Chương 28
Một tuần trước ngày 15 tháng Tư, những kẻ nghiện việc ở Bendini, Lambert & Locke đạt tới đỉnh điểm của sự căng thẳng và mở hết tốc lực chỉ nhờ vào adrenaline. Và cả nỗi sợ hãi nữa. Sợ bỏ sót một khoản khấu trừ, một khoản xóa sổ, một khoản khấu hao quá mức khiến cho một thân chủ giàu có phải tốn kém thêm một triệu nữa hay cỡ đó. Sợ phải nhấc điện thoại, gọi cho thân chủ và thông báo rằng khoản thu về nay đã hoàn thành và, rất tiếc, phải chi thêm một khoản dôi ra là tám trăm ngàn. Nỗi sợ không hoàn thành xong trước ngày mười lăm và buộc phải xin gia hạn và chịu phạt, chịu lãi suất. Bãi đậu chật kín vào lúc 6 giờ sáng. Các thư ký làm việc mười hai giờ mỗi ngày. Có rất ít chỗ cho tâm trạng. Việc trò chuyện là hiếm hoi và luôn luôn trong vội vã.
Không còn vợ để trở về, Mitch làm việc hai mươi bốn trên hai mươi bốn. Sonny Capps đã chửi bới và mắng nhiếc Avery vì ông ta còn nợ thuế 450.000 đô la trên khoản thu nhập kiếm được là sáu triệu. Avery bèn quay sang chửi bới Mitch và họ cùng nhau cày cuốc lại các hồ sơ của Capps, vừa đào bới vừa chửi rủa. Mitch đã tạo được hai khoản xóa số rất đáng ngờ, giúp hạ mức thuế xuống còn 320.000 đô la. Capps nói ông ta đang cân nhắc tìm một hãng luật mới. Một hãng ở Washington.
Phải đi vắng sáu ngày, Capps đòi một cuộc họp khẩn với Avery tại Houston. Chiếc Lear đang rảnh rỗi và Avery lên đường vào lúc nửa đêm. Mitch lái xe chở ông ra sân bay, nhận các chỉ đạo của ông dọc đường.
Không lâu sau 1 giờ 30 sáng, anh trở về văn phòng. Ba chiếc Mercedes, một BMW và một Jaguar nằm rải rác ở bãi đậu. Bảo vệ mở cửa sau và Mitch lên thang máy đến tầng bốn. Như thường lệ, Avery đã khóa cửa văn phòng của ông. Cửa phòng của các đối tác luôn luôn khóa. Ở cuối hành lang có thể nghe thấy một giọng nói. Victor Milligan, người đứng đầu về thuế vụ, đang ngồi ở bàn làm việc, nói những lời xấu xí vào chiếc máy tính của ông ta. Các văn phòng khác đều tối đen và khóa chặt.
Mitch nín thở, nhét một chìa khóa vào cửa của Avery. Tay nắm xoay, và anh đã ở bên trong. Anh bật toàn bộ các đèn rồi đi đến chiếc bàn họp, nơi anh và vị đối tác của anh thường làm việc vào ban ngay và phần lớn các ban đêm. Các hồ sơ được chất lên như gạch quanh những chiếc ghế. Giấy tờ nằm vương vãi khắp nơi này nơi nọ. Các cuốn sách và quy định của IRS nằm chồng chất lên nhau. Mitch ngồi vào bàn và tiếp tục bản nghiên cứu của anh về Capps. Theo sổ tay của FBI, Capps là một doanh nhân hợp pháp đã sử dụng dịch vụ của hãng trong ít nhất tám năm qua. Các Fibbie đã không quan tâm đến Sonny Capps.
Sau một giờ, cuộc trao đổi dừng lại, Milligan đóng cửa rồi khóa lại. Ông đi ra lối cầu thang mà không nói lời tạm biệt. Mitch nhanh chóng kiểm tra từng văn phòng ở tầng bốn, rồi đến tầng ba. Tất cả đều trống người. Lúc này đã gần 3 giờ sáng.
