùng thôi.”

“Chúc may mắn, Paul. Em sẽ chờ được đọc bài viết của anh, ngay cả… à nếu nó là một bài viết về chợ đen, chứ không phải thể thao.” Cô ném sang gã cái nhìn hiểu biết. Dĩ nhiên, Käthe là một người phụ nữ thông minh, cô ấy nghi ngờ gã có việc khác ngoài viết báo - có thể là hùn vốn làm ăn bán hợp pháp* gì đó, giống như một nửa thành phố này. Điều này khiến gã nghĩ rằng cô đã chấp nhận mặt đen tối của gã - rằng cô sẽ không buồn lắm nếu cuối cùng gã nói thật cho cô nghe mình đang làm gì ở đây. Rốt cuộc, kẻ thù của gã cũng là kẻ thù của cô.

Gã hôn cô một lần nữa, thưởng thức mùi hương tử đinh hương của cô, cảm thấy làn da cô tì vào làn da gã. Nhưng không giống như đêm qua, gã cảm thấy gã không bị kích thích một chút nào. Cho dù điều này không khiến gã buồn, đó là cách mọi thứ diễn ra. Bên trong gã bây giờ chi còn băng giá.

“Sao mụ ấy có thể phản bội chúng ta?”

Kurt Fischer trả lời câu hỏi của em trai bằng cái lắc đầu tuyệt vọng.

Cả anh cũng thấy đau đớn khi nghĩ đến câu mụ hàng xóm của họ đã nói. Tại sao là mụ Lutz! Mụ từng được mẹ họ tặng nguyên cả ổ bánh mỳ ngọt ấm áp, bao nhiêu là trái cây khô tẩm đường mỗi dịp Giáng Sinh, người mà cha mẹ họ luôn phải an ủi mỗi khi bà than khóc trong lễ kỷ niệm quân Đức đầu hàng - ngày đó được xem là ngày thay thế cho ngày chồng bà ta chết trong Thế Chiến thứ I. Vì chẳng ai biết chính xác ông ta mất vào ngày nào.

“Sao mụ ta có thể làm thế?” Hans lại thì thầm.

Nhưng Kurt Fischer không thể giải thích.

Nếu mụ tố cáo họ vì họ đang lên kế hoạch đăng các áp phích chống đối, hay tấn công vài tên thanh niên Hitler nào đó, có lẽ anh đã hiểu. Nhưng tất cả những gì họ muốn chỉ là rời khỏi đất nước có tên Lãnh tụ đã nói, “Chủ nghĩa Hòa bình là kẻ thù của Chủ nghĩa Quốc Xã.” Anh cho rằng giống như nhiều người khác, mụ Lutz đã bị Hitler tiêm nhiễm nọc độc vào đầu.

Trần nhà tù tại Columbia House rộng khoảng 9 mét vuông, được xây bằng đá thô kệch, không có cửa sổ, chi có những thanh kim loại làm cửa ra vào mở lên hành lang. Nước nhỏ xuống và hai thanh niên nghe thấy tiếng đàn chuột gần đấy đang rục rịch chuyển động. Chỉ có một bóng đèn sáng chói trên trần xà lim. Tuy nhiên trong hành lang không có bóng người nên họ có thể thấy vài cái bóng sẫm màu thi thoảng đi qua. Đôi khi những tên lính gác đi một mình, đôi khi chúng hộ tống các tù nhân đi chân trần, không phát ra bất kỳ âm thanh gì ngoài những tiếng thở hổn hển, van xin hoặc nức nở chốc chốc lại vang lên. Thi thoảng, sự câm lặng vì khiếp sợ của họ còn lạnh xương sống hơn những tiếng ồn họ tạo ra.

