← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 42

Chiếc xe lượn như một vũ công trên con đường về nhà hắn tại Charlottenburg. Reinhard Ernst ngồi ghế sau, gắng hết sức không nghiêng người theo mỗi cú ngoặt. Claus, tên trung úy SS đi cùng hắn tại Trường Đại học Waltham bị thương do kính xe Mercedes bắn vào người đã được đưa đi viện phẫu thuật. Một chiếc xe SS khác chở đầy lính đội mũ sắt màu đen đi đằng sau.

Hắn bỏ kính ra, lấy tay dụi mắt. Chà, Keitel và tên lính tham gia vào nghiên cứu đã chết rồi. “Đối tượng D” là cách Ernst nghĩ về tên lính hắn chưa từng biết tên… Cái ngày hôm nay đúng là một thảm kịch.

Dẫu vậy, có một điều ám ảnh suy nghĩ của Ernst nhất, đó là lựa chọn của gã sát thủ bên ngoài Tòa nhà số 5. Thay vì giết chết hắn một cách dễ dàng nếu muốn, mà rõ ràng đó là nhiệm vụ, gã lại đi giải cứu các thanh niên kia. Suy nghĩ về hành động này, nỗi khiếp sợ về việc Ernst đang làm đã trở nên rõ ràng. Phải, hắn đã nhận ra Nghiên cứu Waltham là nghiên cứu ghê tởm. Hắn đã nhìn thẳng vào mặt họ và nói: Phục vụ trong quân ngũ một năm, những tội lỗi của các bạn sẽ được xóa bỏ - suốt quãng thời gian đó hắn biết rằng đó chỉ là lời dối trá. Hắn đã dệt nên câu chuyện hư cấu khiến các nạn nhân thấy thoải mái, không mảy may nghi ngờ. Nhờ thế tên lính có thể làm quen với họ trước khi xuống tay sát hại.

Phải, hắn lừa anh em nhà Fischer, lừa các công nhân Ba Lan rằng họ sẽ được trả lương tăng gấp đôi nếu trồng cây gần Charlottenburg cho Thế vận hội. Hắn lừa các gia đình Do Thái ở Gatow tập hợp bên bờ sông. Ernst cùng người của hắn sẽ bảo vệ họ trước vài tên lính Xung kích phản bội ở gần đó.

Không phải Ernst thù ghét gì người Do Thái. Sát cánh chiến đấu với họ trong Thế Chiến thứ I, hắn thấy họ cũng thông minh và quả cảm như bất kỳ ai khác. Thực ra theo những người Do Thái hắn quen biết kể từ thời đó, hắn không thể nhận ra bất kỳ sự khác biệt nào giữa họ với người Aryan. Khi nghiên cứu những người Ba Lan, hắn thấy họ chẳng khác gì những người Phổ láng giềng. Nói thật, vẻ đẹp cao quý, của họ chi nhìn thấy được ở vài tên Quốc Xã.

Điều hắn đang làm với nghiên cứu này thật ghê tởm. Đáng sợ. Hắn cảm thấy nỗi nhục nhã sắc như lưỡi dao lam cuộn xoáy bên trong, như nỗi đau nhức nhối trong cánh tay khi mảnh đạn nóng rẫy xé nát vai hắn trong Thế Chiến thứ I.

Con đường lúc này đã thẳng một mạch, họ đến gần khu hắn từng sống. Ernst nhoài người ra phía trước, chỉ hướng cho tài xế lối về nhà mình.

Ghê tởm, phải…

Và lúc này… khi nhìn xung quanh những tòa nhà quen thuộc, các quán cà phê và công viên của một phần khu Charlottenburg, nỗi kinh hoàng bắt đầu âm ỉ hệt như nó vừa xảy ra trên chiến trường sau khi khẩu Mauser hoặc Enheld cuối cùng đã bắn hết, những loạt súng đại bác đã ngừng, những tiếng khóc than của người lính bị thương đã câm bặt. Hắn nhớ lại tối nay lúc đứng nhìn ‘tên sĩ quan tuyển mộ’. Đối tượng D, đã sẵn sàng với phong cách của kỵ sĩ gắn cái ống chết người ấy vào lớp học, ngay cả khi vừa mới trước đó hắn ta vẫn còn chơi bóng với các nạn nhân. Nếu là tên lính khác, có thể hắn ta đã cự tuyệt hoàn toàn. Giá mà không chết, những câu trả lời của hắn ta trên bảng câu hỏi của lão Giáo sư-Tiến sĩ hẳn sẽ cực kỳ hữu ích, giúp thiết lập tiêu chí chúng sẽ dùng để gắn bó những người lính với bổn phận.

