← Quay lại trang sách

Chương 12 - Đường Đến Baghdad.

Quay trở lại Berlin, tại phòng của chú Nimrod ở khách sạn Adlon, trong khi John lăn quay ra ngủ vì quá kiệt sức, chú Nimrod và ông Rakshasas thức suốt đêm để nghiên cứu bản dịch bộ Bellili Scroll của ông Virgil Macreeby. Sáng hôm sau, John thức dậy với cảm giác khỏe khoắn hoàn toàn và, sau khi nạp thêm năng lượng từ khay đồ ăn sáng đồ sộ mà chú Nimrod đã đặt khách sạn mang lên tận phòng, cậu, ông Groanin, Alan và Neil cùng ngồi xuống lắng nghe kết quả nghiên cứu của hai vị djinn lớn tuổi. Có thể thấy rõ cả chú Nimrod và ông Rakshasas không lấy gì làm dễ chịu với kết quả này.

Chú Nimrod chậm rãi bắt đầu:

– Sau khi nghiên cứu bộ sách của Eno…

Ông Rakshasas giải thích thêm:

– Đó là người đã viết bộ Bellili Scroll. Quan tư tế của Bellili, vốn là người tiền nhiệm của Ishtar.

– John à, sự thật là chúng ta đã rút ra một số kết luận.

Và không phải kết luận nào cũng dễ chịu cả…

John giục giã:

– Chú cứ nói đi. Cơ hội cứu Philippa của chúng ta là gì?Ông Rakshasas gục gặc đầu và nói một cách bí hiểm:

– Con nai sừng tấm mà đi vào cửa hiệu bán nón thì chỉ tổ thu hút sự chú ý vào mình thôi.

John cáu kỉnh rên rẩm. Tất nhiên cậu luôn quý ông Rakshasas, nhưng có những lúc – và bây giờ là lúc như thế – cậu nghĩ vị djinn già không lên tiếng có lẽ tốt hơn.

Ông Rakshasas nói tiếp:

– Thằng bé đi vào đúng vấn đề rồi đó. Một điều chắc chắn là cơ hội của chúng ta không tốt chút nào. Nhưng John, cơ hội của cháu lại có thể tốt hơn.

Chú Nimrod giải thích:

– Ý anh Rakshasas muốn nói là, chú sẽ không thể đi cùng cháu, John à. Chỉ cần chú xuất hiện trong phạm vi một trăm dặm của Iravotum và Lâu đài treo Babylon, Ayesha sẽ phát hiện và cho triển khai các biện pháp đối phó ngay lập tức.

Ông Groanin hỏi:

– Biện pháp gì mới được chứ?

Chú Nimrod trả lời:

– Tôi cũng không chắc lắm. Eno không nói rõ về chuyện này. Nhưng bù lại, cháu có hai lợi thế rất rõ ràng đấy John. Một là việc cháu với Philippa là anh em sinh đôi sẽ khiến Ayesha gần như không thể phát hiện ra cháu theo cách tương tự. Ayesha sẽ cho rằng bà cảm nhận sự hiện diện của cháu chẳng qua là vì Philippa ở gần bà thôi.

– Còn lợi thế thứ hai là gì vậy chú?

Ông Rakshasas trả lời thay:

– Đó là một con dao hai lưỡi. Đúng là việc yếu hơn Nimrod sẽ làm cháu khó bị phát hiện, nhưng không có nghĩa là không thể bị phát hiện.

– Ý anh Rakshasas là cháu sẽ không bị Ayesha phát hiện chừng nào cháu kiềm chế không dùng sức mạnh djinn của mình.

John cười như mếu:

– Ý mọi người là, cháu sẽ đi một mình, đến một trong những quốc gia nguy hiểm nhất thế giới, mà không có sức mạnh djinn nào bảo vệ?

Chú Nimrod gật đầu:

– Ừm, tóm lại là như thế.

– Thậm chí là không có lấy một cái ký gửi ước?

