← Quay lại trang sách

Chương 19 - Người Điên Trên Cỏ.

Dòn tấn công xuất hiện mà không một lời báo trước. Một phút trước, người lái thuyền bằng đồng còn đang chèo thuyền băng qua làn nước bốc hơi nghi ngút, một phút sau, John và hai con chó đã phải cúi rạp người xuống lòng thuyền khi một con chim to ngang ngửa một con Quetzalcoatlus tiền sử (loài thằn lằn ngón cánh lớn nhất) vụt bay ngang qua, nhắm thẳng vào đầu họ với một cái mỏ dường như có thể dễ dàng xé toạc một bên sườn chiếc Boeing 747. Chỉ có người lái thuyền bằng đồng là còn đứng thẳng trên mũi thuyền. Ông thẳng tay đập mạnh mái chèo vào con chim khổng lồ, làm một cái lông của nó rơi xuống trúng đầu John.

Trong khi con chim bay đi chỉ để vòng lại và tấn công lần nữa, John nhận ra cái lông của nó to bằng cánh gà con. Con chim có thể quắp một con voi lên dễ dàng như một con cú quắp một con chuột đồng. Gầm gừ như một con cá sấu châu Mỹ, con chim khổng lồ lại vụt xuống, và người lái thuyền lại cầm mái chèo đập nó. Giờ đây thì John đã hiểu tại sao người lái thuyền được làm bằng đồng. Vì không có người lái thuyền loài người nào có thể chịu được cái mỏ và móng vuốt của sinh vật hung tợn đang đe dọa họ. Nhưng với mỗi cú vung mái chèo của người lái, con thuyền lại chòng chành dữ dội dưới chân ông, và John nhận ra họ có thể bị lật thuyền và rơi tõm xuống nước bất cứ lúc nào. Đó là điều làm cậu lo lắng nhất. Ngay cả khi cậu có thể chịu đựng được độ nóng như núi lửa của nước biển – cậu cũng không chắc lắm về điều đó – hai con chó sẽ không thể nào sống sót.

Trong đợt tấn công thứ ba, con chim khổng lồ chộp lấy cái thuyền trong móng vuốt của nó và có lẽ đã nhấc bổng cái thuyền lên khỏi mặt nước nếu Alan và Neil không nhảy lên cắm răng vào cặp giò xù xì vảy của nó. Rít lên một tiếng lớn, con chim khổng lồ thả cái thuyền ra và, đập mạnh cặp cánh to đùng bay cao lên không trung, với Alan và Neil vẫn đang ngoạm chặt chân nó.

John hét lên với hai con chó:

– Thả ra! Thả ra đi, không tụi mày chết hết đó.

Có lẽ hai con chó cũng định thả ra, nhưng ngay giây tiếp sau đó, một luồng gió mạnh mẽ từ đất liền bỗng thổi tới và đẩy giạt con chim ra xa cái thuyền. Có thể thấy rõ nếu giờ Alan và Neil thả chân con chim ra, chúng chắc chắn sẽ toi mạng trong làn nước nóng hổi.

John hét lên với chúng, lần này là ngược lại với mệnh lệnh mới nãy:

– Giữ chặt! Giữ chặt lấy nó, không tụi mày chết hết đó.

Bất chấp cơn đau ở chân, con chim tiếp tục quay lại tấn công chiếc thuyền, nhưng một lần nữa, cơn gió tống nó ra xa. Cuối cùng cũng chấp nhận thất bại, con vật đập cánh và bay thẳng về phía đất liền cùng với Alan và Neil. Hàm răng của hai con chó vẫn cắm chặt vào chân con chim.

John giục người lái thuyền:

– Đuổi theo chúng.