Điểm yếu hắn đã cảm thấy một phút trước đó, sự hối hận được thúc đẩy từ lựa chọn của tên sát thủ, sẵn sàng từ bỏ bổn phận đã đột ngột biến mất. Một lần nữa, hắn tin rằng mình đang làm điều đúng đắn. Hãy cứ để Hitler cố gắng với sự điên rồ của y. Phải, vài người vô tội sẽ chết cho đến khi cơn bão này lắng xuống, nhưng cuối cùng Lãnh tụ sẽ qua đời trong khi quân đội Ernst đang tạo ra vẫn sống, trở thành xương sống của vinh quang một nước Đức mới - về cơ bản là vì một nền hòa bình Châu Âu mới.

Phải có những sự hy sinh.

Ngày mai, Ernst sẽ bắt đầu tìm kiếm một bác sĩ tâm lý, hoặc một Giáo sư-Tiến sĩ khác có thể giúp hắn tiếp tục công trình. Và lần này, hắn sẽ tìm một người phù hợp với tinh thần của Chủ nghĩa Quốc Xã hơn Keitel - vì Chúa, ông bà hắn không phải là người Do Thái. Ernst phải thông minh hơn. Đây là một khoảnh khắc của lịch sử khi người ta phải thông thái hơn.

Xe tấp vào lề trước cửa nhà. Ernst cảm ơn tài xế rồi xuống xe. Những tên quân nhân SS trong chiếc xe phía sau cũng xuống xe, gia nhập cùng những tên khác đang bảo vệ nơi ở của hắn. Tên tư lệnh nói chúng sẽ ở đây cho đến khi tên sát thủ bị bắt, hoặc có thể được chứng minh rằng gã đã bị giết hoặc trốn khỏi đất nước. Ernst cũng lịch sự cảm ơn tư lệnh rồi bước vào trong nhà. Hắn chào đón Gertrud bằng một nụ hôn. Cô liếc nhìn sợi cỏ và đám bùn dính trên quần hắn.

“Ôi, anh đúng là vô dụng, Reinie!”

Chẳng buồn giải thích, hắn mỉm cười buồn bã. Cô quay trở lại bếp với món nướng gì đó ngát hương thơm của giấm và tỏi. Ernst lên gác rửa ráy và thay quần áo. Hắn thấy đứa cháu trai trong phòng mình, đang vẽ trên một tập giấy.

“Ông nội!” thằng bé reo lên, chạy về phía hắn.

“Chào, Mark. Tối nay chúng ta sẽ lắp nốt thuyền chứ?”

Thằng bé không đáp, Ernst thấy nó đang nhíu mày.

“Có chuyện gì thế?”

“Ông nội, ông vừa gọi cháu là Mark. Đó là tên bố cháu.”

Có đúng thế không? “Ông xin lỗi, Rudy. Ông đã không suy nghĩ. Hôm nay, ông rất mệt mỏi, ông nghĩ rằng mình cần ngủ trưa.”

“Vâng, cháu cũng đi ngủ trưa,” thằng bé háo hức nói, hạnh phúc khi làm ông nó vui lòng vì kiến thức của mình. “Đôi khi vào buổi trưa cháu cũng mệt mỏi. Mẹ cháu cho cháu uống sữa nóng, đôi khi là ca cao và rồi cháu lại ngủ.”

“Chính xác. Đó chính là những gì ông đang cảm thấy. Ông đã có một ngày dài và cần phải ngủ. Bây giờ, cháu chuẩn bị gỗ và dao sẵn sàng đi. Sau bữa tối chúng ta sẽ cùng lắp thuyền.”

“Vâng, ông nội. Cháu làm luôn đây.”

Gần đến 3 giờ chiều, Bull Gordon bước lên các bậc thềm vào Phòng Thẩm vấn tại Manhattan. Thành phố khá nhộn nhịp và sôi động tại các khu vực khác ngay cả vào Chủ nhật, nhưng ở đây, con phố vẫn tĩnh lặng.