Chú Nimrod gật đầu buồn bã:

– Không có một ký gửi ước nào. John à, cháu không có nghĩa vụ phải làm chuyện này đâu. Cháu phải đối mặt với tình thế quá hóc búa, không còn gì phải nghi ngờ về chuyện đó. Có lẽ cháu nên cân nhắc lại. Sẽ không có ai, mà nhất là chú, nghĩ xấu về cháu nếu cháu không đi đâu.

John điềm tĩnh nói:

– Cháu sẽ đi.

– Nếu cháu nhất định vậy, anh Rakshasas sẽ đi cùng cháu. Nhưng chỉ với tư cách cố vấn thôi, vì anh ấy chỉ không bị phát hiện nếu ở yên bên trong cây đèn của mình. Và dĩ nhiên, Alan và Neil sẽ đồng hành cùng cháu.

Hai con chó đồng thanh sủa một tiếng rõ to. Và ông Groanin cũng hắng giọng lớn tiếng nhắc khéo:

– Với tất cả lòng kính trọng của tôi, thưa ngài, nhưng hình như ngài đã quên một chuyện.

Chú Nimrod chau mày:

– Hử? Tôi không nghĩ vậy đâu, anh Groanin.

– Ngài đã quên tôi, thưa ngài. Tôi sẽ đi cùng cậu bé. Có thể tôi chỉ có một tay, nhưng tôi có thể tự lo cho mình. Xin nhắc lại là tôi có thể tự lo cho mình. Và như đã nói trước đây, không có gì mà tôi không làm cho hai đứa trẻ cả.

John cảm động quá chừng trước tình cảm của vị quản gia nhà chú Nimrod:

– Ôi, cháu cám ơn ông, ông Groanin.

Chú Nimrod mỉm cười hài lòng:

– Đúng. Anh thật cao thượng, Groanin à.

Nhưng ông Groanin chỉ lắc đầu:

– Cao thượng à? Không đâu, thưa ngài. Chỉ là có tình người. Đúng thế, tôi nghĩ đó mới là từ chính xác. Có tình người. Đôi lúc djinn các ngài quên mất con người chúng tôi có thể làm gì.

Alan sủa lớn, như thể nhớ ra nó đã có thể làm gì khi còn là người.

John hỏi:

– Nhưng Iravotum ở đâu vậy chú? Và làm cách nào để đến đó?

Chú Nimrod tuyên bố:

– À, bây giờ đến lượt tin tốt đây. Quan tư tế tối cao Eno đã cung cấp cho chúng ta một số mô tả cực kỳ chi tiết về cách đến đó, cách tác động đến lối vào, cũng như một vài hiểm nguy mà cháu có khả năng gặp phải trong chuyến phiêu lưu dưới lòng đất xuyên qua vương quốc Iravotum bí mật. Ông ấy thậm chí còn vẽ một tấm bản đồ hướng dẫn những lối đi thuận tiện nhất.

– Chú vừa nói là “dưới lòng đất” sao?

John tự hỏi phải đối mặt với nỗi sợ không gian chật của mình như thế nào trong một hành trình như thế này. Dùng thuốc than để ngồi trong máy bay vài tiếng là một chuyện, còn đi dưới lòng đất lại là một chuyện hoàn toàn khác.

Chú Nimrod giải thích:

– Lâu đài treo Babylon và Iravotum – nơi ở của những điều ước xấu xa và giận dữ bao quanh lâu đài – nằm vài trăm dặm bên dưới mặt đất. Phù hợp cho một nơi cần sự kín đáo, bí mật. Vị trí thật sự của nó là ngay bên dưới tàn tích Babylon cổ đại, khoảng năm mươi lăm dặm về phía nam Baghdad. Eno không nói rõ làm cách nào Ishtar và những người tiền nhiệm của bà tìm được lối vào lâu đài. Nhưng ông ấy có mô tả chi tiết sự tồn tại của một lối vào bí mật thứ hai bên dưới tháp Babel cổ đại.