Cạnh các kệ sách trên một bức vách trong văn phòng của Avery, bốn tủ hồ sơ bằng gỗ sồi cứng cáp nằm chơ vơ. Mitch đã để ý đến chúng từ nhiều tháng, nhưng chưa bao giờ thấy chúng được sử dụng. Nhưng hồ sơ đang làm việc được cất giữ trong ba chiếc tủ bằng sắt gần cửa sổ. Các thư ký vẫn hay lục lọi chúng, thường là khi Avery quát tháo họ. Anh khóa cửa rồi bước đến các tủ gỗ sồi. Chúng bị khóa, dĩ nhiên. Anh lựa ra hai chiếc chìa khóa nhỏ, mỗi chiếc dài khoảng hai phân. Chiếc đầu tiên khớp với tủ đầu, và anh mở nó ra.
Từ bản kiểm kê ở Nashville của Tammy về hoạt động buôn lậu, anh đã ghi nhớ nhiều cái tên công ty ở Cayman vận hành bằng tiền bẩn chưa rửa. Bằng ngón cái, anh lật giở nhanh các hồ sơ ở ngăn trên cùng, và những cái tên nhảy xổ ra. Dunn Lane, Ltd., Eastpointe, Ltd., Virgin Bay, Ltd., Inland Contractors, Ltd., Gulf-South, Ltd. Anh tìm ra thêm nhiều cái tên quen thuộc trong các ngăn thứ hai và thứ ba. Các hồ sơ đầy ắp những tài liệu cho vay từ các ngân hàng Cayman, các ghi chép về chuyển tiền điện tử, chứng từ đảm bảo, hợp đồng cho thuê, chứng từ thế chấp và hàng ngàn những giấy tờ khác. Anh đặc biệt quan tâm đến Dunn Lane và Gulf-South. Tammy đã ghi lại một lượng tài liệu đáng kể của hai công ty này.
Anh nhặt ra bản hồ sơ của Gulf-South với đầy ắp những giao dịch điện tử và tài liệu cho vay từ Royal Bank of Montreal. Anh bước đến chiếc máy photocopy ở giữa tầng bốn rồi bật nó lên. Trong khi chờ nó nóng máy, anh liếc nhìn quanh, làm mặt tỉnh. Nơi này im như thóc. Anh nhìn dọc trần nhà. Không có camera. Anh đã kiểm tra điều này nhiều lần trước đây. Đèn báo SỐ TRUY CẬP sáng lên, và anh nhấn số hồ sơ của bà Lettie Plunk. Bản khai thuế của bà ta đang nằm trên bàn anh ở tầng hai, và nó có thể giúp tiết kiệm vài bản sao. Anh đặt các nội dung lên khay tự động, và ba phút sau hồ sơ đã được sao ra. Một trăm hai mươi tám bản sao, tính tiền cho Lettie Plunk. Trở lại tủ hồ sơ, rồi trở lại máy phocopy với xấp bằng chứng khác của Gulf-South. Anh nhấn số truy cập vào hồ sơ của Greenmark Partners, một công ty phát triển bất động sản tại Bartlett, Tennessee. Những thân chủ hợp pháp. Bản khai thuế đang ở trên bàn của anh và có thể giúp tiết kiệm vài bản sao, chính xác là chín mươi mốt.
Mitch có mười tám bản khai thuế trên bàn làm việc của anh đang chờ được ký và đệ trình. Với sáu ngày để ra đi, anh đã hoàn tất công việc tối hậu của anh. Toàn bộ mười tám hồ sơ đều tự động ghi hóa đơn sao chép cho Gulf-South và Dunn Lane. Anh đã ghi lại số truy cập của chúng lên một tờ ghi nhớ, và nó đã nằm trên chiếc bàn cạnh máy photocopy. Sau khi sử dụng mười tám con số, anh truy cập bằng ba con số mượn từ các hồ sơ của Lamar và ba con số mượn từ các hồ sơ của Capps.
