← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 33

Otto Webber khàn khàn nói, “Cậu đang làm gì thế? Chúng tôi đến từ Krupp Munitions Works. Chúng tôi được cử đến để chắc chắn đã giao đạn dược chuẩn xác…”

“Câm mồm.”

Tên lính trẻ căng thẳng nhìn xung quanh xem còn ai nữa ở đây không.

“Có một rắc rối với hàng giao nhận. Chúng tôi nhận cuộc gọi từ…”

“Hôm nay là Chủ nhật. Tại sao mày giao hàng vào Chủ nhật?”

Webber phá lên cười. “Anh bạn trẻ ơi, khi chúng tôi giao nhầm hàng cho SS thì chúng tôi sẽ chỉnh sửa sai lầm, không cần biết ngày giờ. Giám sát viên của tôi…”

“Câm mồm!” Tên lính trẻ nhận thấy một chiếc điện thoại trên bàn làm việc đầy bụi, bèn tiến đến đó. Tay vẫn chĩa khẩu súng ngắn về phía họ. Khi hắn đi gần đến bàn, Webber bỏ hai tay xuống định bước về phía hắn.

“Này, như thế là ngớ ngẩn đấy.” Anh ta cáu tiết. “Tôi có chứng minh thư.”

“Mày đứng lại ngay đó!” Hắn giơ khẩu súng ra phía trước.

“Tôi sẽ cho cậu xem giấy tờ từ giám sát viên của tôi.” Webber vẫn tiếp tục bước.

Tên lính SS bóp cò. Một tiếng nổ chói tai cụt lủn dội bốn bức tường.

Không rõ Webber có bị thương không, Paul nhặt khẩu Mauser từ dưới sàn lên, lăn tròn trốn phía sau một chồng thùng thưa đựng súng trường, nạp một viên vào súng.

Tên lính lao đến chỗ điện thoại, lôi ống nghe ra khỏi ổ, cúi người xuống. “Làm ơn nghe đi nào,” hắn quát vào ống nghe. Paul đứng dậy thật nhanh. Gã không nhìn thấy tên lính nhưng ngắm bắn vào chiếc điện thoại cố định, nó nổ tung thành một tá mảnh nhựa Bakelite. Tên lính thét lên.

Paul lại ngồi thụp xuống tránh. Nhưng gã vẫn kịp liếc Otto Webber nằm trên sàn, đang chậm rãi lăn lộn, tay nắm chặt lấy vùng bụng đẫm máu.

Không…

“Thằng Do Thái kia!” tên lính trẻ gầm lên. “Mày nên ném ngay súng đi. Một trăm lính nữa sẽ đến đây sớm thôi.”

Paul tiến ra mặt tiền tòa nhà, nơi gã bao quát được cả cửa trước lẫn cửa sau. Gã liếc nhanh ra cửa sổ, thấy một chiếc mô tô đơn độc đỗ phía trước. Gã biết tên này chỉ đơn thuần kiểm tra nhà kho theo thông lệ, sẽ chẳng còn tên nào khác đến nữa. Nhưng ai đó có thể đã nghe thấy tiếng súng. Tên SS này có thể phải ở lại đây cầm chân Paul cho đến khi cấp trên của hắn nhận ra hắn chưa báo cáo về, nên cử thêm lính đến nhà kho.

Nhìn ra ngoài từ một chồng thùng thưa, gã không biết tên lính đang ở đâu. Hắn…

Một tiếng súng nữa vọng đến. Thủy tinh bắn tung ra cửa sổ trước nhưng không bắn đến chỗ Paul.

Tên SS bắn qua cửa kính để lôi kéo sự chú ý, hắn bắn thẳng ra phố, không cần biết có trúng ai không.

“Đồ lợn Do Thái!” Hắn phẫn nộ. “Mày đứng dậy và giơ tay lên, hoặc mày sẽ phải chết trong thét gào tại Columbia House đấy!” Lần này giọng nói vẳng đến từ một chỗ khác gần với mặt tiền nhà kho hơn. Gã bò về phía trước, đắp thêm thùng thưa ngăn cách gã với kẻ thù.

Một phát súng nữa bắn qua cửa sổ. Bên ngoài một chiếc xe bấm còi inh ỏi.