John ngạc nhiên:

– Nơi đó có thật à? Cháu cứ nghĩ đó chỉ là một câu chuyện phiếm về việc rất nhiều người bỗng dưng nhận ra họ đang nói vài trăm ngôn ngữ khác nhau, và không thể nào hiểu được người khác nói gì.

Chú Nimrod cho biết:

– Babel là một nơi có thật, cháu ạ. Nó nằm khoảng một trăm dặm về phía bắc Babylon, tại một nơi gọi là Samarra. Vẫn còn một cái tháp tồn tại ở đó cho đến tận ngày nay. Eno có chỉ cho chúng ta cách tìm ra lối vào bí mật bên dưới cái tháp, cũng như cách từ đó đi đến Iravotum. Theo như những gì viết trong bộ sách, có biển ngầm dưới đó, và một người lái thuyền sẽ chở cháu vượt biển.

Ông Groanin thốt lên:

– Ồ!

Rồi ông đọc lên một đoạn thơ – việc làm ưa thích của ông:

Một mình băng qua phà

Với một xu lệ phí,

Người chờ đợi trên bến Lethe Xem anh thấy ai? Không phải tôi.

Rồi cười một cách dứt khoát, ông kết luận:

– Nói rồi đó, không phải tôi à nha.

John gật đầu nói:

– Ông Groanin nói đúng đó. Chuyện này sao có vẻ hơi nhuốm màu, ừm, Gothic quá vậy chú?

Dạo gần đây, mọi thứ có vẻ hơi bị rùng rợn sởn gai ốc quá, khiến cậu bắt đầu tự vấn về sứ mạng của một djinn. Có lúc cậu nửa muốn được quay lại New York và mặc cho Gordon Warthoff bắt nạt chẳng hạn, để có cảm giác là mình được sống bình thường. Mà nhắc đến chuyện bị bắt nạt, cậu lại nghĩ đến Philippa. Cậu chợt tự hỏi không biết Philippa có thật sự làm cho mấy hột mụn của Gordon biến mất được không, và liệu chuyện đó có làm thằng nó trở thành một người tốt hơn không. Chắc chắn cậu sẽ biết được câu trả lời nếu cậu sống sót sau thử thách đang đặt ra trước mặt và quay trở lại trường cho học kỳ tiếp theo. Nhưng có một chuyện John hoàn toàn chắc chắn. Cậu nhớ trí thông minh và những lời khuyên của em gái cậu vô cùng. Không có cô ở bên cạnh, cậu như mất đi một phần cuộc sống.

Chú Nimrod nói:

– Gothic đâu mà Gothic? Nó là chỉ là chính nó thôi, John. Dù mundane có dùng Iravotum làm nền móng cho những thần thoại và truyền thuyết vớ vẩn của họ, nó cũng chẳng quan trọng gì mấy với djinn chúng ta.

Rồi liếc nhìn đồng hồ đeo tay, chú tuyên bố:

– Đến giờ phải đi rồi đó. Chú sẽ dùng lốc gió đưa tất cả đến thủ đô Amman ở Jordan. Đó là nơi xa nhất chú có thể đi cùng mọi người.

John hỏi:

– Jordan là đất nước kế bên Iraq phải không chú?

– Ừ. Từ đó, chúng ta sẽ tìm một phương tiện di chuyển khác, “người” hơn một tí, để đưa bốn người vượt qua sa mạc Iraq.

Vài giờ sau đó, họ đăng ký phòng tại khách sạn tốt nhất thủ đô Vương quốc Jordan. Để John và ông Groanin lại một trong vô số nhà hàng của khách sạn, chú Nimrod và ông Rakshasas ra ngoài tìm phương tiện di chuyển phù hợp cho chuyến đi. Khách sạn này khá có tiếng với giới doanh nhân và báo chí Anh, Mỹ, vài người trong số đó cũng đang có dự định băng qua biên giới Jordan để đến Iraq. Nhưng từ những câu chuyện mà John nghe lỏm được trong khi đang gặm một cái bánh hamburger ngon lành, Iraq có vẻ nguy hiểm hơn cậu tưởng.