Cái nóng thật không chịu đựng nổi khiến da họ nhức nhối. Kurt không thể hiểu nổi tại sao họ đang ở dưới lòng đất và nơi này đáng ra phải mát mẻ. Rồi anh nhận ra trong góc có một cái ống khí nóng đang được phun mạnh vào qua cái ống. Bọn cai ngục đang bơm khí nóng vào từ một cái lò, để chắc chắn rằng tù nhân thậm chí chẳng có được một khắc nào cảm thấy dễ chịu.

“Chúng ta lẽ ra không nên đi.”Hans lẩm bẩm. “Em đã bảo rồi.”

“Phải, lẽ ra chúng ta nên ở lại trong căn hộ - nó hẳn sẽ cứu mạng chúng ta.” Anh đang nói với ý mỉa mai sắc sảo. “Đến khi nào? Tuần tới? Ngày mai? Em không hiểu rằng mụ ta đang rình chúng ta à? Mụ ta đã thấy mọi người, nghe thấy những gì chúng ta nói.”

“Chúng ta sẽ ở đây bao lâu?”

Làm sao anh trả lời được chứ? Kurt nghĩ, họ đã ở một nơi mọi khoảnh khắc sẽ là mãi mãi. Anh ngồi xuống sàn - chẳng còn chỗ nào mà ngồi nữa - khi bắt đầu nhìn lơ đãng vào bóng tối, xà lim trống không đối diện hành lang nhìn từ xà lim của họ.

Cửa ra vào bật mở, những đôi giày khua trên sàn bê tông.

Kurt bắt đầu đếm những bước chân - một, hai, ba…

Đến bước chân thứ hai mươi tám, tên lính gác sẽ đến đúng xà lim của họ. Đếm bước chân là một việc anh học được khi trở thành một tù nhân. Những người bị giam cầm sẽ cực kỳ thèm khát bất kỳ thông tin nào, bất kỳ sự chắc chắn nào.

Hai mươi, hai mươi mốt, hai mươi hai…

Hai anh em nhìn nhau. Hans nắm chặt tay lại thành nắm đấm. “Chúng sẽ phải đau đớn. Chúng sẽ phải nếm mùi máu,” cậu ta lẩm bẩm.

“Không,” Kurt nói. “Đừng làm bất kỳ điều gì ngu ngốc.”

Hai mươi nhăm, hai mươi sáu…

Những bước chân dừng lại.

Chớp mắt vì ánh sáng đèn trên đầu, Kurt trông thấy hai tên to lớn mặc đồng phục nâu nữa xuất hiện. Chúng nhìn hai anh em.

Rồi chúng quay đi.

Một trong hai tên mở cửa xà lim đối diện, sẵng giọng gọi, “Grossman, bước ra ngoài.”

Bóng tối trong xà lim cử động. Kurt giật mình nhận ra mình đang nhìn chằm chằm một người khác. Người đàn ông lảo đảo đứng dậy bước về phía trước, tựa vào các thanh kim loại. Người ông ta bẩn thỉu. Nếu khi vào trong này ông ta mày râu nhẵn nhụi, vậy thì râu tóc lởm chởm trên mặt nói với Kurt rằng, ông ta đã vào xà lim ít nhất một tuần rồi.

Người tù chớp mắt, nhìn xung quanh, nhìn hai tên cao lớn rồi nhìn Kurt bên kia lối đi.

Một trong hai tên lính nhìn vào một tờ giấy. “Ali Grossman, mày bị tuyên án 5 năm ở hại Oranienburg vì những tội ác chống lại Nhà nước. Bước ra ngoài.”

“Nhưng tôi…”

“Câm mồm. Mày sẽ được chuẩn bị lên đường đến trại.”

“Họ đã khử rận cho tôi rồi. Ý hai người là sao?”

“Tao bảo câm mồm!”

Một tên lính thì thầm gì đó với tên kia, hắn đáp, “Cậu không mang theo à?”

“Không.”

“Rồi đây, dùng của tớ vậy.”

Hắn đưa đôi găng tay da nhạt màu cho tên kia, hắn đeo vào. Với tiếng hét của một tay vợt đang vụt một quả giao bóng mạnh, nắm đấm của hắn nhằm thẳng vào bụng người đàn ông. Grossman kêu lên, bắt đầu nôn ọe.