Một dây nối chạy từ máy photocopy qua một lỗ trên tường, rồi đi vào một phòng kho, nơi nó được nối với ba máy photocopy khác ở tầng bốn. Đường dây, lúc này đã lớn hơn, chạy xuống qua trần nhà rồi chạy dọc theo chân tường đến phòng tính tiền ở tầng ba, nơi một máy tính ghi nhận và lập hóa đơn cho từng bản sao thực hiện bên trong hãng. Một sợi dây nhỏ màu xám, trông vô thưởng vô phạt, chạy từ máy tính lên tường rồi xuyên qua trần đến tầng năm, nơi một máy tính khác ghi lại mã truy cập, số lượng bản sao và vị trí của chiếc máy tạo ra mỗi bản sao.
Lúc 5 giờ chiều ngày 15 tháng Tư, Bendini, Lambert & Locke đóng cửa. Đến 6 giờ, bãi đậu trống lốc, và những chiếc xe mắc tiền tái tập hợp cách đó ba cây số, phía sau một nhà hàng hải sản bề thế có tên là Anderton. Một phòng nhỏ đã được đặt chỗ cho bữa đại tiệc thường niên ngày 15 tháng Tư. Tất cả các cộng sự và đối tác tại vị đều hiện diện cùng mười một đối tác đã nghỉ hưu. Những người nghỉ hưu trông rắn rỏi và nhàn hạ, những người tại vị thì phờ phạc và cáu kỉnh. Nhưng tất cả đều đang trong tinh thần lễ hội, sẵn sàng để bùng nổ. Những điều luật hà khắc về sống sạch và điều độ sẽ được lãng quên đêm hôm đó. Một điều luật khác của hãng thậm chí còn cấm tiệt mọi luật sư và thư ký làm việc trong ngày 16 tháng Tư.
Những đĩa tôm luộc và những dãy hàu ướp lạnh nằm trên những chiếc bàn kê dọc tường. Chào đón họ là một thùng phi lớn bằng gỗ chứa đá và bia Moosehead ướp lạnh. Mười két bia được đặt ở phía sau chiếc thùng phi. Roosevelt ra sức khui nắp. Đến tối muộn, ông sẽ say xỉn cùng mọi người, và Oliver Lambert sẽ gọi taxi để điệu ông về nhà, trả lại cho bà Jessie Frances. Đó là một thông lệ.
Em họ của Roosevelt, Little Bobby Blue Baker, ngồi ở chiếc đại dương cầm rầu rĩ hát trong khi các luật sư nạp thức ăn và thức uống. Hiện thời, ông ta là nguồn giải trí. Muộn hơn, sẽ chẳng ai cần đến ông ta nữa.
Mitch phớt lờ thức ăn, lấy một chai ướp lạnh màu xanh lục rồi đi thẳng ra bàn ở gần chiếc dương cầm. Lamar đi theo anh với một ký tôm càng. Họ nhìn các đồng nghiệp cởi áo khoác và cà vạt rồi tấn công các chai Moosehead.
“Đã xong hết việc chưa?” Lamar hỏi trong khi ngấu nghiến món tôm.
“Rồi. Tôi xong từ hôm qua. Avery và tôi làm cho Sonny Capps đến năm giờ chiều. Xong hết rồi.”
“Bao nhiêu?”
“Một phần tư triệu.”
“Ối chà.” Lamar dốc ngược chai bia, tu hết phân nửa. “Lão chưa bao giờ trả nhiều như thế, đúng không?”
“Đúng vậy, và lão đã rất phẫn nộ. Tôi chẳng hiểu nổi lão này. Lão có sáu triệu không phải trả bất kỳ khoản mạo hiểm nào, thế mà lão lại nổi điên nổi khùng vì phải trả năm phần trăm thuế.”
“Avery thế nào?”
“Ít nhiều lo lắng. Tuần trước, Capps đòi ông ta bay đến Houston và chuyến đi đó không được tốt đẹp cho lắm. Ông ta đi bằng Lear lúc nửa đêm. Sau đó có cho tôi biết Capps đã chờ sẵn tại văn phòng của lão vào lúc bốn giờ sáng, giận dữ vì cái mức thuế cao đó. Đổ hết lỗi cho Avery. Dọa sẽ đổi hãng khác.”