Đặt mái chèo về lại cọc chèo, người lái thuyền một lần nữa đẩy thuyền tiến về phía trước. Quỳ gối trong lòng thuyền, John dán chặt mắt vào bóng con chim đang nhỏ dần nơi đường chân trời. Rồi ngay khi nó vừa bay đến bờ, John nghĩ mình vừa thấy hai con chó thả nó ra và rơi thẳng xuống bãi cát bên dưới.

Cậu nói gấp:

– Nhanh lên! Làm ơn nhanh lên!

Và trước sự ngạc nhiên của John, người lái thuyền thật sự nghe lời cậu. Ông chèo thuyền nhanh hơn trước, và họ băng qua khoảng cách nửa dặm giữa họ và bờ biển chỉ trong vài phút.

Đến giờ này thì trái tim của John đã nhảy thẳng lên cuống họng cậu. Lo đến phát ốm, cậu không ngừng nói đi nói lại với bản thân rằng, lớp cát sẽ giúp giảm bớt sức va chạm của cú ngã. Nhưng khi họ tiến lại gần và nhìn thấy hai thân hình bất động, John bắt đầu nghĩ rằng chỉ có phép lạ mới cứu được hai con chó.

Khi chiếc thuyền chỉ còn cách bờ mười thước, John nhảy bổ xuống nước và chạy đến nơi Alan và Neil đang nằm dài trên bờ biển. Thân thể hai con chó cách nhau chừng một mét, và John thấy cả hai đều còn thở. Nhưng chỉ là thở thoi thóp. Ngay khi chạm vào chúng, cậu nhận ra điều mình sợ nhất đã trở thành hiện thực: hai con chó sẽ không bao giờ đứng dậy được nữa. Nước mắt cậu trào lên.

Alan ngừng thở trước, rồi đến Neil. Quỳ chính giữa chúng, lần đầu tiên John cảm thấy mình thật đơn độc trong cuộc đời. Bất cứ những sai lầm nào mà hai người bạn đồng hành của cậu đã phạm phải khi còn là con người đã được bù đắp đầy đủ, hoặc thậm chí còn hơn thế, với sự trung thành trước sau như một và lòng dũng cảm của chúng. Không ai có được hai người bạn tốt hơn thế.

Người lái thuyền đứng nhìn John nhưng không rời khỏi thuyền của mình. Cuối cùng, John nói:

– Chúng đi rồi.

Rồi cậu nằm xuống bên cạnh thân thể hai con chó. Sau ảo ảnh về những gì xảy ra với cha mình, việc này có lẽ đã vượt quá sức chịu đựng của cậu. Tự hỏi sao mình không chết luôn đi cho xong, cậu vùi mặt vào trong cát và cố chùi sạch những giọt nước mắt đang chảy giàn giụa trên mặt. Nếu loài đà điểu thật sự vùi đầu trong cát, cậu nghĩ mình biết lý do tại sao. Đôi lúc người ta quá đau khổ để có thể đối mặt với thế giới. Cuối cùng, khi không còn chút nước mắt nào sót lại trong cơ thể, John ngồi dậy và buồn bã nhìn hai thân hình nằm bên cạnh cậu, hy vọng rằng cái chết của chúng cũng chỉ là ảo ảnh, như của cha cậu. Nhưng xác hai con chó vẫn còn nguyên trên cát.

Rồi cậu băn khoăn có nên chôn hai con chó không. Chỉ có điều cậu không có gì để đào. Cái xẻng đào hào cậu đã để lại trên mặt đất. Cho nên cậu kiếm hai tán cọ và phủ lên hai con chó, trong lòng thầm nghĩ có lẽ Philippa sẽ biết phải làm gì với chúng một khi cậu tìm thấy cô. Dù sao thì rất có khả năng hai đứa sẽ phải quay lại lối này, vì Eno đã không nghĩ đến việc đưa ra chỉ dẫn về một lối thoát nào khác để ra khỏi Iravotum.