Paul di chuyển đến hàng thùng thưa tiếp theo, khẩu súng lắc lư trước ngực, ngón tay đặt lên cò súng. Khẩu Mauser thật bất tiện - bắn tầm xa thì miễn chê, nhưng những lúc thế này thì vô dụng. Gã ngắm nghía thật nhanh. Lối đi trống trải. Gã nhảy dựng lên khi một phát súng nữa làm vỡ tan cửa sổ. Giờ thì chắc ai đó phải nghe thấy. Hoặc đã nhìn thấy viên đạn bắn vào tường, hoặc ngôi nhà nào đó bên đường. Có thể đã bắn trúng một chiếc xe, hay ai đó đi ngang qua.

Gã chuyển sang lối đi bên cạnh. Thật nhanh. Khẩu súng lắc lư trước mặt.

Bóng đồng phục đen của tên lính thoáng hiện rồi biến mất. Tên SS đã nghe thấy Paul chuyển động hoặc đã đoán trước, nên lẩn vào trốn sau một chồng thùng thưa khác.

Paul quyết định gã không thể đợi thêm nữa. Gã phải chặn đứng tên lính này. Không còn cách nào khác ngoài việc tấn công vào giữa hàng thùng thưa, hệt như khi gã xông qua các nóc chiến hào trong một trận tấn công hồi Thế Chiến thứ I. Gã hy vọng mình có thể bắn phát súng chết người, trước khi tên lính kịp nhả đạn về phía gã bằng khẩu súng ngắn bán tự động.

Được rồi, Paul tự nhủ với mình. Gã hít một hơi sâu.

Một hơi nữa…

Đi thôi!

Gã đứng bật dậy trèo lên cái thùng thưa ngay trước mặt, giơ súng lên. Bàn chân gã vừa dẫm lên thùng thưa thứ hai thì nghe thấy tiếng động sau lưng về bên phải. Tên lính đánh thọc sườn gã! Nhưng khi gã qụay lại, những ô cửa sổ cáu bẩn lại rung lên vì một phát súng. Paul cứng người lại.

Tên SS bước đến ngay trước mặt gã, cách sáu mét. Paul hốt hoảng giơ khẩu Mauser lên nhưng chưa kịp khai hỏa, tên lính bỗng ho hen. Máu phun ra từ miệng hắn, khẩu Luger rớt xuống sàn nhà. Hắn lắc đầu, nặng nề đổ vật xuống và nằm bất động, máu đang nhuộm đỏ bộ đồng phục của hắn.

Quay sang phải, Paul thấy Otto Webber đang nằm trên sàn. Một tay anh ta nắm chặt lấy cái bụng đẫm máu, tay kia cầm khẩu Mauser. Anh ta đã cố gắng bò đến một giá để súng, nạp đạn rồi bắn. Khẩu súng trường trượt xuống sàn.

“Anh điên rồi à?” Paul giận dữ thì thầm. “Tại sao lại tiến đến chỗ hắn như thế? Anh nghĩ rằng hắn sẽ không bắn à?”

“Không,” người đàn ông đang vã mồ hôi, mặt trắng bệch phá lên cười. “Tôi không nghĩ hắn sẽ làm thế.” Anh ta thở dài trong đau đớn. “Đi xem có ai đáp lại lời kêu cứu tinh tế của hắn không.”

Paul chạy ra phía mặt tiền và nhận thấy khu này vẫn hoang vắng. Bên kia đường là một tòa nhà cao không có cửa sổ, chắc là một nhà máy hoặc nhà kho hôm nay đóng cửa. Có khả năng là mấy viên đạn bắn vào tường chẳng ai chú ý.

“Không có ai cả,” gã quay lại nói với Webber. Anh ta đã ngồi dậy nhìn vết máu loang trên bụng. “Chà.”

“Chúng ta phải tìm bác sĩ.” Paul quàng khẩu súng lên vai, đỡ Webber đứng dậy tiến ra cửa sau xuống thuyền. Nhợt nhạt, vã mồ hôi như tắm, tay người Đức nằm ngửa, tựa đầu vào mũi thuyền khi Paul điên loạn chèo thuyền sang vũng tàu đậu gần chiếc xe tải.