Nắm tay của tên lính đánh vào cằm ông ta, không một tiếng động.

“Không, không, không.”

Thêm nhiều cú đánh nữa nhằm vào các mục tiêu như háng, mặt và bụng. Máu chảy xuống từ dưới mũi và miệng, những giọt lệ chảy xuống từ hai mắt. Giọng điệu khó nhọc. “Xin ngài.”

Trong nỗi kinh hoàng, hai anh em nhìn con người bị biến thành con búp bê nát vụn. Tên lính gác đang đánh nhìn đồng bọn của hắn rồi nói, “Tớ rất tiếc đôi găng. Vợ tớ sẽ giặt sạch rồi sửa chúng lại.”

“Nếu thấy tiện.”

Chúng kéo người đàn ông đứng dậy, lôi ông ta lên hành lang. Cánh cửa vọng lại âm thanh điếc tai.

Kurt và Hans trừng trừng nhìn xà lim trống không. Kurt không nói câu nào. Anh tin rằng mình chưa bao giờ thấy khiếp sợ như thế trong đời. Cuối cùng Hans hỏi, “Ông ta có lẽ đã làm điều gì đó thật khủng khiếp, anh có nghĩ thế không? Mới bị đối xử như thế.”

“Một kẻ phá hoại, anh nghĩ vậy,” Kurt nói bằng giọng run rẩy.

“Em nghe nói có vụ hỏa hoạn trong một tòa nhà Chính phủ. Bộ Giao thông vận tải. Anh có nghe nói không? Em dám cá ông ta đứng sau vụ đó.”

“Phải. Một vụ hỏa hoạn. Ông ta chắc chắn là kẻ phóng hỏa.”

Họ ngồi tê liệt trong con khiếp đảm, khi dòng không khí nóng đến rộp da sau lưng họ vẫn tiếp tục hun nóng xà lim bé tí.

Chưa đầy mười phút sau, họ lại nghe thấy tiếng cửa mở rồi đóng sầm lại. Hai anh em liếc nhìn nhau.

Những bước chân bắt đầu vang lên, vọng khi lớp da tiếp xúc với lớp bê tông… sáu, bảy, tám…

“Em sẽ giết tên ở bên phải,” Hans thì thầm. “Tên mập hơn. Em làm được. Chúng ta có thể lấy được chìa khóa và…”

Kurt vươn người lại gần hơn, khiến thằng bé choáng váng khi túm chặt mặt nó bằng hai tay. “Không!” anh thì thầm chói tai đến mức khi em trai thở hổn hển. “Không được làm gì hết. Mày sẽ không đánh nhau với chúng, không được cãi lại. Mày sẽ làm chính xác những gì chúng bảo. Và nếu chúng có đánh mày, mày sẽ phải chịu đau trong im lặng.” Tất cả những suy nghĩ trước kia như chống lại bọn Quốc Xã hay cố gắng tạo ra sự khác biệt đều đã biến mất.

“Nhưng…”

Những ngón tay như gọng kìm của Kurt kéo Hans lại gần hơn. “Mày sẽ làm như tao bảo!”

...mười ba, mười bốn…

Những tiếng bước chân nghe như tiếng búa gõ lên quả chuông Thế vận hội, từng tiếng một khiến cơn hốt hoảng vì sợ rung lên trong tâm hồn Kurt Fischer.

...mười bảy, mười tám…

Đến bước chân thứ hai mươi sáu, chúng sẽ đi chậm lại.

Đến bước chân thứ hai mươi tám, chúng sẽ dừng lại.

Và máu sẽ bắt đầu tuôn ra.

“Anh đang làm em đau đấy!” Nhưng ngay cả những cơ bắp mạnh mẽ của Hans cũng không giúp cậu thoát được bàn tay của anh trai.