Theo bản đồ của vị quan tư tế, cậu đã gần đến nơi. Lâu đài chỉ còn cách đây vài dặm, và tất cả những gì cậu phải làm là đi dọc theo một con đường xuyên qua khu rừng bất khả xâm phạm trước mặt là sẽ đến được cổng lâu đài. Dĩ nhiên, đó không phải là một chuyến dạo chơi trong công viên. Eno đã đề cập đến những nguy hiểm khác ở phía trước, và gợi ý rằng những ai nghĩ đến việc đi trên con đường này cần coi chừng rắn rết. Cho nên, rút con dao Swiss Army của mình ra, John hì hục đẵn cho mình một cây gậy đi đường dài. Tạm biệt hai con chó, cậu vuốt nước mắt và đặt chân lên con đường.

Gần như ngay lập tức, cậu trông thấy một con chim xinh đẹp đậu trên nhánh cây gần đó. Đó là một con chim cắt, và bản năng cho John biết đó chính là con trai của Virgil Macreeby, Finlay, người mà John chịu phần lớn trách nhiệm cho bộ dạng đầy lông vũ hiện giờ của nó. Có lẽ sẽ có cách trả thằng bé về hình dáng ban đầu của nó. Gỡ cái ba lô ra, John cắt ra một mảnh vải độn lớn. Quấn nó quanh cổ tay, cậu giơ tay lên và gọi con chim:

– Finlay, đến đây nào!

Không chút lưỡng lự, con chim giang cánh lướt trong không trung và đậu lại trên tay John.

Đưa tay vuốt cái đầu nhỏ nhắn của con chim, John nói:

– Chúng ta thỏa thuận nhé. Nếu mày giúp tao, tao sẽ giúp lại mày. Ngay khi tìm được em gái, tao sẽ tìm mọi cách có thể để biến mày lại thành người. Được không?

Con chim cắt rít lên một tiếng và cúi đầu xuống.

John bảo nó:

– Từ giờ trở đi, mày rít một tiếng có nghĩa là đồng ý, còn hai tiếng có nghĩa là không nhé. Mày có thể làm mắt cho tao. Như Horus ấy. Mày có thể bay trên những cái cây và cảnh báo cho tao những nguy hiểm phía trước. Quan trọng hơn, mày có thể làm bạn tao nếu muốn, vì tất cả bạn của tao giờ đã chết hoặc bị bỏ lại rồi.

Con chim cắt rít lên một tiếng rồi nhảy lên phần dây lưng trên ba lô của John để cậu có thể rảnh tay khi đi.

Đi tiếp chừng một dặm, con đường mở ra, và John đứng trước một con lộ rộng lớn với hai hàng vại bằng đất nung xếp ngay ngắn hai bên lối đi. Mỗi cái vại to như một cánh cửa, hình dáng như chiếc chuông úp ngược, và được đặt trên một kim tự tháp nhỏ bằng cát. Tự hỏi không biết trong vại có gì, cậu bảo Finlay bay lên trên nhìn thử, vì bản thân cậu không đủ cao để nhìn vào phía bên trong chúng. Bay lên cao, Finlay lượn lờ trên một, rồi hai cái vại. Có vẻ như chúng chứa đầy dầu. Thỏa mãn rằng những cái vại không gây nguy hiểm gì cả, nó quay lại lưng John.

– Mày có thấy gì không? Ý tao là, thấy gì nguy hiểm không?