“Tôi phải đưa anh đến đâu để gặp bác sĩ?”

“Bác sĩ ư?” Webber phá lên cười. “Quá muộn rồi, cậu John Dillinger. Cứ mặc tôi. Đi tiếp đi. Tự tôi gọi được mà. Quá trễ rồi.”

“Không, tôi sẽ đưa anh đi,” Paul kiên quyết lặp lại. “Nói tôi nghe phải tìm ai không theo phe SS hoặc Gestapo.” Gã kéo thuyền vào vũng tàu đậu, cột lại rồi lên bờ. Đặt khẩu Mauser xuống một bãi cỏ gần đó, gã quay lại định đỡ Webber lên.

“Không!” Paul thì thầm.

Webber đã cởi dây thừng, thu hết sức tàn còn lại đẩy thuyền ra xa vũng tàu đậu. Lúc này con thuyền đang trôi vào dòng chảy, cách bờ khoảng ba mét.

“Otto! Không!”

“Tôi đã nói mà, quá muộn rồi,” Webber gọi với, thở hồng hộc. Rồi nở nụ cười chua chát. “Nhìn tôi này, một đám tang của người Viking! Chà, khi cậu về nhà rồi, hãy nghe nhạc của John Philip Sousa và nghĩ đến tôi nhé… Cho dù tôi vẫn nói rằng ông ấy là người Anh. Dân Mỹ các cậu tự sướng với chuyện đó lâu quá rồi. Giờ thì đi tiếp đi, cậu John Dillinger. Hãy làm những gì cậu tới đây để làm.”

Paul Schumann chỉ còn thấy hình ảnh cuối cùng của anh bạn. Đôi mắt anh ta khép lại khi ngồi thụp xuống đáy thuyền. Rồi với tốc độ nhanh hết sức có thể, anh ta trầm mình xuống dòng nước đen ngòm của sông Spree.

Một đám người hầu hết là thanh niên đã lựa chọn cuộc sống và tự do hơn danh dự. Hèn nhát hay thông minh là động cơ thúc đẩy họ làm việc này?

Kurt Fischer tự hỏi rằng liệu anh có phải là người duy nhất ở đây bị ám ảnh bởi câu hỏi này.

Họ đang ngồi trên xe đi qua vùng nông thôn Tây bắc Berlin, cũng kiểu dáng xe buýt đã từng đưa họ đi chơi xa hồi còn sinh viên. Tay tài xế béo tròn điều khiên xe điêu luyện trên con đường lộng gió, cố gắng dụ đám thanh niên hát lên những bài ca săn bắn hay đi bộ đường dài nhưng vô ích.

Kurt ngồi canh cậu em trai, trò chuyện với những người khác. Từng chút một, anh biết được điều gì đó về họ. Hầu hết là người Aryan xuất thân từ các gia đình trung lưu, tất cả đều có bằng cấp đại học hoặc đang có kế hoạch theo học sau khi tham gia Nghĩa vụ Lao động. Một nửa giống như Kurt và Hans, là những người chống Đảng ở mức độ không đáng kể vì những lý do chính trị và trí tuệ: Những người theo Chủ nghĩa Xã hội, yêu Chủ nghĩa Hòa bình hay những người chống đối. Nửa còn lại là những ‘cậu ấm’ giàu có hơn, cũng nổi loạn hơn nhưng không phải vì lý do chính trị, khiếu nại của họ với Quốc Xã chỉ nhằm vào vấn đề văn hóa như kiểm duyệt phim ảnh, khiêu vũ và âm nhạc.

Dĩ nhiên không có người Do Thái, Slav hay dân Du mục Roma trong đám đông. Cũng không có người Cộng sản nào. Bất chấp sự khai sáng của Ernst, Kurt biết rằng sẽ phải mất nhiều năm nữa thì các nhóm sắc tộc và chính trị mới sánh vai nhau trong quân đội hay bộ máy quan liêu của Đức. Riêng Kurt tin rằng điều này sẽ chẳng bao giờ xảy ra chừng nào Hitler, Göring và Goebbels vẫn nắm quyền trong chế độ Tam đầu chế.

