CHƯƠNG 43
Họ phát ốm vì đợi chờ.
Trong suốt kỳ nghỉ cuối tuần tại Amsterdam, các Trung úy Andrew Avery và Vincent Manielli đã thấy những bông tu-lip với mọi sắc màu chỉ có trong tưởng tượng, nhìn ngắm rất nhiều các bức họa đẹp tuyệt vời, tán tỉnh các nàng tóc vàng phục vụ ở nhà hàng với khuôn mặt tròn trịa, hồng hào (ít nhất là với Manielli thôi, Avery thỏa mãn với cuộc hôn nhân của cậu ta). Họ thích thú làm bạn với một phi công Không lực Hoàng gia bảnh bao có tên Len Aarons. Hiện cậu ta vẫn đang ở trong nước thực hiện những nhiệm vụ ngầm (về khoản này cậu ta cũng hay lảng tránh hệt hai tay người Mỹ). Họ cùng uống mấy lít bia Amstel và nốc đến chán ngấy rượu Genever.
Nhưng cuộc sống tại căn cứ quân sự xa lạ nhanh chóng hết hứng thú. Nói thật là họ cũng mệt khi lòng dạ lúc nào cũng như lửa đốt, không ngừng lo lắng cho Paul Schumann.
Cho dù lúc này sự chờ đợi đã chấm dứt. Vào lúc 10 giờ sáng thứ Hai, chiếc máy bay hai động cơ, có hình dáng như con chim mòng biển, nhấp nháy một lúc rồi hạ xuống mặt cỏ trên Sân bay nhỏ Machteldt bên ngoài Amsterdam. Máy bay hạ cánh bằng bánh đuôi cố định rồi giảm tốc chạy vào ga ra, lượn thành vòng zic-zac vì phi công không thể nhìn qua mũi máy bay nhô lên khi ở trên mặt đất.
Avery giơ tay lên vẫy chiếc phi cơ bóng mượt, màu bạc tiến về phía mình.
“Tớ nghĩ mình sẽ làm vài hiệp với anh ta,” Manielli quát lên át tiếng động cơ và tiếng cánh quạt.
“Với ai cơ?” Avery hỏi.
“Schumann. Đấu với anh ta vài trận quyền anh. Tớ đã xem anh ta chơi rồi, anh ta không giỏi được như anh ta nghĩ đâu.”
Tay trung úy nhìn cậu bạn đồng nghiệp, phá lên cười.
“Gì chứ?”
“Anh ta sẽ đập nát cậu như một hộp bắp rang bơ, rồi to mồm đòi giải thưởng cho xem.”
“Tớ trẻ hơn và nhanh hơn.”
“Cậu ngu hơn thì có.”
Máy bay nhẹ nhàng lướt đến đường băng, phi công tắt máy. Cánh quạt ngừng quay. Các nhân viên mặt đất vội chạy đến khóa bánh máy bay to đùng của Hãng Pratt & Whitneys.
Hai trung úy bước đến cửa máy bay. Họ đã vắt óc nghĩ ra món quà nên tặng Schumann. Manielli nói, “Bọn mình sẽ nói rằng bọn mình đã cho anh ta hưởng chuyến bay đầu tiên trong đời. Đó sẽ là món quà tặng anh ta.”
Nhưng Avery lại nói, “Không. Cậu không thể nói với ai đó một thứ cậu đã làm cho họ là quà tặng được.”
Manielli cho rằng cậu trung úy sẽ hiểu điều này, những người đàn ông đã có gia đình sẽ hiểu hết những nghi thức tặng quà. Thế nên họ đã mua tặng gã một hộp bao cao su Packs o’Pleasure - Chesterfields - mà họ phải tốn chút công sức và tiền bạc để tìm kiếm tại Hà Lan. Manielli lúc này kẹp cái hộp dưới nách.