Các rèm cửa vẫn đóng, ngôi nhà trong thành phố có vẻ như bị bỏ hoang. Nhưng hôm nay khi Gordon mặc trang phục thường dân đến gần, chưa kịp rút chìa khóa ra khỏi túi thì cửa trước đã bật mở. “Xin chào ngài,” tay sĩ quan hải quân không mặc đồng phục nói bằng chất giọng mềm mại.

Gordon gật đầu.

“Ngài Thượng nghị sĩ trong phòng khách, thưa ngài.”

“Một mình à?”

“Thưa vâng.”

Gordon vào nhà, cởi áo bành tô vắt lên móc trong tiền sảnh. Ông cảm nhận được vũ khí ở trong túi áo. Có khả năng ông sẽ không cần đến nó, nhưng ông thấy vui vì mang nó theo. Ông hít một hơi sâu, bước vào căn phòng nhỏ.

Thượng Nghị sĩ ngồi trong ghế bành cạnh một ngọn đèn sàn Tiffany. Ông ta đang lắng nghe đài Philco. Thấy Gordon, ông ta tắt đài và hỏi, “Chuyến bay mệt không?”

“Lúc nào chẳng mệt. Có lẽ thế.”

Gordon bước đến quầy bar tự rót cho mình một ly Scotch. Có thể đó không phải là ý hay, nhất là khi phải dùng súng. Nhưng kệ nó đi. Một ngón tay ông đặt lên ly bên cạnh, ném sang Thượng Nghị sĩ một cái nhìn dò hỏi.

“Tất nhiên. Gấp đôi của anh.” Ông ta hất đầu về cốc của Gordon.

Tay tư lệnh rót một chất lỏng đầy khói vào ly khác rồi trao cho ông. Ông nặng nề ngồi xuống. Đầu vẫn còn ong ong từ chuyến bay trên chiếc R2D-1, phiên bản hải quân của DC-2. Tốc độ tương đương nhưng không có ghế ngồi bằng liễu gai thoải mái, không có chế độ cách âm như của hãng Douglas Commercial.

Thượng Nghị sĩ mặc áo vest, gi-lê và áo sơ mi cổ cồn với cà vạt lụa. Gordon tự hỏi ông ta đã mặc gì đi lễ nhà thờ sáng hôm đó. Có lần ông ta từng bảo tay tư lệnh rằng không cần biết bản thân một chính trị gia tin vào điều gì, kể cả anh ta có là kẻ vô thần đi chăng nữa, anh ta cũng phải đi nhà thờ. Đó là vấn đề hình ảnh. Quan trọng lắm.

Thượng Nghị sĩ nói bằng giọng khàn khàn, “Rồi. Cứ nói với tôi những gì cậu biết. Tự nhiên đi.”

Tay tư lệnh nhấp một ngụm whisky, làm theo lời ông ta đề nghị.

Berlin chìm trong bức màn đêm.

Thành phố là một khoảng không rộng lớn, phẳng lì ngoại trừ vài vết đường chân trời và đèn hiệu sân bay Tempelhof ở phía Nam. Quang cảnh này biến mất khi gã lái xe lên đỉnh đồi, khuất dạng ở phía Tây bắc yên bình của thành phố. Xe hòa vào dòng người đang trở về từ những đợt nghỉ cuối tuần, tại các ngọn núi và mặt hồ nước Phổ gần đó.

Tất cả những trở ngại này gây khó khăn khi lái xe. Paul Schumann muốn chắc chắn gã không bị cảnh sát giao thông chặn lại. Không chứng minh thư, xe tải ăn cắp… Không, điều thiết yếu là không để ai nghi ngờ.

Gã rẽ xuống một con phố dẫn đến một cây cầu qua sông Spree tiến về phía Nam. Cuối cùng, gã đã tìm thấy thứ cần tìm, một bãi đỗ xe rộng rãi, nơi hàng tá xe con và xe tải giao hàng đang đỗ. Lần đầu tiên đến thành phố này, gã đã thấy nó khi đi bộ từ Lützow Plaza đến căn nhà trọ của Käthe Richter dọc con kênh.

Giá như mọi chuyện dừng lại ở ngày hôm qua?

Gã lại nghĩ về cô. Về cả Otto Webber nữa.

Bất kể hình dung về họ khó thế nào, những hình ảnh này còn tốt hơn là tập trung vào quyết định đáng tiếc tại Waltham.

Bất kể ngày đẹp nhất hay xấu nhất, mặt trời cuối cùng vẫn lặn…

Nhưng vào một ngày thất bại như hôm nay, sẽ phải rất lâu nữa mặt trời mới lặn. Có thể sẽ chẳng bao giờ lặn.