Finlay rít lên hai tiếng, nghĩa là “không”, và cảm thấy an tâm, John tiếp tục bước tới. Tuy nhiên, vẫn để tâm điều cảnh báo rắn của Eno, cậu vừa đi vừa thận trọng gõ gõ con đường phía trước như một người mù. Bằng cách này, cậu nhanh chóng nhận ra lời cảnh báo của Eno không phải là thừa, vì con đường đặt bẫy treo. Mỗi cái vại chỉ chứa một lớp dầu mỏng ở phía trên. Bên dưới lớp dầu là một cái nắp đậy, và ẩn dưới cái nắp đậy là một con rắn. Rung động từ bước chân của John, hoặc có thể là do cây gậy, khiến kim tự tháp bằng cát đỡ cái vại đầu tiên đổ sụp, đẩy cái vại ngã xuống phía trước mặt cậu làm nó nứt ra như một trái trứng, và từ đó nở ra một con rắn dài đến mười lăm mét. Nếu John còn nghi ngờ gì về độ nguy hiểm của con rắn, cậu đã nhanh chóng nhận được câu trả lời. Chộp lấy cây gậy đi đường bằng cái hàm to cỡ yên ngựa của mình, con rắn quấn người quanh thân gậy và bẻ nát nó như một que diêm, trước khi rít lớn và dán mắt vào John.

Trông thấy mắt con rắn, không chút chần chừ, Finlay bay vụt về phía nó. Móng vuốt giương căng, nó tấn công cái đầu con rắn với sự dữ tợn không kém con Rukhkh mà John đã gặp trên biển. Đó là cơ hội cho John chạy thoát. Trong khi con rắn khổng lồ còn mải lo ngăn con chim cắt bé xíu gan dạ khỏi móc mắt nó ra, cậu phóng hết tốc độ và đến được cuối con đường cách đó khoảng nửa dặm mà không bị sứt mẻ gì. Ở đó, cậu ngồi bệt xuống đất và, dựa lưng vào một thân cây, nghỉ lấy sức. Vài phút sau, Finlay, thiếu mất vài sợi lông đuôi, đuổi kịp cậu. Có vết máu trên móng vuốt của nó.

John uống một ít nước rồi nhắm mắt lại. Và trong sự tĩnh lặng của cây cối, cậu dần cảm nhận được có một thứ gì đó khá lớn đang chuyển động ở khu rừng trước mặt. Ban đầu cậu nghĩ có thể đó là một con rắn khổng lồ khác, hoặc thậm chí là con Rukhkh. Thả Finlay bay lên một cành cây để đảm bảo an toàn cho nó – vì dù có bay trên không, cây cối ở đây cũng quá rậm để nó có thể nhìn thấy những gì bên dưới tán cây – cậu quyết định im lặng trườn đến, theo kiểu bò bốn chân của người Ấn, để xem đó là gì.

Ở rìa một khoảng trống, John nằm sấp bụng xuống mặt đất và chờ đợi. Cậu chắc chắn rằng dù thứ đó là gì, nó cũng vừa ở đây vài giây trước. Cậu thấy hơi vô lý là một sinh vật lớn như vậy lại có thể di chuyển nhanh thế. Nhưng rồi một cái gì đó chuyển động trước mặt cậu. Một thứ gì đó gần như vô hình, nhưng không hoàn toàn thế, vì không khí xung quanh nó dường như rung động, tạo cho nó một hình dáng mơ hồ. Rồi dần dần, John nhìn ra nó như một hồn ma – một hồn ma to lớn, có lẽ là của người khổng lồ, vì nó cao như một cái cây và to như một ngôi nhà. Cứ mấy phút một lần, hồn ma lại rên rỉ và nổ tanh tách với một luồng điện màu xanh lục, làm cho hình dáng như người của nó trở nên rõ hơn trong giây lát.

Thật chậm rãi, John lôi cuốn sách của Eno ra và phát hiện rằng, trong khi vị quan tư tế chỉ nói mơ hồ, Virgil Macreeby đã cho thêm một phần ghi chú đặc biệt trong bản dịch của ông để giải thích cụ thể hơn về cái mà John đang nhìn thấy:

Không chỉ những điều ước vội vàng, giận dữ, độc ác và vu vơ bị hút về Iravotum. Trong phần phụ lục cuốn sách của mình, cái mà hiện nay chỉ còn tồn tại một phần không đáng kể, viên quan tư tế tối cao đã đề cập đến việc, ngoài những điều ước nói trên, Iravotum còn là nơi đến của những điều ước chưa được thực hiện của con người – những điều ước chưa và không bao giờ có thể trở thành hiện thực. Eno nhận xét rằng năng lượng của những điều ước chưa được thực hiện này tập trung lại thành một sức mạnh siêu nhiên lớn hơn mà ông gọi là Optabellower, hay Optabelua. Dịch sơ ra thì đó là “quái vật ước”. Nghe đồn là thực thể đó, nếu nó có thể được mô tả như một thực thể, xuất hiện lần đầu từ trí óc mơ ngủ của Ishtar, khi bản thân bà ước được Nebuchadnezzar xây tặng một cái đền thờ. Đây có thể là lý do giải thích câu nói quen thuộc trong giới djinn rằng, “hãy cẩn thận với những gì bạn ước”.

Ngước lên nhìn cái sinh vật màu xanh lục gần như vô hình trước mặt, và lắng nghe tiếng rên rỉ nho nhỏ thoát ra từ bên trong thân hình mờ đục vô hình dáng của nó, John tự hỏi liệu đây có phải là cái mà Macreeby đề cập đến hay không. Cậu quyết định phải thử nghiệm một cái cho chắc ăn. Bỏ từ trọng tâm ra khỏi đầu trong giây lát – đề phòng Ayesha cảm nhận được sức mạnh của cậu – John ước một cách mãnh liệt nhất có thể rằng Alan và Neil sẽ sống lại.[21]

Điều ước thử nghiệm của John có tác động ngay lập tức. Một luồng điện xanh dường như nổ lách tách dọc theo bề mặt sinh vật, và John có thể thề là nó đã to hơn một chút. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là quái vật ước. Và dù không biết chính xác tại sao, nhưng cậu cảm nhận được nó rất nguy hiểm. Tuy nhiên, khi quay lưng lại định chuồn đi chỗ khác, John bỗng đối mặt với một người đàn ông có vẻ ngoài kỳ lạ cũng đang bò trên bốn chân như cậu. Sự giống nhau chỉ dừng lại tại đó, vì người đàn ông này trần như nhộng và ướt nhẹp bởi những giọt sương trên đám cỏ mà ông bò qua. Đó là chưa nói đến đám cỏ ông đang ăn. Lông mọc khắp người ông như lông vũ, và móng tay, móng chân mọc dài như móng vuốt chim. Xém nữa là John đã hét toáng lên vì sợ hãi, nếu người đàn ông ăn cỏ không đặt một bàn tay rắn chắc, hôi rình lên miệng cậu và im lặng lắc đầu, cho đến khi John gật đầu ra hiệu cậu sẽ không la to nữa. Sau vài giây, người đàn ông bỏ tay ra và nhẹ nhàng bò đi.

John bò theo ông. Khi họ đã ở một khoảng cách có vẻ đủ an toàn, người đàn ông dừng lại và ngồi xuống trước mặt John. Cặm cụi thắt bím chòm râu dài của mình, ông thỉnh thoảng bứt lên một nhúm cỏ và cho vào cái miệng xanh lè của mình mà nhai nhồm nhoàm như một con bò đói. Ông không tỏ vẻ gì là muốn lên tiếng trước.

Cuối cùng John hỏi:

– Ông là ai?

– Ta là Hoàng đế. Cầu cho hoà bình đến với cậu vạn lần.

– Hoàng đế gì cơ?

Người đàn ông nhún vai:

– Chỉ là hoàng đế thôi.

Rồi vừa ăn thêm một nhúm cỏ, ông vừa chìa vài cọng ra mời John. Cậu từ chối:

– Ồ, cám ơn, nhưng cháu không ăn đâu. Nó làm cháu bị đầy hơi mất.

Rồi cậu mỉm cười với ông theo cái cách thân mật thông thường của mình, như thể cậu đang đón chào một cậu bạn học mới ở trường. Vài phút sau, Finlay bay vụt xuống lưng John trước ánh mắt thích thú của vị hoàng đế ăn cỏ.