Một trong số các nhân viên mặt đất bước đến cửa máy bay, kéo xuống thành cầu thang. Hai tay trung úy bước lên phía trước, cười toe toét nhưng nhanh chóng khựng lại khi trông thấy một thanh niên mới hai mươi tuổi, mặc quần áo bẩn thỉu bước ra ngưỡng cửa, cúi khom người để tránh cụng đầu.
Anh ta chớp mắt, giơ tay lên che ánh nắng mặt trời rồi bước xuống cầu thang. “Chào buổi sáng… Cứ tự nhiên nhé. Tên tôi là Georg Mattenberg." Anh ta mở rộng vòng tay nhiệt thành ôm chầm lấy Avery. Rồi bước qua cậu ta, anh ta đưa tay lên dụi mắt như thể vừa mới dậy.
“Thằng quái nào đấy”. Manielli thì thầm.
Avery nhún vai rồi nhìn trừng trừng cửa máy bay, khi mấy thanh niên khác xuất hiện. Có cả thảy năm người. Tất cả đều tầm hai mươi tuổi, thậm chí là vừa qua tuổi thiếu niên, thể hình khá ổn, nhưng đều kiệt sức với đôi mắt mệt mỏi, râu ria lởm chởm, quần áo rách tơi tả, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
“Nhầm máy bay rồi,” Manielli thì thầm. “Chúa tôi, thế…”
“Đúng máy bay này mà,” cậu bạn sĩ quan ngắt lời, nhưng cũng bối rối không kém.
“Trung úy Avery phải không?” một giọng nói mang trọng âm nặng cất lên từ ngưỡng cửa. Một người đàn ông lớn hơn mấy thanh niên kia vài tuổi. Thêm một người khác trẻ hơn đi cùng anh.
“Vâng, là tôi. Anh là ai?”
“Tôi nói tiếng Anh tốt hơn những người kia, tôi sẽ trả lời. Tôi là Kurt Fischer và đây là em trai tôi, Hans.” Phá lên cười trước vẻ mặt của hai cậu trung úy, anh nói tiếp, “Phải, phải, người các anh đang đợi không phải chúng tôi. Nhưng Paul Schumann đã cứu chúng tôi.”
Anh kể câu chuyện Schumann đã cứu mười hai thanh niên khỏi sự đầu độc bằng hơi ngạt của Phát xít. Tay người Mỹ đã cố gắng tập hợp đám thanh niên lại khi họ chạy trốn vào rừng, đề nghị cho họ một cơ hội trốn khỏi đất nước. Vài người muốn ở lại và tận dụng cơ hội của họ, chỉ có bảy người đồng ý bỏ đi gồm cả anh em nhà Fischer. Schumann đã mang họ theo trên thùng xe tải Dịch vụ Lao động, nơi họ nắm chặt mấy cái xẻng, túi vải bao bố và hóa trang thành công nhân. Gã đã đưa họ qua được chốt kiểm soát an toàn tới Berlin nơi họ lẩn trốn qua đêm.
“Vào lúc bình minh, anh ấy đưa chúng tôi đến một sân bay nhỏ ngoài thành phố, nơi chúng tôi lên chiếc máy bay này. Và giờ chúng tôi ở đây.”
Avery vừa định hỏi dồn dập anh ta thêm nhiều câu nữa, thi đúng lúc này một người phụ nữ xuất hiện trên ngưỡng cửa máy bay. Cô khoảng chừng bốn mươi tuổi, khá mảnh mai và cũng mệt mỏi như những người khác. Một tay cô xách va li nhỏ, tay kia cầm theo một cuốn sách đã xé rách bìa.
“Chào cô,” Avery nói, ném về phía những người kia lẫn người đồng đội cái nhìn dò hỏi.
“Cậu là Trung úy Avery phải không? Hay có lẽ cậu là Trung úy Manielli?” Tiếng Anh của cô thật hoàn hảo mang theo trọng âm rất nhẹ.
“Tôi… à vâng, tôi là Avery.”
Người phụ nữ nói, “Tên tôi là Käthe Richter. Cái này gửi cho cậu.”