“Nếu chúng đánh vào răng của mày, thi không được nói gì hết. Nếu chúng bẻ gẫy ngón tay, mày có thể khóc, van và la hét. Nhưng không được nói gì với chúng. Chúng ta sẽ vượt qua được chuyện này. Mày có hiểu không? Để sống sót, chúng ta không thể đánh lại.”

Hai mươi hai, hai mươi ba, hai mươi tư…

Một cái bóng phủ xuống sàn xà lim phía trước những chấn song.

“Hiểu chưa?”

“Rồi,” Hans thì thầm.

Kurt vòng tay ôm lấy vai người em, họ cùng nhìn ra cửa.

Chúng dừng lại ở xà lim.

Nhưng chúng không phải là lính gác. Một tên có mái tóc bạc mặc bộ vest. Tên kia nặng nề hơn, hói đầu, mặc comple may bằng vải tuýt và áo gi-lê. Họ quan sát hai anh em.

“Hai người là anh em nhà Fischer?” người đàn ông tóc bạc hỏi.

Hans nhìn Kurt, anh gật đầu.

Hắn rút ra một tờ giấy từ trong túi rồi đọc. “Kurt,” Hắn ngước mắt lên. “Chắc cậu đây là Kurt. Còn cậu là Hans”.

“Vâng.”

Chuyện gì đây?

Người đàn ông ngước nhìn lên lối đi. “Mở cửa xà lim.”

Thêm nhiều tiếng bước chân. Tên lính gác xuất hiện, liếc nhìn vào trong rồi mở khóa cửa. Hắn bước lùi lại, đặt tay lên chiếc dùi cui lắc lư trên thắt lưng.

Hai người bước vào trong.e

Người tóc bạc nói, “Tôi là Đại tá Reinhard Ernst.”

Kurt không lạ gì cái tên này. Hắn ta giữ vai trò gì đó trong chính quyền Hitler cho dù anh không biết chính xác là vai trò nào. Người thứ hai tự giới thiệu mình là Giáo sư-tiến sĩ Keitel, từ trường Đại học quân sự nào đó ở Berlin.

Tên Đại tá hỏi, “Hồ sơ bắt giữ các cậu nói rằng ‘những tội ác chống lại Nhà nước’. Nhưng chung chung quá. Chính xác đó là những tội ác gì?”

Kurt giải thích về cha mẹ họ và việc họ cố gắng rời khỏi đất nước trái luật.

Ernst nghiêng đầu, nhìn hai chàng trai chăm chú. “Chủ nghĩa Hòa bình,” hắn lẩm bẩm rồi quay sang Keitel, ông ta hỏi, “Hai cậu có tham gia các hoạt động chống Đảng không?”

“Không, thưa ngài.”

“Hai cậu có tham gia Edelweiss Piraten không?”

Đây là những Câu lạc bộ chống Quốc Xã không chính thức của thanh niên, vài người nói họ là những băng đảng đứng lên phản ứng lại sự thành lập Đoàn thanh niên Hitler thiếu suy nghĩ. Họ tổ chức những buổi gặp gỡ bí mật thảo luận về các hoạt động chính trị và nghệ thuật - thử qua những lạc thú của cuộc đời mà Đảng cấm đoán ít nhất là công khai như: rượu chè, hút thuốc và tình dục ngoài hôn nhân. Hai anh em biết một vài thanh niên là thành viên nhưng họ thì không.

“Có vẻ như tội này nhỏ thôi, tuy nhiên,” - Ernst lôi ra một tờ giấy - “hai cậu đã bị tuyên án 3 năm ở trại Oranienburg.”

Hans thở hổn hển. Kurt thấy choáng váng, nghĩ đến trận đòn kinh khủng họ vừa được chứng kiến, nghĩ đến ông Grossman tội nghiệp bị đánh đến mức phải phục tùng. Kurt cũng biết rằng đôi khi có những người đến Oranienburg hoặc Dauchau để thụ án một thời gian ngắn, nhưng họ không bao giờ về nữa. Anh nói lắp bắp, “Chẳng có phiên tòa nào hết! Chúng tôi bị bắt đã hơn một tiếng rồi! Và hôm nay là Chủ nhật. Làm sao chúng tôi có thể bị tuyên án như thế?”