Không ai nói gì suốt cả mấy giây sau. Trong thời gian đó, John bắt đầu nghiền ngẫm xem người đàn ông này có phải là một hoàng đế thật sự không. Ăn cỏ, không cắt tóc và móng tay, móng chân, di chuyển bằng cách bò – John không nghĩ đó là cư xử bình thường của một vị hoàng đế. Nhưng ở Iravotum này, dường như không có gì là không thể. Và dù sao đi nữa, thậm chí các vị hoàng đế cũng có lúc nổi điên. Vị hoàng đế này nhìn có vẻ hơi man man, nhưng được cái ông không có vẻ nguy hiểm.

Cậu hỏi:

– Cái thứ mới nãy ấy, nó là quái vật ước phải không ông?

Vị hoàng đế nhe răng cười:

– Ờ. Quái vật ước.

– Nó nguy hiểm không?

– Rất nguy hiểm. Tất cả mọi thứ đến Iravotum đều có một điều ước. Một điều ước rất mãnh liệt. Điều ước được chỉnh sửa đúng, bằng một cách nào đó. Hoặc điều ước được giải trừ. Hoặc có thể là điều ước được trở thành hiện thực. Nhưng quái vật ước tiếp thêm năng lượng từ chúng. Nó ăn thịt chúng, và quan trọng hơn là điều ước đã đóng lên chúng.

Vị hoàng đế vỗ vào ngực một cách đầy ý nghĩa với một nắm tay đầy lông của mình.

– Điều đó làm nó trở nên mạnh mẽ. Rất mạnh mẽ.

Rồi chỉ tay vào Finlay, ông nhún vai buồn bã:

– Con chim của cậu sẽ bị ăn thịt nếu nó ở đây đủ lâu. Cả cậu nữa. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Nếu không muốn thế thì phải đừng ước gì. Nhưng ta hỏi cậu, ai có thể làm được điều đó chứ? Ai có thể tự mãn nguyện với chính mình?

Vị hoàng đế bỏ một nhúm cỏ nữa vào trong miệng và bắt đầu nhai nhồm nhoàm. Rồi ông đánh rắm thật lớn, kéo dài đến gần ba mươi giây, và nó dường như làm ông hạnh phúc.

Bật cười ha hả, John nhìn ông với ánh mắt khâm phục.

Cậu nhận xét:

– Ông tài thế. Còn ông thì sao, hỡi bệ hạ? Ý cháu là, ông có thấy mãn nguyện không?

Ợ hơi một cách vui vẻ, hoàng đế nói:

– Ờ, mãn nguyện lắm. Ta không ước điều gì cả. Hình phạt của ta chỉ là vậy. Đó là lý do tại sao ta còn sống đến giờ. Bởi vì ta không có một điều ước nào trong thế giới. Tất cả những thứ ta cần đều ở đây. Nhiều nước để uống. Nhiều cỏ ngon lành để ăn. Một vị hoàng đế còn cần gì khác nữa?

John gật đầu một cách lịch sự:

– Cháu cũng không biết đâu. Nhưng nếu đó là cái ông thích thì quá tốt cho ông rồi. À mà ông đã ở đây bao lâu rồi nhỉ?

Hoàng đế nghĩ ngợi trong vài giây:

– Một thời gian dài. Để xem. Ta có đánh dấu lên một cái cây gần đây, để phòng trường hợp có ai đó hỏi ta câu hỏi này. Dù cậu là người đầu tiên.

Ông bò vào bụi cây thấp, với John và Finlay theo sát phía sau. Đi được một quãng ngắn, hoàng đế dừng lại tại một khu đất trống nhỏ và tự hào chỉ về phía một cái cây có khắc vài trăm vạch trên thân. Ông tuyên bố:

– Nó đây này. Có chính xác hai trăm năm mươi vạch trên thân cây. Ta nghĩ mỗi vạch tượng trưng cho một năm.