Gã đỗ xe giữa hai xe tải lớn rồi tắt máy. Ngồi ngả lưng vào ghế, gã tự hỏi quay lại đây có phải là điên rồ không. Nhưng kết luận rằng đó có thể là nước đi thông minh. Gã sẽ không phải ở lại lâu. Avery thân thiện và Manielli khó tính chắc chắn sẽ gửi phi công cất cánh ngay lập tức đến cuộc hẹn tại sây bay nhỏ. Thêm nữa,theo bản năng gã cảm nhận được ở đây an toàn hơn bất kỳ nơi nào khác ngoài thành phố. Những con dã thú kiêu căng, ngạo mạn như bọn Quốc Xã hẳn sẽ không ngờ con mồi đang lẩn trốn ngay giữa khu vườn của chúng.

Cánh cửa bật mở, một người khác bước vào Phòng Thẩm vấn, nơi Bull Gordon và Thượng nghị sĩ đang ngồi.

Trong bộ vest trắng đã thành thương hiệu, dù ở góc độ nào trông lão cũng như một chủ đồn điền từ một trăm năm trước, Cyrus Claybom bước vào gật đầu với cả hai. Nụ cười tự nhiên nở trên gương mặt hồng hào. Lão liếc mắt và gật đầu thêm lần nữa, nhìn về tủ rượu nhưng không tiến đến gần. Lão ta là một người kiêng rượu. Bull Gordon biết điều này.

“Ở đây có cà phê không?” Clayborn hỏi.

“Không.”

“À.” Claybom để cây gậy chống dựa vào tường gần cửa ra vào, rồi nói, “Các ông chỉ gọi tôi đến đây khi các ông cần tiền, tôi nghi ngờ hôm nay các ông gặp tôi không phải vì tiền.” Lão nặng nề nói. “Là một chuyện khác đúng không?”

“Là một chuyện khác,” Gordon nhắc lại. “Người của ông đâu?”

“Vệ sĩ của tôi à?” Claybom nghiêng đầu.

“Đúng vậy.”

“Trong xe ngoài kia.”

Thấy nhẹ nhõm khi ông ta cuối cùng không cần đến súng ngắn - vệ sĩ của Claybom là kẻ nguy hiểm có tiếng - Gordon đã gọi một trong ba lính hải quân đứng chờ tại văn phòng gần cửa trước, dặn anh ta phải làm thằng cha này ở yên trong xe limo, không cho phép hắn bước vào trong nhà. “Cứ dùng vũ lực nếu muốn.”

“Vâng, thưa ngài. Đó là nhiệm vụ của tôi, thưa ngài.”

Gordon gác máy, nhìn lão tài phiệt cười thầm. “Đừng nói với tôi chuyện này liên quan đến súng đạn, ngài Tư lệnh.” Khi viên sĩ quan không nói gì, Claybom hỏi, “Vậy các ông muốn bàn với tôi chuyện gì?”

“Một người tên Albert Heinsler,” Gordon đáp.

“Ai thế?”

“Anh phải biết chứ,” Thượng Nghị sĩ làu bàu. “Hắn đã lên tàu Manhattan vì anh.”

Gordon nói tiếp. “Chắc chắn bọn Phát xít rất thông minh, nhưng chúng tôi thắc mắc - tại sao chúng lại cài gián điệp lên tàu? Tôi thấy chuyện này thật ngớ ngẩn. Chúng tôi biết Heinsler có tham gia sư đoàn Jersey của Liên bang Mỹ Đức, nên chúng tôi đã đề nghị Hoover gây sức ép lến tổ chức đó.”

“Chẳng lẽ cái thằng đồng tính ấy rảnh lắm sao?” Claybom càu nhàu.

“Chúng tôi phát hiện anh là người đóng góp lớn cho tổ chức.”

“Thì phải biết cách sử dụng tiền chứ,” lão lém lỉnh nói, khiến Gordon càng ghét cay ghét đắng lão hơn trước. Tên tài phiệt nói tiếp, “Heinsler là tên hắn, đúng không? Chẳng biết được. Hắn chỉ lên tàu nhằm mục đích giám sát Schumann, và gửi tin nhắn đến Berlin rằng một tên người Nga sắp vào thành phố. Cần phải báo cho người Đức luôn cảnh giác. Sao cho khoản tiền nhỏ của chúng ta trở nên có giá trị hơn,, ông biết đấy. Tất cả là một phần của kế hoạch.”