Tên Đại tá nhún vai. “Như cậu thấy đấy, đã có một phiên tòa.” Ernst trao cho anh một tài liệu liệt kê hàng tá tên các tù nhân, tên của Kurt và Hans nằm trong số này. Nằm kế bên tên mỗi người là một tràng bản án. Tiêu đề tài liệu chỉ ghi đơn giản “Tòa án Nhân dân.” Đây là tòa án khét tiếng bao gồm 2 thẩm phán thật và 5 thành viên của Đảng, SS hoặc Gestapo. Không được phép kháng án phán quyết của họ.

Anh nhìn nó trừng trừng, tê liệt.

Tay giáo sư nói. “Sức khỏe của hai cậu nói chung là tốt chứ?”

Hai anh em nhìn nhau, rồi gật đầu.

“Là người Do Thái thực sự chứ?”

“Không.”

“Và hai người có tham gia Dịch vụ Lao động không?”

Kurt đáp, “Em trai tôi thì có. Tôi già quá rồi.”

“Về vấn đề trước mắt,” Giáo sư Keitel nói, “chúng tôi tới đây trao cho hai người một lựa chọn.” Ông ta có vẻ sốt ruột.

“Lựa chọn?”

Ernst hạ thấp giọng xuống rồi nói tiếp. “Vài người trong Chính phủ của chúng ta nghĩ rằng các cá nhân đặc biệt không nên tham gia vào quân đội của chúng ta. Có lẽ vì chủng tộc hay quốc tịch nhất định nào đó của họ, có lẽ họ là những trí thức, có lẽ họ có ý định nghi ngờ những quyết định của chính phủ chúng ta. Tuy nhiên, tôi tin rằng một quốc gia cũng phải vĩ đại như quân đội của nó, rằng một quân đội nếu muốn vĩ đại thì quân đội đó phải là đại diện của tất cả mọi công dân. Giáo sư Keitel và tôi đang làm một nghiên cứu mà chúng tôi nghĩ sẽ giúp thay đổi cách nhìn của Chính phủ về các lực lượng vũ trang Đức.” Hắn lại liếc nhìn về phía hành lang, nói với tên lính gác SS. “Để chúng tôi lại một mình.”

“Nhưng thưa ngài…”

“Để chúng tôi lại một mình,” Ernst nhắc lại bằng giọng bình thản, nhưng đối với Kurt nó mạnh mẽ như sản phẩm thép của Krupp.

Hắn ta lại liếc nhìn Kurt và Hans rồi lui xuống hành lang.

Ernst nói tiếp. “Và nghiên cứu này có thể quyết định về cơ bản Chính phủ đánh giá thế nào về công dân của họ nói chung. Chúng tôi đã, đang tìm kiếm những người gặp phải hoàn cảnh như hai cậu để giúp chúng tôi.”

Tay giáo sư nói, “Chúng tôi cần những người khỏe mạnh không phải tham gia nghĩa vụ quân sự vì những lý do chính trị, hoặc lý do khác.”

“Vậy chúng tôi sẽ làm gì?”

Ernst bật cười. “Thì dĩ nhiên các cậu sẽ thành những người lính. Các cậu sẽ phục vụ trong quân đội, hải quân hoặc không quân Đức trong vòng một năm, đều đặn làm nhiệm vụ.”

Hắn liếc nhìn tay giáo sư, ông ta nói tiếp. “Nghĩa vụ của các cậu sẽ giống như bất kỳ người lính nào. Khác biệt duy nhất đó là chúng tôi sẽ giám sát thành tích của các cậu. Các sĩ quan chi huy của các cậu sẽ ghi chép về các cậu. Thông tin sẽ được biên soạn để chúng tôi phân tích.”