– Ta ghét chỗ này.

Ông Groanin phàn nàn trong khi đang múc một muỗng thức ăn trẻ em đưa vào miệng. Không tin tưởng gì lắm những món ăn được nấu bên ngoài nước Anh, ông Groanin đã mang theo một cái ba lô lớn đựng vài tá hũ thức ăn trẻ em tiệt trùng, thứ ông cho là món ăn an toàn duy nhất tại một quốc gia nóng bức. Nhưng dù thức ăn trẻ em có an toàn đến đâu, John vẫn nghĩ thấy mà ghê khi một người trưởng thành lại đi ăn cái đống nhớp nháp màu nâu nâu được gọi là Bánh Patê Với Cà-rốt Shepherd. Và John thà bị đau bụng còn hơn phải chén cái món Phó-mát Nấu Tỏi-tây Và Súplơ. Ngửi một tẹo mùi của nó thôi đã khiến cậu muốn bệnh rồi.

Ngoác miệng cạp món hamburger yêu thích, John tuyên bố:

– Ôi, ông không biết mình đã bỏ lỡ gì đâu. Một món ăn ngon bá cháy luôn.

Ông Groanin nhún vai:

– Nếu cháu muốn ăn liều thì cứ việc tự nhiên. Nhưng mà, sau khi làm việc với chú Nimrod của cháu suốt bao nhiêu năm qua, ta rút ra kinh nghiệm là djinn mấy người hầu như có thể ăn tất cả mọi thứ mà không sợ gì hết. Ta sẽ không nói hơn nữa. Ta chẳng muốn tự làm mình bị bệnh đâu. Nhưng nếu cháu tham khảo cuốn sách mà anh Rakshasas viết, cháu sẽ hiểu ý ta muốn nói gì liền.

Trong khi đó, chú Nimrod đã tìm ra người sẵn sàng chở John, ông Groanin cùng hai con chó (đó là chưa kể đến cái đèn chứa ông Rakshasas) vượt sa mạc đến Samarra. Và ngay tờ mờ sáng hôm sau, vào lúc 4 giờ, khi trời vẫn còn tối, người tài xế đã đứng đợi họ bên ngoài khách sạn cạnh một chiếc Mercedes mui kín to đùng chạy bằng động cơ diesel.

Khi người tài xế, một cậu bé tên Darius al Baghdadi, tự giới thiệu, ông Groanin phàn nàn:

– Ôi trời, vì Chúa, chỉ là một cậu bé thôi sao. Cậu bao nhiêu tuổi vậy, con trai?

Darius nhe răng cười và trả lời một cách đầy tự hào:

– Cháu mười hai tuổi, thưa ông.

– Cha cậu nghĩ gì mà lại cho cậu lái xe ở cái tuổi này vậy trời?

Darius nói:

– Cha cháu mất rồi. Giờ thì cháu lo cho cả gia đình.

Cháu lái xe rất tốt. Ông có thể yên tâm về điều đó.

Chú Nimrod giải thích:

– Tất cả những người tôi gặp đều nói Darius là một trong những tài xế giỏi nhất Iraq. Cậu ấy đến từ Baghdad và biết rõ đường băng sa mạc như lòng bàn tay.

Ông Groanin hỏi:

– Vậy còn hộ vệ? Cậu nói sẽ thuê một hộ vệ mà. Anh ta đâu rồi?

Darius lắc đầu nói:

– Không nên có hộ vệ. Chỉ tổ thu hút sự chú ý thôi. Hộ vệ sẽ làm người khác nghĩ chúng ta có gì đó đáng cướp. Tốt nhất không nên có hộ vệ.

Ông Groanin, vốn là người đảm nhận nhiệm vụ lái chiếc Rolls-Royce của chú Nimrod khi họ ở London, rầu rĩ cằn nhằn:

– Ta ghét nơi này quá đi.

Darius cười:

– Ôi, ông sẽ thích Iraq thôi. Iraq là một quốc gia tốt. Và những người dân tốt.