“Lão lúc nào mà chả nói thế. Anh uống bia nữa không?”
Lamar rời đi rồi trở lại với bốn chai Moosehead.
“Mẹ của Abby sao rồi?”
Mitch mượn một con tôm của Lamar rồi lột vỏ. “Đến nay bà ấy vẫn chưa sao. Họ cắt một lá phổi.”
“Abby thế nào?” Lamar dừng ăn, quan sát bạn của anh.
Mitch bắt đầu một chai khác. “Cô ấy ổn.”
“Coi nào, Mitch, mấy đứa nhóc nhà tôi học ở St. Andrew’s. Việc Abby xin nghỉ phép chẳng phải là điều gì bí mật cả. Cô ấy đã đi hai tuần rồi. Vợ chồng tôi biết điều đó, và chúng tôi lo lắm.”
“Mọi thứ sẽ bình thường trở lại. Cô ấy muốn xa nhà một thời gian ngắn. Chẳng có vấn đề gì lớn cả, thật đấy.”
“Coi nào, Mitch. Khi vợ anh rời nhà mà không định ngày về thì đó là một vấn đề lớn. Ít nhất cô ta đã nói chuyện đó với hiệu trưởng.”
“Đúng vậy. Cô ấy không biết khi nào về. Có lẽ khoảng một tháng nữa. Cô ấy đã có một khoảng thời gian khó khăn với giờ giấc của tôi ở văn phòng.”
Tất cả các luật sư đã hiện diện và được điểm danh, cho nên Roosevelt đóng cửa lại. Căn phòng trở nên náo nhiệt hơn. Bobby Blue hát những bài ca theo yêu cầu.
“Anh có nghĩ đến việc giảm tốc không?” Lamar hỏi.
“Không, không hẳn. Sao tôi lại phải giảm tốc chứ?”
“Coi nào, Mitch, tôi là bạn của anh mà, đúng không? Tôi lo cho anh đấy. Anh không thể kiếm được một triệu đô trong năm đầu tiên đâu.”
Có đấy, anh nghĩ. Tôi vừa kiếm được một triệu đô hồi tuần rồi. Trong mười giây, cái tài khoản be bé ở Freeport đã nhảy vọt từ mười ngàn lên thành một triệu mười ngàn. Và mười lăm phút sau, tài khoản ấy đã bị đóng và tiền đã nằm an toàn trong một ngân hàng ở Thụy Sĩ. Ôi, phép lạ của chuyển khoản điện tử. Và do cái triệu đô đó, đây sẽ là bữa tiệc 15 tháng Tư đầu tiên và duy nhất của anh trong cái sự nghiệp luật sư ngắn ngủi nhưng đáng nể. Và cái anh bạn tốt đang hết sức quan tâm đến cuộc hôn nhân của anh nhiều khả năng sẽ đi tù từ lâu trước đó cùng với tất cả những người khác trong căn phòng này, ngoại trừ Roosevelt. Quỷ tha ma bắt, Tarrance có thể sẽ hứng chí đến mức khởi tố luôn cả Roosevelt lẫn Jessie Frances ấy chứ... chỉ để cho vui thôi.
Rồi sẽ đến phiên tòa. “Tôi, Mitchell Y. McDeere, xin long trọng thề sẽ nói sự thật, toàn bộ là sự thật và chỉ sự thật. Do đó xin Chúa hạy cứu vớt con.” Và anh sẽ ngồi lên chiếc ghế nhân chứng, trỏ ngón tay vào anh bạn thân Lamar Quin. Kay và lũ nhỏ sẽ ngồi ở hàng ghế đầu, khóc rấm rức và tuyên bố kháng cáo. Anh uống hết chai bia thứ hai và bắt đầu chai thứ ba.
“Tôi biết, Lamar, nhưng tôi không có kế hoạch giảm tốc. Abby sẽ phải tự điều chỉnh. Mọi thứ rồi sẽ ổn.”