Anh đang nghĩ và giờ họ ở đây, những thanh niên này tụ lại với nhau do hoàn cảnh khó khăn phải lựa chọn giữa trại tập trung và khả năng sẽ chết, hoặc đi theo một tổ chức mà họ biết sai trái về mặt đạo đức.

Kurt lại tự hỏi mình có phải thằng hèn không khi đã lựa chọn điều này. Anh nhớ lại lời kêu gọi tẩy chay toàn cầu các cửa hàng Do Thái của Goebbels tháng 04 năm 1933. Bọn Quốc Xã nghĩ rằng mình sẽ nhận được làn sóng ủng hộ lớn lao. Thực ra đây là sự kiện tồi tệ đối với Đảng, khi có nhiều người Đức - cả cha mẹ họ cũng trong số này - công khai phản đối tẩy chay. Có đến hàng nghìn người tìm kiếm các cửa hàng trước kia họ chưa từng đến, chỉ nhằm bày tỏ sự ủng hộ đối với các công dân Do Thái.

Đó là sự quả cảm. Phảỉ chăng trong anh không tồn tại sự quả cảm này?

“Kurt?”

Anh ngước mắt lên. Em trai anh đang nói với anh. “Anh không nghe em nói gì à.”

“Em vừa nói gì?”

“Khi nào thì ăn tối đây? Em đói rồi.”

“Anh chẳng biết. Sao anh biết được?”

“Đồ ăn quân đội có tốt không nhỉ? Em nghe bảo ăn ngon lắm. Nhưng em cho rằng điều đó còn phụ thuộc. Nếu anh đang ở chiến trường, nó sẽ rất khác với ở căn cứ. Em đang tự hỏi nó sẽ thế nào.”

“Gì cơ, đồ ăn á?”

“Không. Ở trong các chiến hào. Ở…”

“Chúng ta sẽ không đi ra chiến hào. Sẽ chẳng có cuộc chiến nào khác nữa. Giả như có thì em nghe Đại tá Ernst nói rồi đấy, chúng ta sẽ không phải chiến đấu. Chúng ta sẽ được giao những nhiệm vụ khác.”

Em trai anh có vẻ không tin. Và rắc rối hơn nữa, trông nó không có vẻ buồn mà lại tỏ vẻ muốn chiến đấu. Trời ạ, nó dường như thấy kích thích trước ý nghĩ này. Đây là một khía cạnh rất mới mẻ và đáng lo ngại ở cậu em trai.

Em tự hỏi nó sẽ thế nào…

Những cuộc đối thoại trong xe vẫn tiếp tục - về thể thao, về phong cảnh, Thế vận hội, phim ảnh Mỹ. Và về những cô gái, tất nhiên.

Cuối cùng, họ đã đến nơi, ngoặt khỏi đường cao tốc đi xuống con đường có hai hàng cây gỗ thích dẫn vào khuôn viên Trường Đại học Quân đội Waltham.

Bố mẹ yêu hòa bình của họ sẽ nghĩ gì khi thấy họ ở một nơi như thế này!

Chiếc xe buýt rít lên rồi dừng lại trước cửa một trong những tòa nhà gạch đỏ trong trường. Kurt kinh ngạc trước sự khác biệt này: một tổ chức dành cho triết học và chiến tranh lại được đặt ở một địa điểm lý tưởng thế này, với một thảm cỏ sum suê, cây thường xuân đu đưa trong gió bò lan lên những tòa nhà cổ, những khu rừng và những quả đồi phía sau tạo thành một nền dịu dàng cho khung cảnh.

Những chàng hai vác ba lô lên vai rồi xuống xe. Một tên lính trẻ không già hơn họ là mấy tự xưng mình là sĩ quan tuyển mộ ra bắt tay và chào mừng họ. Hắn giải thích rằng Giáo sư-Tiến sĩ Keitel không lâu nữa sẽ đến gặp họ. Hắn giơ lên một quả bóng mà hắn cùng một tên lính khác đang đá rồi ném về phía Hans. Cậu ta thông minh ném bóng sang những tân binh khác nữa.

Và như một điều hiển nhiên khi các thanh niên cùng một quả bóng trên sân cỏ mọc dày, hai đội nhanh chóng được thành lập và trận bóng được bắt đầu.