Bắt tay cậu bé Iraq với ánh mắt hâm mộ và có hơi chút ghen tị vì có người mười hai tuổi lại được phép lái xe, John khen:

– Chiếc xe tuyệt nhỉ.

Darius đáp:

– Những chiếc Mercedes-Benz đều mạnh mẽ và đáng tin cậy, có điều dịch vụ với đại lý của nó thì hơi tệ tí. Đây là xe của ba tớ. Chứ tớ thì thích xe Ferrari hơn.

John tán thành:

– Tớ cũng vậy.

Darius nói:

– Tớ muốn trở thành một tay đua xe chuyên nghiệp khi lớn lên. Tham dự giải Grand Prix. Như Michael Schumacher ấy. Schumacher là người hùng của tớ.

– Tớ cũng thích anh ấy lắm.

John gật đầu tán đồng, dù cậu thích xe Indy hơn giải Grand Prix.

Darius có một nụ cười rộng mở, và một cái đầu bự. Mái tóc đen dày của cậu phủ xuống mắt, trông giống một thành viên của ban nhạc The Beatles. Cậu vận quần jean, tay đeo đồng hồ Rolex bằng vàng giả, và mặc áo thun in chữ HASTA LA VISTA, BABY. Daris bảo chiếc áo thun là món quà của một quân nhân người Anh tặng cậu. Choàng quanh eo cậu là một bao súng ngắn nhưng không dùng để đựng súng mà để đựng tiền, và một bao kiếm bạc không đựng dao kiếm mà đựng một cặp kính râm. Darius có vẻ rất khoái Alan và Neil. Cậu bảo chẳng ai nghĩ đây là hai con chó Mỹ đâu. Nhưng John và ông Groanin thì cậu bắt đến một cửa hiệu bán đồ đàn ông Ả Rập gần khách sạn, để hai người phải mua áo thobe – áo sơ mi trắng dài đến tận mắt cá chân mà đàn ông Ả Rập hay mặc – và một cái bisht – áo trùm rộng choàng bên ngoài.

Darius giải thích:

– Tốt nhất là nên trông giống người Ả Rập khi đi lại. Như vậy nếu bọn trộm cướp có để mắt đến, chúng cũng nghĩ bọn ta chẳng có gì đáng cướp.

Cảm thấy mình trông thật ngớ ngẩn trong bộ áo dài thòng lòng, ông Groanin vặn lại Darius:

– Vậy còn cậu thì sao? Cậu ăn mặc đâu có giống dân Ả Rập.

Darius nhe răng cười:

– Đúng thế. Nhưng cháu là người Ả Rập chính cống mà. Nếu có rắc rối, cháu chỉ cần nói tiếng Ả Rập là chúng sẽ tha cho cháu. Nhưng nếu nghi ngờ hai người là người Anh hay Mỹ, chúng có thể tìm cách cướp đấy.

Ông Groanin khó nhọc nuốt nước bọt và nhượng bộ:

– Ờ, có lẽ cậu nói đúng.

John nói vu vơ:

– Ước gì cháu nói được tiếng Ả Rập nhỉ.

Có vẻ hôm nay là một ngày nóng. Nhiệt độ tối hôm trước vào khoảng 90 độ F[16], và khí hậu sa mạc đã sưởi ấm xương cốt John, trả lại cho cậu sức mạnh djinn của mình. Cho nên, cậu chỉ vừa nói lên điều ước và thầm thì từ trọng tâm của mình, cậu đã nhận ra mình có thể nói tiếng Ả Rập.

Sau đó, khi nghe John nói tiếng Ả Rập và biết chuyện gì đã xảy ra, chú Nimrod nhắc:

– Cháu nên cẩn thận với những chuyện như thế này. Chuyện hoàn thành điều ước ấy. Nhớ nhé. Một khi vượt qua biên giới Iraq, cháu tuyệt đối không được dùng sức mạnh djinn. Không lại bị Ayesha phát hiện thì hỏng việc.