Cô trao cho cậu một lá thư, cậu ta mở ra và huých nhẹ Manielli. Cả hai cùng đọc:
Gửi Gordon, Avery và Manelli (hoặc mấy cậu đánh vần thế quái nào cũng được):
Hãy đưa những người này đến Anh hay Mỹ hoặc bất kỳ nơi đâu họ muốn đến. Tìm nhà cho họ, giúp họ ổn định cuộc sống. Tôi không cần biết các cậu làm thế nào, nhưng hãy chắc chắn rằng các cậu làm được.
Và nếu các cậu nghĩ đến chuyện tống họ trở vê Đức, hãy nhớ rằng Damon Runyon, hay một trong những người bạn của tôi trên tờ The Sun hoặc Washington Post sẽ rất quan tâm đến chuyện mọi người cử tôi sang Đức làm gì. Giờ chuyện này sẽ thành bản tin cực kỳ sốt dẻo, đặc biệt là trong kỳ bầu cử.
Làm tốt lắm, các chàng trai!
Paul Tái bút: Có một người da đen đang sống trong căn phòng phía sau phòng tập thể hình của tôi, Sony Williams. Hãy chuyển nhượng chỗ này lại cho ông ây, nó vẫn còn hoạt động được đây. Và tặng ông ây chút tiền nữa. Hào phóng vào.
“Còn cái này nữa” cô nói rồi đưa cho Avery vài trang giấy rách nát đánh máy bằng tiếng Đức. “Nội dung về cái gì đó tên là Nghiên cứu Waltham. Paul nói rằng tư lệnh phải xem nó.”
Avery nhận tập hồ sơ đút vào trong túi. “Tôi chắc chắn ông ấy sẽ nhận được nó.”
Manielli bước đến chiếc máy bay. Avery đến bên cạnh, họ cùng nhìn vào buồng lái trống không. “Anh ta không tin chúng ta. Anh ta nghĩ rằng chúng ta rốt cuộc sẽ trao anh ta lại cho Dewey. Phi công đã hạ cánh đâu đó trước khi họ tới đây.”
“Cậu nghĩ có thể là Pháp không?” Manielli gợi ý. “Có thể anh ta biết điều này trong Thế Chiến thứ I… Không, tớ biết. Tớ cá đó là Thụy Sỹ.”
Đau đớn khi cho rằng Schumann tưởng họ sẽ bội ước, Avery gọi về phía buồng lái, “Này, anh đã thả anh ta xuống đâu thế?”
“Cái gì?”
“Anh đã hạ cánh xuống đâu? Thả Schumann xuống đâu?”
Viên phi công nhíu mày khi liếc nhìn buồng lái. Rồi anh ta lại nhìn Avery. Giọng anh ta vọng qua thân máy bay mỏng tang. “Ý anh là anh ta không nói gì à?”
PHẦN KẾT
Thứ Bảy, ngày 21 tháng 11 năm 1936
Một đêm lạnh giá trong khu Rừng Đen.
Hai người đàn ông chậm chạp lê bước qua lớp tuyết mỏng. Chắc chắn họ đã lạnh buốt nhưng dường như trong đầu họ đã định sẵn điểm đến, cùng một nhiệm vụ quan trọng phải làm một khi đến nơi.
Mục đích, giống như khát vọng, luôn luôn giúp xua tan sự khó chịu trong người.
Cũng như loại rượu Áo mạnh mẽ, Obstler, họ đang chia nhau tu ừng ực từ một bình nhỏ.
“Cái bụng anh sao rồi?” Paul Schumann hỏi người bạn đồng hành bằng tiếng Đức, để ý một tiếng rên nghe đặc biệt rõ trên gương mặt râu ria của anh ta.
Người kia càu nhàu, “Dĩ nhiên là đau rồi. Vẫn luôn đau, cậu John Dillinger ạ.”