Ernst nói, “Nếu các cậu phục vụ trong một năm, hồ sơ phạm pháp của các cậu sẽ được xóa sạch.” Hắn hất đầu về phía danh sách tuyên án của tòa. “Các cậu sẽ được tự do xuất cảnh nếu muốn. Tuy nhiên, các quy định về tiền tệ vẫn được giữ nguyên. Các cậu chỉ có thể dùng một số tiền mác nhất định, không được phép quay về nước.”

Kurt đang suy nghĩ về một câu anh đã nghe vừa nãy. Có lẽ vì chủng tộc hay quốc tịch nào đó của họ… Phải chăng Ernst thấy trước rằng người Do Thái, hoặc những ai không phải người Aryan ngày nào đó tham gia vào quân đội Đức?

Và nếu thế, điều này có ý nghĩa gì đối với quốc gia nói chung? Những người này muốn nói đến những thay đổi gì?

“Các cậu là những người theo Chủ nghĩa Hòa bình,” Ernst nói. “Những người tình nguyện khác đồng ý giúp đỡ chúng tôi không phải lựa chọn khó khăn như các cậu. Về mặt đạo đức, một người yêu hòa bình có thể tham gia một tổ chức quân sự không? Đúng là một quyết định khó khăn. Nhưng chúng tôi muốn hai người tham gia. Trông hai người có vẻ ngoài của dân Bắc Âu nhưng lại có sức khỏe tuyệt vời và phong thái của chiến binh. Có những người như hai cậu tham gia, tôi tin rằng các thành phần quyết định trong Chính phủ sẽ thiên về hướng chấp nhận các lý thuyết của chúng tôi.”

“Về những niềm tin của hai người,” Keitel nói thêm. “Tôi sẽ nói thế này. Trở thành một giáo sư tại mội trường đại học quân sự và là một sử gia quân sự, tôi thấy chúng ngây thơ lắm. Nhưng chúng tôi sẽ cân nhắc những tình cảm và những bổn phận của các cậu trong thời gian phục vụ sẽ tương xứng với những quan điểm của các cậu. Chúng tôi chẳng ép buộc những người sợ độ cao phải lái máy bay, hay bắt một người sợ bị giam giữ trong không gian kín xuống xem tàu đắm. Có nhiều công việc trong quân ngũ mà một người yêu hòa bình có thể đảm nhiệm. Chẳng hạn như Quân y.”

Ernst nói, “Và như tôi đã nói, sau một thời gian các cậu có thể thấy rằng những cảm xúc của mình về hòa bình, về chiến tranh trở nên thực tế hơn. Không còn môi trường nào thử thách sự trưởng thành của một người đàn ông khắc nghiệt hơn môi trường quân ngũ, tôi cảm thấy vậy.”

Không thể nào, Kurt nghĩ. Nhưng anh không nói gì.

“Nhưng nếu niềm tin của các cậu không cho phép điều đó,” Ernst nói, “các cậu vẫn có một lựa chọn.” Hắn hất đầu về phía hồ sơ tuyên án.

Kurt liếc nhìn em trai. “Chúng tôi có thể thảo luận riêng không?”

Ernst đáp, “Hẳn rồi. Nhưng các cậu chi có vài giờ thôi. Có một nhóm đang được tuyển vào cuối buổi chiều nay, đợt huấn luyện cơ bản sẽ bắt đầu vào ngày mai.” Hắn xem đồng hồ đeo tay. “Bây giờ, tôi phải đi họp. Tôi sẽ quay lại đây vào hai hoặc ba giờ để nghe quyết định của các cậu.”

Kurt trả lại hồ sơ tuyên án cho Ernst.

Nhưng tên Đại tá lắc đầu. “Giữ lại đi. Nó có thể giúp các cậu đưa ra quyết định.”

bán hợp pháp: nguyên tác: semi-legal