Rồi tìm thấy một cụm cỏ có vẻ ngon lành, hoàng đế bứt nó lên và lại bắt đầu ăn.

Đến lúc này thì John nhận ra thực tế có vài cái cây khác cũng có dấu vạch tương tự trên thân. Cậu thử đếm chúng. Có tất cả mười cái cây với hai trăm năm mươi vạch, và một cái chỉ mới có 65 vạch. Quai hàm cậu như muốn rớt ra ngoài khi cậu làm phép tính.

– Đừng nói với cháu là ông đã ở đây 2.565 năm rồi chứ?

Và thình lình, John ngờ ngợ nhận ra mình biết vị hoàng đế này là ai.

Hoàng đế gật đầu nói với cậu:

– Một thời gian dài. Rất dài so với một người từ bên ngoài như cậu. Nhưng không phải ở đây. Không phải ở Iravotum.

John thắc mắc:

– Nhưng ông không bao giờ thử trốn thoát sao?

Hoàng đế lắc đầu:

– Để đi đâu chứ? Ta có mọi thứ ta cần ở đây. Rất nhiều cỏ tươi ngon lành để ăn.

Rồi ông đánh rắm lần nữa.

John chỉ nói:

– Vâng, cháu có thể thấy và nghe được ông mãn nguyện như thế nào.

Hoàng đế nở nụ cười xanh lè của mình, rồi mơ màng nhìn lên những đỉnh cây.

John đổi đề tài:

– Cái Lâu đài treo Babylon có ở gần đây không ông?

– Ý cậu là Lâu đài Ishtar ấy à?

John gật đầu. Hoàng đế nói:

– Ừ. Rất gần.

John thì thầm:

– Cháu cần đến đó.

– Tất cả những ai đến đây đều muốn đến Lâu đài Ishtar. Nhưng ở đó họ không giúp cậu đâu.

– Ông không hiểu đâu. Cháu không cần họ giúp. Em gái cháu đang bị giam ở đó. Cháu muốn vào đó, mang em cháu ra, rồi về nhà ở New York. Đó là một thành phố. Một thành phố lớn. Lớn hơn Babylon.

Đôi mắt hoàng đế sáng lên khi nghe nhắc tới Babylon. Ông hỏi:

– Lớn hơn cả Babylon vĩ đại à? Thật không?

– Thật chứ.

– Những tòa nhà ở đó cao không?

– Cao hơn cả núi ấy chứ.

– Ta cũng muốn thấy thành phố vĩ đại của cậu lắm.

John nói:

– Vậy chúng ta thỏa thuận nhé, thưa bệ hạ? Ông giúp cháu vào Lâu đài của Ishtar, và cháu sẽ dẫn ông đến New York.

Hoàng đế gật đầu:

– Có một lối vào đó. Không ai biết nó ngoài ta. Ta sẽ dẫn cậu đến đó. Rồi cậu sẽ dẫn ta đến New York. Đúng không?

John suy nghĩ về điều đó trong vài giây. Có đủ hạng người ở New York. Ai mà thèm chú ý đến một người đàn ông ăn cỏ trong khu Công viên Trung tâm chứ? Dù đó là một người có móng tay, móng chân dài như hoàng đế. Một số tỷ phú dầu mỏ ở Texas còn cư xử lập dị hơn ấy chứ. Ngoài ra, với một bộ móng tay, móng chân được cắt sửa đàng hoàng, một mái tóc đúng mô đen, một chuyến shopping ở đại lộ Madison, và một chuyên gia dinh dưỡng giàu kinh nghiệm – hay nói ngắn gọn, một ít sức mạnh djinn – hoàng đế có thể lột xác hoàn toàn.

Nên John bảo:

– Đi thôi. Trước khi cái thứ đó đi tìm chúng ta.