“Làm sao anh quen biết Taggert?”

“Phục vụ cùng với tôi trong Thế chiến thứ I. Đã hứa sẽ tặng cho hắn vài vị trí ngoại giao nếu giúp tôi ra khỏi đây.”

Thượng Nghị sĩ lắc đầu. “Chúng tôi không hiểu bằng cách nào anh mò ra các mật khẩu.” Ông ta bật cười, hất đầu về phía Gordon. “Ban đầu tư lệnh đây nghĩ rằng tôi là kẻ bán đứng Schumann. Mà cũng chẳng sao. Điều đó cũng chẳng làm tôi mất cọng lông nào. Nhưng rồi Bull nhớ ra các công ty của anh - anh kiểm soát từng đường dây điện thoại, điện tín trên Bờ Đông. Anh đã sai người lắng nghe khi tôi gọi cho tư lệnh để cùng chốt các mật mã.”

“Chuyện ngớ ngẩn. Tôi…”

Gordon nói, “Một người của tôi đã kiểm tra các hồ sơ của công ty anh, Cyrus. Anh đã ghi âm được nhiều cuộc nói chuyện giữa ngài Thượng Nghị sĩ và tôi. Anh đã tìm ra mọi điều về chúng tôi.”

Claybom nhún vai, tỏ vẻ thích thú hơn là lo âu. Điều đó trái lại khiến Gordon tức điên, tay tư lệnh bèn ngắt lời, “Chúng tôi biết hết rồi, Claybom.” Ông giải thích làm sao ý tưởng giết Reinhard Ernst ban đầu xuất phát từ tên tài phiệt này, kẻ đã đề nghị chuyện này lên Thượng Nghị sĩ. Bổn phận ái quốc, lão ta nói vậy. Lão giúp tài trợ cho vụ ám sát. Chết tiệt, lão ta tài trợ cho cả quá trình. Thượng Nghị sĩ đến gặp những nhân vật nhất định giữ trọng trách cao trong chính quyền, họ đều phê chuẩn nhiệm vụ này một cách kín đáo. Tuy nhiên Claybom đã bí mật gọi cho Robert Taggert, ra lệnh cho hắn giết Morgan, gặp gỡ Schumann rồi giúp đỡ anh ta lập mưu giết Ernst, rồi cứu mạng tên Đại tá Đức vào phút cuối cùng. Khi Gordon đến gặp lão để xin thêm vài nghìn đô nữa, Claybom vẫn tiếp tục giả vờ người mà Gordon đang nói đến là Morgan, không phải Taggert.

“Tại sao với ngài khiến Hitler hạnh phúc lại quan trọng thể?” Gordon hỏi.

Claybom chế giễu. “Ông đúng là thằng ngu nếu tảng lờ đi mối đe dọa của bọn Do Thái. Chứng đang lập mưu trên toàn thế giới này. Chưa nói đến bọn Cộng sản. Và vì Chúa, cả bọn da màu nữa? Chúng ta không thể lơ là cảnh giác dù chỉ là một phút.”

Gỏdon cảm thấy thật ghê tởm và ngắt lời, “Vậy ra đó là lý do cho tất cả chuyện này à? Người Do Thái và người Da màu sao?”

Nhưng lão chưa kịp trả lời, Thượng Nghị sĩ xen vào, “À, tôi dám cá rằng còn một chuyện nữa đấy, Bull… Tiền, đúng không Cyrus?”

“Chuẩn!” lão thì thầm. “Người Đức nợ chúng ta hàng tỉ đồng - tất cả các khoản vay chúng ta lưu hành để giúp đỡ họ suốt mười lăm năm qua. Chúng ta phải khiến Hitler, Schacht cùng mấy thằng trai bao còn lại hạnh phúc, để chúng còn trả lại tiền cho chúng ta.”

“Chúng đang tái thiết để bắt đầu cuộc chiến tranh khác,” Gordon lẩm bẩm.

Clayborn thản nhiên nói, “Thế thì chúng ta thuận lợi đủ đường rồi, hai người không nghĩ thế à? Thị trường lớn hơn cho vũ khí của chúng ta.” Lão chỉ một ngón tay vào Thượng Nghị sĩ. “Miễn là những thằng ngu của ông trong Quốc hội dỡ bỏ cái Luật Trung lập…” Rồi lão cau mày. “Vậy người Đức nghĩ gì về vụ của Ernst?”