Sau khi quay về Berlin, Paul đã mất nhiều công sức dò hỏi tại quán cà phê Aryan về nơi Otto Webber sinh sống. Gã muốn làm những gì mình có thể để giúp đỡ bất kỳ ai trong số những ‘cô nàng’ của anh ta. Gã đến gặp một người - Berthe - và kinh ngạc xen lẫn vui sướng khi biết Webber vẫn còn sống.
Viên đạn đã găm vào bụng anh ta tại nhà kho bên bờ sông Spree tuy nghiêm trọng, nhưng không gây chết người vì nó chỉ xuyên qua phần mềm một đoạn ngắn. Anh ta đang trôi bồng bềnh trên sông trong chiếc thuyền theo kiểu tang lễ Viking, thì có vài ngư dân đã kéo anh ta ra. Họ cho rằng anh ta vẫn còn sống bất chấp tình trạng bên ngoài. Họ đưa anh ta vào giường và giúp cầm máu. Không lâu sau đó, anh ta được gửi đến một bác sĩ trong băng nhóm cũ đã làm phẫu thuật cho anh ta, dĩ nhiên với một cái giá là không được hỏi han gì đến ông ta nữa. Chứng nhiễm trùng về sau còn tệ hơn vết thưoug. (“Những khẩu Luger,” Webber kêu ca, “Chúng mang những gì bẩn thỉu nhất của viên đạn. Mang theo cả vi trùng đấy.”) Nhưng Berthe đã đền bù cho việc vụng nấu nướng hoặc dọn dẹp nhà cửa, bằng cách trở thành một y tá tận tâm. Cùng với Paul chăm sóc cho tay anh chị người Đức này bình phục trong vài tháng.
Paul chuyển đến một căn nhà trọ khác tại một vùng bị lãng quên trong thành phố cách xa ngõ Magdeburger và Quảng trường Alexander Plaza. Gã ở ẩn tại đây một thời gian, làm mấy trận quyền anh trong các phòng tập thể hình, kiếm được vài mác ở đây đó trong các xưởng in và thi thoảng hẹn hò với vài phụ nữ địa phương: hầu hết họ đều đã từng là những người theo Chủ nghĩa Xã hội, là nghệ sĩ hoặc nhà văn phải trốn tránh tại nhiều nơi như phía Bắc Berlin và Quảng trường Tháng 11 năm 1923. Trong những tuần đầu tiên của tháng Tám, gã đều đặn đến bưu điện hoặc quảng trường để xem Thế vận hội trên các màn hình lớn truyền trực tiếp được lắp đặt tại đó dành cho những ai không có vé vào sân. Với vẻ ngoài đích thị của một kẻ Quốc Xã (mái tóc Aryan được nhuộm bạc, chỉ cần vậy thôi), gã hẳn sẽ phải ép mình thốt ra câu chửi thề vài lần khi Owens dành huy chương vàng. Tuy nhiên, hầu hết những người Đức ngồi xung quanh gã nhiệt tình chúc mừng chiến thắng của tay Da màu kia. Những Vận động viên người Đức giành nhiều huy chương vàng lại chẳng khiến họ ngạc nhiên, tuy nhiên đoàn Vận động viên người Mỹ dành nhiều huy chương vàng thứ hai. Paul rất phiền lòng khi thấy bóng ma duy nhất ám ảnh sự kiện này là những Vận động viên điền kinh người Do Thái của Mỹ, Stoller và Glickman, thực sự không được tham gia Thế vận hội này.
Sau khi Thế vận hội kết thúc và tháng Tám sắp qua, kỳ nghỉ hè của Paul cũng đến hồi kết. Quyết tâm đền bù cho sai lầm trong phán xét của mình tại Trường Đại học Quân sự Waltham, gã tiếp tục cố gắng giết tên đại diện toàn quyền về ổn định đất nước người Đức.