Rồi giao cho John một cái điện thoại cầm tay, chú dặn:

– Khi nào lên lại trên mặt đất, gọi chú ở Amman này nhé. Trước đó chắc không có sóng để gọi đâu.

Cả Alan và Neil sủa lớn một tiếng trước khi nhảy phốc vào ghế sau xe.

Ông Groanin bắt tay chú Nimrod thật chặt và nói:

– Tạm biệt ngài.

– Tạm biệt anh Groanin. Và cảm ơn anh rất nhiều.

Viên quản gia người Anh trèo vào ghế sau xe. Ngồi xuống bên cạnh hai con chó giống Rottweiler, ông bắt đầu giở tờ báo Daily Telegraph của mình ra đọc.

John hỏi chú Nimrod:

– Chú sẽ làm gì trong khi tụi cháu ở Iraq?

Chú Nimrod nói:

– Đảm bảo là chú sẽ rất bận. Muốn ngăn Ayesha biến em cháu thành Djinn Xanh Babylon đời tiếp theo, chúng ta phải tìm cho Ayesha một người thay thế phù hợp. Và phải tìm ra người đó càng sớm càng tốt.

– Chắc chẳng ai muốn nhiệm vụ đó đâu.

Chú Nimrod đáp:

– Không hẳn vậy. Một phần vấn đề ở đây là trái tim cứng như thép của Ayesha đã làm bà mất khả năng thuyết phục người khác. Bà ấy già rồi, lại đối xử với nhiều djinn không đúng cách. Nhưng khả năng ngoại giao của chú thì tốt hơn bà nhiều. Cho nên, chú hoàn toàn có thể thuyết phục người khác dễ hơn Ayesha.

– Vậy chú dự định tìm kiếm ở đâu?

– Chú sẽ thử vận may ở Monte Carlo xem sao. Đó là thủ đô của sự xui xẻo ở châu Âu, và ở đó có một người có thể phù hợp.

Chú Nimrod ôm John vào lòng thật chặt, rồi giả bộ xoa hai tay đầy hứng thú, nhằm giấu nỗi lo lắng khi phải đứng nhìn đứa cháu trai yêu quý đi vào chỗ hiểm nguy.

– Ừm, vậy tạm biệt cháu nhé, John. Và chúc cháu may mắn.

– Tạm biệt chú, chú Nimrod.

Nói rồi John nhanh chóng nhảy vào ghế trước chiếc Mercedes, để chú Nimrod không kịp nhìn thấy sự sợ hãi của cậu. Quay nhìn Darius, rồi liếc sang ông Groanin, cậu hỏi:

– Chúng ta mang đủ đồ chưa, ông Groanin?

Như bất cứ người quản gia giỏi giang nào, ông Groanin có cả một danh sách chi tiết.

– Điện thoại, sạc pin, hộp cứu thương, nước uống, trà đóng gói, đèn pin, dù, khăn ướt, thức ăn cho chó hiệu Mutt “n” Pooch – năm mươi sáu lon, giấy vệ sinh, thức ăn trẻ em – năm mươi sáu hũ, bánh bạc hà Kendall, sandwich Ả Rập… ta nghĩ vậy là đủ rồi.

John ngạc nhiên hỏi lại:

– Dù? Chúng ta mang theo dù làm gì ạ?

– Dĩ nhiên để phòng trời mưa rồi.

John xém chết sặc vì cười:

– Làm gì có mưa trong sa mạc hả ông.

Ông Groanin vẫn khăng khăng:

– Ta nghĩ kiến thức của cháu bị sai lệch rồi đó. Ở đâu mà chẳng có mưa. Và quan điểm của ta là cứ chuẩn bị trước không bao giờ thừa cả.

Từ bên ngoài cửa sổ xe, chú Nimrod hỏi với vào:

– Này, mọi người có quên gì không đấy?

Rồi chú đưa cho John quyển sách bọc da chứa bản dịch tiếng Anh bộ Bellili Scroll của ông Virgil Macreeby.

– Quyển sách của Eno đây.