“Anh đã nói vậy thì thôi. Kay muốn mời anh đến chén một lát thịt bò rõ to vào ngày mai. Chúng ta sẽ nướng nó trên vỉ và ăn ngoài sân. Anh nghĩ sao?”
“Vâng, nhưng với một điều kiện. Không được bàn luận gì về Abby. Cô ấy về nhà thăm mẹ, và cô ấy sẽ quay lại, được chứ?”
“Tốt thôi. Dĩ nhiên.”
Avery ngồi ở phía bên kia bàn với một đĩa tôm. Ông bắt đầu lột vỏ. “Chúng tôi vừa mới nói chuyện về Capps,” Lamar nói.
“Đó không phải là một chủ đề thú vị,” Avery đáp.
Mitch chăm chú nhìn mấy con tôm cho đến khi một đám vỏ nhỏ được tích tụ từ sáu con tôm mới lột. Anh với tay qua bàn, tóm lấy chúng rồi tọng cả vào miệng. Avery nhìn anh bằng đôi mắt mệt mỏi và rầu rĩ. Một đôi mắt đỏ. Ông định có một phản ứng nào đó thích đáng, nhưng rồi lại thôi và bắt đầu ăn những con tôm chưa bóc. “Tôi thích tôm còn nguyên đầu,” ông nói giữa những nhát cắn. “Còn đầu thì ngon hơn nhiều.”
Mitch với tay qua bàn, vét hai nắm đầy rồi bắt đầu nhai rào rạo. “Tôi thì thích phần đuôi. Luôn luôn là người ăn đuôi.”
Lamar ngừng ăn, trố mắt nhìn họ. “Chắc các anh đang đùa.”
“Không đâu.” Avery nói. “Hồi tôi là một thằng nhóc ở Et Paso, chúng tôi thường mang lưới ra ngoài và vớt được cả đống tôm tươi. Chúng tôi ăn chúng tại chỗ, khi chúng còn ngoe nguẩy. Nhoam, nhoam. Đầu là phần ngon nhất vì nó chứa toàn bộ nước cốt não.”
“Tôm Ở El Paso?”
“Đúng vậy, ở Rio Grande tôm thì đầy.”
Lamar đi lấy thêm một cữ bia nữa. Sự kiệt quệ, nước mắt, căng thẳng và sự buồn ngủ hòa trộn nhanh với cồn và căn phòng trở nên náo nhiệt hơn. Bobby Blue đang chơi một bản của Steppenwolf. Ngay đến cả Nathan Locke cũng cười cợt và to tiếng. Chỉ là một trong số họ. Roosevelt bổ sung bốn két nữa vào chiếc thùng phi đá.
Lúc mười giờ, phần ca hát bắt đầu. Không đeo nơ, Wally Hudson đứng lên chiếc ghế cạnh dương cầm, dẫn dắt dàn hợp xướng những tiếng tru vào sự pha trộn ồn ào các bản nhạc chè chén của nước Úc. Nhà hàng đã đóng cửa nên ai mà quan tâm cơ chứ. Kendall Mahan là người kế tiếp. Anh ta từng chơi bóng bầu dục tại Cornell và đang có một tiết mục tuyệt vời với những bài hát bia bọt đầy phóng đãng. Năm mươi giọng ca say xỉn và không năng khiếu đang hân hoan hòa nhịp cùng anh ta.
Mitch xin cáo lui và đi vào phòng vệ sinh. Một người hầu bàn mở cửa sau và anh bước ra bãi đậu. Từ xa, tiếng hát nghe thật dễ chịu. Anh dợm bước đến chiếc xe của anh, nhưng thay vì bước đến cửa sổ xe, anh đứng lại trong bóng tối gần một góc của tòa nhà, quan sát và lắng nghe. Kendall lúc này đang chơi dương cầm, đưa dàn hợp xướng vào một điệp khúc dung tục.
Những giọng hát vui vẻ của những con người sung túc và hạnh phúc. Anh đã quan sát từng người họ quanh bàn. Khuôn mặt họ đỏ lự. Mắt họ sáng rỡ. Họ là những người bạn của anh – những người đàn ông của gia đình cùng với vợ và con cái. Tất cả đều tham gia vào cái âm mưu khủng khiếp đó.