Tuy nhiên, hệ thống công chức hiệu quả như van thời tiết của Webber báo cáo những thông tin thú vị: Reinhard Ernst đã biến mất. Tất cả những gì họ biết được đó là văn phòng của hắn tại Phủ Thủ tướng đã bỏ không. Dường như hắn đã chuyển ra khỏi Berlin cùng gia đình, và đang dành phần lớn thời gian rong ruổi trên đường. Hắn được ban cho một chức danh mới (Paul biết rằng, như các tấm băng rôn và huy chương, các chức danh được Quốc Xã ném ra như quẳng thóc cho gà). Giờ đây Ernst là Tãnh đạo tối cao nhà nước về liên kết công nghiệp đặc biệt.
Gã không biết thêm thông tin nào khác về hắn. Phải chăng như thế nghĩa là hắn đã bị gạt ra ngoài rìa? Hay đây chỉ đơn thụần là những biện pháp an ninh nhằm bảo vệ kẻ bạo chúa về tái thiết vũ trang?
Paul Schumann không biết.
Nhưng có một điều rõ ràng. Việc xây dựng quân đội của Đức đang diễn ra với tốc độ nguy hiểm. Mùa thu năm đó, chiến đấu cơ mới, Me 109 do các phi công Đức cầm lái, đã có màn ra mắt đầu tiên tại Tây Ban Nha giúp Pháp và đội quân theo Chủ nghĩa Dân tộc của ông ta. Loại chiến đấu cơ này đã thành công rực rỡ, phá hoại rất nhiều vị trí chiến đấu của Đảng Cộng hòa. Ngày càng nhiều thanh niên Đức trẻ tuổi nhập ngũ. Các xưởng đóng tàu hải quân đang hoạt động hết công suất cho ra mắt các tàu chiến và tàu ngầm.
Nhưng vào tháng Mười, ngay cả các vùng hẻo lánh tại Berlin cũng ngày càng trở nên nguy hiểm. Ngay sau khi Otto Webber đủ khỏe mạnh cho một chuyến đi xa, anh ta đã cùng Paul lên đường.
“Đến Neustadt còn bao xa?” lúc này tay người Mỹ hỏi.
“Không xa nữa đâu. Mười cây hoặc hơn.”
“Mười cây?” Paul làu bàu. “Chúa trên Thiên đàng.”
Cho dù thực ra gã thấy mừng khi điểm đến tiếp theo của họ không ở gần đây. Tốt nhất là tăng thêm khoảng cách giữa họ với St.Margen, điểm dừng chân mới nhất của họ, nơi các sĩ quan Cảnh sát có lẽ đang tìm kiếm thi thể một tay đứng đầu Đảng Quốc Xã địa phương. Hắn đã từng là một kẻ tàn bạo. Hắn ra lệnh cho tay chân bao vây và đánh đập các thương nhân, tiến hành Aryan hóa công việc làm ăn của họ. Có không ít người mong muốn giết chết hắn, tuy nhiên theo điều tra của Cảnh sát Hình sự hoặc Gétapo cho biết, hoàn cảnh gây ra cái chết của hắn chẳng có gì đáng ngờ. Rõ ràng hắn đã dừng xe cạnh đường để thư giãn dưới sông rồi bị trượt ngã trên bờ sông băng giá. Hắn đã ngã xuống sông sâu sáu mét và đập đầu vào các tảng đá, chết đuối dưới con sông chảy xiết. Một chai rượu snap còn một nửa được tìm thấy bên cạnh hắn. Một tai nạn đáng buồn. Chẳng cần phải điều tra thêm.
Lúc này Paul cân nhắc điểm đến tiếp theo của họ. Họ đã biết Neustadt sẽ là địa điểm đọc diễn văn của một trong số những kẻ cầm đầu hữu danh vô thực của Hermann Göring, kẻ đã khởi xướng cuộc mít tinh tại Nuremberg quy mô nhỏ đang được tiến hành. Paul đã từng nghe hắn phát biểu, kích động các công dân phá hủy nhà của người Do Thái ở vùng lân cận. Hắn tự phong mình là ‘tiến sĩ’ nhưng hắn chẳng là gì ngoài một tên tội phạm cố chấp, bảo thủ, đầu óc thiển cận và là một kẻ nguy hiểm - một kẻ sẽ chứng minh rằng mình có nguy cơ ngoẻo như người đứng đầu của Đảng tại St. Margen nếu Paul và Webber ám sát thành công.