John mỉm cười với chú:

– Vâng. Tụi cháu sẽ cần đến nó.

Băng qua ngoại ô Amman, John gần như ngay lập tức nhìn thấy tấm biển thông báo Samarra cách đây 500 km, nghĩa là khoảng hơn 300 dặm. Một hành trình kéo dài chừng sáu đến bảy tiếng đồng hồ đang chờ họ phía trước. Hoặc có thể ít hơn, với vận tốc lái xe hiện tại của Darius. John nghĩ cậu bé người Iraq này có kỹ thuật lái xe thật tuyệt, nhất là khi cậu ta phải kê mông vài cuốn danh bạ điện thoại Baghdad để có thể nhìn được bảng đồng hồ xe. Chiếc Mercedes còn được điều chỉnh lại vài chỗ để Darius có thể lái nó dễ dàng hơn. Mỏm đánh của một cây gậy golf được buộc vào cần sang số, và chiều cao của bàn đạp chân được một thợ hàn lành nghề gia tăng bằng một loạt lon cà phê rỗng. Khi những tia nắng đầu tiên trong ngày bắt đầu rọi sáng, họ đã bon bon trên con đường xuyên sa mạc, xuyên qua những vùng đất vắng bóng cây, khô cằn như trên sao Hỏa. Đây cũng là nơi Darius bắt đầu đạp lún ga.

Ông Groanin phàn nàn:

– Cậu ta có cần phải chạy nhanh như vậy không?

Darius bật cười khanh khách:

– Yên tâm đi, cháu là một tay lái xịn mà.

Rồi chạm tay vào bức hình Michael Schumacher treo trên kiếng chiếu hậu như để lấy may mắn, Darius tiếp tục tăng tốc. Cậu nói:

– Thấy chưa? Rất nhanh. Giống như Schumacher, đúng không?

Ông Groanin dựa lưng vào ghế, rên rỉ thật to, rồi bắt đầu mở một hũ Thịt Heo Nướng với Nước Sốt Táo ra ăn để lấy lại tinh thần.

John hỏi Darius:

– Cậu lấy bằng lái xe khi nào thế?

Cậu bé Iraq cười khì khì:

– Ôi dào, bằng lái xe gì chứ? Tớ chả có bằng lái xe nào cả. Chỉ có một gia đình để lo thôi. Mẹ và bốn chị em gái.

Cần quái gì bằng lái xe chứ.

Ông Groanin lại rên to lần nữa. Cầm tờ báo ra hai ngày trước của mình lên đọc, ông cố lờ đi chuyện đang xảy ra ở hàng ghế trước.

Xe của họ không phải là chiếc duy nhất hướng về phía Baghdad. Ngay khi rời khỏi Amman, đã có ba chiếc Range Rover trắng chạy sau đuôi họ, phía trên chở vài phóng viên, nhiếp ảnh gia phương Tây cùng những vệ sĩ vũ trang đầy đủ. Gật đầu với họ qua kiếng chiếu hậu, Darius vui vẻ quay sang hỏi John:

– Họ đang cố đuổi kịp chúng ta đấy. Cậu muốn tớ cắt đuôi không?

Ông Groanin la lối:

– Ôi, Chúa ơi, không. Đi đông người chắc chắn an toàn hơn.

Darius lắc đầu:

– Ở sa mạc này thì không đâu. Có thể đông người đồng nghĩa với an toàn ở Anh hay Mỹ. Nhưng ở đây, đông người đồng nghĩa với mục tiêu chú ý đó. Cháu nghĩ tốt nhất chúng ta nên đi một mình.

Ông Groanin phản đối:

– Còn ta không nghĩ vậy. Mà sao chúng ta không thử ngừng lại để xem họ có ngừng theo không? Có thể họ sẽ có tờ báo nào mới hơn tờ này cũng nên.

Darius nhún vai:

– Ok, sao cũng được. Mọi người là chủ mà. Nhưng tốt nhất là đợi đến Safawi hãy ngừng.