Năm ngoái, Joe Hodge và Marty Kozinski đã hát cùng họ. Năm ngoái, anh là một ngôi sao đến từ Harvard với những thư chào việc nhét đầy các túi. Nay anh là một triệu phú, và cái đầu của anh sẽ sớm được ra giá.
Thật thú vị, một năm có thể làm thay đổi biết bao điều.
Cứ ca hát tiếp đi, hỡi những người anh em.
Mitch quay lại và đi tiếp.
Khoảng giữa đêm, những chiếc taxi nối đuôi nhau trên đường Madison, và những luật sư giàu có nhất thành phố được khuân, được kéo vào những băng ghế sau. Dĩ nhiên, Oliver Lambert là người tỉnh táo nhất trong đám, và ông cũng chính là người điều hành cuộc sơ tán.
Cả thảy là mười lăm chiếc taxi, chở theo những luật sư bét nhè nằm lăn lóc khắp nơi.
Cùng lúc đó, ở phía bên kia thành phố, trên đường Front, hai chiếc xe tải Ford nho nhỏ trờ tới trước cổng. Chúng trông na ná như nhau, màu xanh dương và vàng, với logo DUSTBUSTER sáng rỡ ở hai bên hông. Dutch Hendrix ra mở cổng rồi vẫy chúng đi qua. Chúng de lại ở cửa sau và tám người phụ nữ mặc đồng phục bắt đầu dỡ xuống các máy hút bụi và những chiếc xô chứa đầy những bình xịt. Họ đưa xuống những cây chổi, giẻ lau, cuộn giấy vệ sinh. Họ thì thầm trò chuyện khi băng qua tòa nhà. Nhận chỉ đạo từ bên trên, các nhân viên lau rửa từng tầng một, bắt đầu từ tầng bốn. Các bảo vệ đi qua đi lại trên các tầng, canh gác họ ráo riết.
Các bà các cô không đếm xỉa gì đến họ, thì thào với nhau về công việc của mình: đổ các thùng rác, lau chùi bàn ghế, hút bụi và kỳ cọ các phòng tắm. Cô gái mới đến làm lề mề hơn những người khác. Cô mải chú ý đến nhiều thứ. Cô kéo các ngăn bàn và ngăn tủ hồ sơ khi các bảo vệ không dòm ngó. Cô tập trung chú ý. Đó là đêm thứ ba cô làm công việc này, và cô đang tìm hiểu các ngõ ngách ở xung quanh. Trong đêm đầu tiên, cô đã phát hiện văn phòng của Tolar ở tầng bốn, và cô đã mỉm cười một mình.
Cô mặc một chiếc quần Jeans bẩn, xỏ đôi giày tennis sờn mòn. Chiếc áo xanh của nhân viên vệ sinh là cực rộng, để che giấu thân hình và cũng để cô trông phốp pháp giống như các nhân viên khác. Tấm thẻ gắn trên túi áo ghi tên cô là Doris. Doris, nhân viên vệ sinh.
Khi đội vệ sinh hoàn thành được phân nửa tầng hai, một gã bảo vệ gọi Doris và hai người khác, Susie và Charlotte, đi theo hắn. Hắn nhét khóa vào bảng điều khiển thang máy và nó dừng lại ở tầng hầm. Hắn mở khóa một cánh cửa sắt nặng và họ bước vào một căn phòng rộng chia thành một chục khoang. Từng bàn làm việc nhỏ đều bừa bộn và lừng lững một chiếc máy tính lớn. Khắp nơi là các thiết bị đầu cuối. Các tủ hồ sơ màu đen xếp thành dãy dọc theo các bờ tường. Không có cửa sổ.
“Dụng cụ ở trong đó,” gã bảo vệ nói, trỏ vào căn phòng kho chứa đồ vệ sinh. Họ lấy ra chiếc máy hút bụi và các bình xịt rồi bắt đầu làm việc.
“Đừng động đến các bàn làm việc,” hắn nói