Có lẽ là một sự sụp đổ khác. Hoặc có thể hắn sẽ kéo theo cái đèn điện vào bồn tắm với mình. Như nhiều tên Lãnh tụ Quốc Xã khác, hắn có xu hướng tự bắn mình, hoặc tự treo cổ trong một cơn điên loạn. Sau Neustadt, họ sẽ chuồn thẳng về Munich. Tại đây nếu được Chúa phù hộ, Webber sẽ tìm được một trong số những ‘cô nàng’ của anh ta để họ có thể ở lại.
Những ngọn đèn pha sáng lóe lên sau lung họ, cả hai lẻn vào rừng thật nhanh và ở yên trong đó cho đền khi chiếc xe tải đi qua. Khi ánh đèn hậu biến mất tại một khúc quanh trên đường, hai người lại tiếp tục hành trình.
“Chà, cậu John Dillinger, cậu biết con đường này từng được dùng làm gì không?”
“Kể tôi nghe đi, Otto.”
“Đây là trung tâm buôn bán đồng hồ báo thức cúc cu. Nghe nói bao giờ chưa?”
“Tất nhiên. Bà nội tôi có dùng một chiếc. Ông nội tôi đã tháo hết tạ ra khỏi dây xích nên nó chết hẳn rồi. Tôi ghét cái đồng hồ chết tiệt đó. Cứ một tiếng qua đi, nó lại cúc cu, cúc cu… “
“Và đây chính là con đường các lái buôn thường dùng để mang đồng hồ ra chợ bán. Bây giờ không còn nhiều thợ đồng hồ nữa, nhưng có thời cậu sẽ thấy xe cộ nườm nượp lên xuống đường cao tốc suốt ngày đêm… Chà, nhìn đằng kia kìa. Thấy con sông đó không? Nó đổ ra sông Danube, còn các con sông phía bên kia con đường đổ ra sông Rhine. Đây là trái tim của đất nước chúng tôi. Dưới ánh trăng nó đẹp tuyệt vời đúng không?”
Gần đó, một con cú kêu lên, gió vi vu và băng giá phủ trên những cành cây giòn tan như vỏ lạc trên sàn quán rượu.
Anh ta nói đúng, Paul nghĩ, đây là một nơi tuyệt đẹp. Và trong thâm tâm gã cảm thấy sự thỏa mãn lạnh khô như lớp tuyết lâu ngày dưới gót giày. Những bước ngoặt dường như không có thật biến gã thành kẻ cư trú trên xứ sở xa lạ. Nhưng gã đã đi đến quyết định rằng xứ sở này vẫn chưa xa lạ bằng đất nước nơi xưởng in của em trai gã đang đợi gã, một thế giới gã biết mình sẽ chẳng bao giờ quay về.
Không, nhiều năm trước gã đã bỏ lại cuộc đời ấy sau lưng, bỏ lại bất kỳ hoàn cảnh nào liên quan đến một nghề kiếm ăn khiêm tốn, một ngôi nhà ván lợp gọn gàng, một người vợ sáng ngời, đáng yêu với những đứa trẻ tinh nghịch. Nhưng điều này hoàn toàn tốt đối với gã. Paul Schumann chẳng mong muốn gì hơn những thứ mình đã có vào lúc này: bước đi dưới ánh mắt e thẹn của vầng trăng khuyết, với một người bạn đồng hành dễ tính trên một hành trình hoàn thành mục đích Chúa đã ban tặng cho gã - ngay cả nếu đó là một sứ mệnh khó khăn và táo bạo để chỉnh sửa lại những sai lầm của Chúa.