Trị trấn Safawi của Jordan là một trạm dừng xe, nơi tài xế của những chiếc xe đồ sộ có thể kiếm chút thức uống lạnh cùng một xiên thịt nướng kebab, hoặc một ổ bánh mì dẹp từ một trong nhiều quầy bán bánh trước mặt nhà. Darius quẹo xe khỏi đường quốc lộ và ngừng lại trước một trạm xăng dã chiến. Ba chiếc Range Rover bắt chước cậu, và một tốp nam nữ bước xuống. Một trong số họ, một phụ nữ với khuôn mặt xinh đẹp nhưng nghiêm nghị, tiến về phía John trong khi những người tài xế nạp thêm xăng và ông Groanin năn nỉ hỏi xin họ một tờ báo mới.

Người phụ nữ mặc một cái áo sơ mi đen, quần và ủng đi ngựa đen, áo jacket của lính phòng không màu đen, và một cặp mắt kính đen. Cô đeo vài cái máy ảnh quanh cổ, như cách mà các ca sĩ nhạc rap đeo huân chương, vòng cổ. Cô hỏi John:

– Em là người Anh à?

John trả lời:

– Người Mỹ ạ.

– Em làm gì ở ngoài này chứ? Đây không phải công viên trò chơi. Nơi này nguy hiểm lắm. Cái người một tay đằng kia là cha em hả?

– Không, ông ấy không phải cha em. Ừm, cám ơn chị đã quan tâm, nhưng đừng lo lắng cho em. Em ăn mặc như một người Ả Rập. Em nói tiếng Ả Rập trôi chảy. Và em ngồi xe mang biển số Ả Rập. Không giống chị. Em nghĩ em an toàn hơn nhiều so với chị đấy.

Người phụ nữ mỉm cười:

– Em nói đúng.

Cô giơ tay ra, và John vừa cẩn thận bắt tay cô vừa giới thiệu tên mình.

Người phụ nữ giới thiệu lại:

– Chị là Montana Retch. Làm cho tòa soạn báo Beretta Press. Chắc em có đọc một số bài báo chị viết nhỉ?

John lắc đầu:

– Ừm, không ạ.

– Cũng không sao. Mà này nhóc, em có phiền nếu chị chụp ảnh em không?

Nói chưa hết câu, cô Retch đã mở nắp đậy của một trong những cái máy ảnh đeo quanh cổ. Cô nói tiếp:

– Chả mấy khi tụi chị thấy một đứa trẻ người Mỹ ở quanh đây. Nhất là một đứa trẻ ăn mặc như em. Có phần giống nhân vật chính trong bộ phim Lawrence ở Ả Rập đấy chứ.

John mỉm cười, hơi phổng mũi tự hào. Giống nhân vật chính của Lawrence ở Ả Rập nghe cũng không tệ.

Cậu nói:

– Chị chụp đi. Cứ tự nhiên.

Liếc nhìn cậu qua ống kính máy ảnh, cô hỏi:

– À mà em đang đi đâu thế?

– Samarra ạ.

– Có chuyện quan trọng ở đó à?

John nói:

– Không có chuyện gì ở đó từ thế kỷ thứ bảy đến giờ cả. Đó là khi người Ba Tư chinh phục người Ma Rốc. Ít nhất đó là điều cuốn sách hướng dẫn du lịch Iraq nói.

Vẻ mặt hơi thất vọng, cô Retch nói:

– Ồ, vậy hả? Mà chị chỉ tò mò hỏi vậy thôi. Con gái mà.

John quay lưng nhìn về phía sau khi ông Groanin huýt sáo gọi cậu rõ to, tay vẫy vẫy một tờ báo. Ở phía trạm xăng, Darius đã nạp đầy xăng cho chiếc Mercedes.

John bảo:

– Em phải đi rồi.

Cô Retch nói:

– Ờ. Rất vui được nói chuyện với em, John.

– Em cũng vậy, Retch. Chúc chị có một chuyến đi may mắn.

– Cảm ơn. Chị trông cậy vào lời chúc của em đấy nhé.