“À, thì đó là một đống hỗn độn chết tiệt,” Thượng Nghị sĩ phẫn nộ. “Taggert báo cho chúng về vụ ám sát, nhưng tên giết người đã tẩu thoát và cố ám sát lần nữa. Rồi Taggert biến mất. Ngoài mặt chúng ta đang nói phía Nga thuê một tên sát thủ người Mỹ. Nhưng chúng đang bí mật tự hỏi có phải chúng ta đứng đằng sau mọi chuyện không.”

Claybom nhăn nhó khó chịu. “Còn Taggert?” Rồi lão gật đầu. “Ngoẻo rồi. Chắc luôn. Chính Schumann đã làm việc đó. Đó là cách mọi chuyện… Vậy đấy, các quý ông, tôi cho rằng đây là dấu chấm hết cho mối quan hệ hợp tác tốt đẹp của chúng ta.”

“Reggie Morgan đã chết chỉ vì anh… Anh liên quan tới những tội ác cực kỳ tồi tệ ở đây, Cyrus.”

Người đàn ông nhướn một bên lông mày hắng. “Thế hai người đã tài trợ cho chuyến du lịch ngắn ngủi này bằng tiền túi ra sao? À, đây sẽ là một chủ đề hay ho cho một phiên điều trần trước Quốc hội, hai người có nghĩ thế không. Có vẻ như chúng ta có một thế cân bằng ở đây. Thế nên tôi đang nghĩ tốt nhất, cả hai bên đường ai nấy đi và không nói năng gì cả. Giờ thì chúc ngủ ngon. À nhớ tiếp tục mua cổ phần trong công ty của tôi, nếu các công chức của hai người đủ tiền. Sẽ chỉ ngày càng tăng lên thôi.” Claybom chậm rãi đứng dậy. Lão lấy cây gậy rồi thẳng tiến ra cửa.

Gordon quyết định rằng bất chấp hậu quả là gì, bất chấp chuyện gì xảy ra đối với sự nghiệp của chính mình, ông phải chắc chắn không để Clayborn trốn thoát khỏi chuyện này, không thể trốn thoát sau khi hắn đã giết chết Reginald Morgan và suýt giết Schumann. Nhưng công lý thích đáng hơn sẽ phải đợi. Chỉ còn một vấn đề cần phải chú ý ngay bây giờ. “Tôi muốn có tiền của Schumann,” tư lệnh nói.

“Tiền gì?”

“Mười ngàn anh đã hứa cho hắn.”

“Ồ. Hắn đã có thành quả gì đâu. Người Đức nghi ngờ chúng ta, còn người của tôi thì chết. Trong khi Schumann may mắn trốn thoát. Không có tiền đâu.”

“Anh sẽ không lừa hắn đấy chứ.”

“Xin lỗi,” tên tài phiệt nói, không tỏ ra một chút ăn năn.

“Trong trường hợp đó, Cyrus,” Thượng Nghị sĩ gọi với, “chúc may mắn.”

“Chúng tôi sẽ luôn chúc anh may mắn,” Gordon nói thêm.

Tên tài phiệt dừng chân, quay lại nhìn.

“Tôi chỉ đang nghĩ chuyện gì có thể xảy ra, nếu Schumann phát hiện ra anh không chỉ cố giết hắn, mà còn lừa hắn nữa.”

“Anh biết chuyên môn của hắn là gì rồi đấy,” Gordon lại ngân nga.

“Các anh sẽ không dám đâu.”

“Hắn sẽ quay về đây trong vòng một tuần, mười ngày đấy.”

Tên tài phiệt thở dài. “Được rồi, được rồi.” Lão thọc tay vào túi, rút ra một cuốn sách nhỏ gồm các hối phiếu ngân hàng. Lão xé ra một tờ rồi bắt đầu viết.

Gordon lắc đầu. “Không. Ngay bây giờ anh đang đối đầu với một tên khác, thích chơi theo kiểu cũ. Trả ngay đi. Chứ không phải là tuần tới đâu.”

“Tối Chủ nhật nhé? Mười ngàn?”

“Ngay bây giờ,” Thượng Nghị sĩ nhắc lại. “Nếu Paul Schumann muốn tiền mặt, chúng ta sẽ cho hắn tiền mặt.”