← Quay lại trang sách

Chương 2 - Bàn Cầu Cơ.

Dược tìm thấy vào năm 1638 bởi năm trăm tín đồ Thanh giáo (những người này đã nhanh chóng xóa sổ bộ tộc da đỏ Quinnipiac bản địa), thành phố New Haven nằm trên bờ Bắc cửa sông Long Island Sound và được biết đến nhiều nhất với trường Đại học Yale. Philippa biết có bảy vị Tổng thống Mỹ đã học ở Yale (đó là chưa kể đến một vị Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như cha ruột của cô), và, một ngày nào đó, cô cũng dự định sẽ theo học ở đó. Ngoài ông Gaunt, cựu sinh viên Yale khác mà John biết đến là Charles Montgomery Burns, tay chủ nhà máy điện hạt nhân Springfi eld trong series phim hoạt hình ăn khách The Simpsons, vốn là chương trình truyền hình yêu thích của cậu. Với John, việc một nhân vật phản diện như gã Burns theo học ở Yale là quá đủ thông tin để cậu có thể đánh giá về ngôi trường này.

Ông Vodyannoy chào đón cặp sinh đôi, cậu Nimrod cùng ông Groanin bước vào một căn nhà ven biển to lớn nhìn giống như một lâu đài trung cổ với tháp canh và những khung cửa sổ mũi tên đúng cách. Rất là ấn tượng với John. Ngoài ra, ông còn có một căn hộ tại tòa nhà ma quái Dakota ở Công viên Trung Tâm của New York. Nhưng ngôi nhà này của ông Vodyannoy thậm chí còn ma quái hơn cả Dakota.

Cậu nhận xét:

– Căn nhà “khủng” thật đấy, ông Vodyannoy. Ông sống ở đây lâu chưa?

Ông Vodyannoy cho biết:

– Khủng? Cháu muốn bảo nó quái quỉ chứ gì? Chắc cháu không biết nhận xét đó gần sự thật như thế nào nhỉ? Khi ta mua căn nhà Nightshakes này vào khoảng bảy mươi năm trước, nó đi kèm với một lời nguyền – một trong những lý do khiến ta không bao giờ ngừng cải tạo lại căn nhà – và lời nguyền là một thứ không ai dám xem nhẹ ở cái chốn này. Căn nhà chỉ có mười ba gian phòng khi ta mới mua nó. Từ đó đến nay, ta đã xây thêm bảy mươi gian phòng nữa, phần lớn ở mạn đông ngôi nhà, mà ta khuyên cháu đừng bao giờ bước vào khu ấy.

John tò mò:

– Phía đó có ma hả ông?

Ông Vodyannoy bảo:

– Còn tệ hơn thế. Mạn phía đông là khu vực vận xấu, xui xẻo của căn nhà này. Mà cấu trúc trong căn nhà này cũng khá thú vị. Chúng phản ánh sự xui xẻo đó. Ví dụ như, có tổng cộng mười ba mái vòm bát úp và mười ba hành lang. Tất cả các khung cửa sổ đều có mười ba ô, tất cả các sàn nhà đều lót bằng mười ba tấm ván, và tất cả cầu thang đều có mười ba bậc. Ở mạn đông của Nightshakes có những hành lang dẫn vào ngõ cụt và những cánh cửa mở ra khoảng trống bên ngoài, và căn nhà giờ đây đã quá lớn, cháu không thể tự tìm đường đi mà không bị lạc. Đó là lý do ta khuyên cháu cứ ở yên bên mạn tây. Hoặc phải đối mặt với những hậu quả có thể rất khủng khiếp. Ngay cả với một djinn. Còn nếu cháu xui xẻo đến nỗi bị lạc ở đó, ta khuyên cháu nên hét càng lớn càng tốt, càng lâu càng tốt và, có lẽ, một linh hồn gan dạ nào đó sẽ dám đến tìm cháu. Còn nếu như trời đã tối mịt, dĩ nhiên, trong trường hợp đó, cháu sẽ phải tự chúc bản thân may mắn cho đến sáng.

Ông Groanin rùng mình bảo:

– Ai mà bắt được tôi lò mò quanh đây khi trời tối thì cứ việc tống tôi vào trại tâm thần nhé.

Ông Vodyannoy cho biết:

– Đó cũng là một khả năng. Anh biết đó, trước khi tôi mua nơi này, nó từng là trại tâm thần địa phương.

Bất cứ ai có đầu óc đều sẽ chú ý cẩn trọng trước lời cảnh báo của Frank Vodyannoy, nhất là khi đã để ý đến vẻ ngoài có phần lập dị của ông: Ông cao lêu nghêu – cao hơn cả cậu Nimrod – với một bộ râu đỏ hoét, một cái mũi khoằm như mỏ đại bàng, và một cái nhẫn to đùng, trên gắn một viên đá mặt trăng có kích cỡ và màu sắc như mắt cá sấu. Ông Vodyannoy đã sống ở New York trong suốt bảy mươi lăm năm, tuy nhiên đôi lúc, cái gốc Nga của ông lại xuất hiện trong các cuộc đối thoại.

– Mà thôi, chuyện đó nói đến đây là đủ rồi. Giải Djinnverso sẽ bắt đầu trưa nay tại thư viện, vào lúc ba giờ. Từ đây đến đó, nếu có ai cần gì, chỉ việc rung chuông gọi anh Bo, quản gia của tôi, giờ anh ta sẽ dẫn mọi người đến phòng của mình. Anh Bo đâu nhỉ?

Một người đàn ông cao lớn với vẻ ngoài có phần méo mó tiến lên phía trước, cầm lấy tất cả hành lý cùng một lúc – bao gồm hơn mười hai cái túi xách, ba lô các loại – và nhấc chúng lên như thể đang xách một đống túi shopping. Để ông Vodyannoy đi lại cửa chào đón một vị khách mới, Zadie Eloko, ông Bo dẫn họ đến phòng của từng người trong im lặng. Nhân cơ hội đó, Philippa đặt một loạt câu hỏi cho cậu Nimrod về lời nhận xét của ông Vodyannoy về mạn phía đông của căn nhà.

– Sau chuyến phiêu lưu lần thước, cháu cứ nghĩ thế giới linh hồn đã ít nhiều bị tẩy trừ. Rằng không còn hồn ma nào nữa. Vì Iblis đã hủy diệt gần như tất cả linh hồn.

Cậu Nimrod cho biết:

– Đúng là thế. Nhưng mỗi khắc trôi qua lại có những hồn ma mới được tạo ra. Người ta chết đi, và đôi lúc họ trở thành hồn ma. Và có một điều chắc chắn là, mọi thứ không còn như xưa. Phải mất vài thế kỷ nữa, thế giới linh hồn mới có lại nhiều hồn ma như trước. Tuy nhiên, một người đàn ông với một ngôi nhà như Nightshakes cũng nên được sở hữu một ít bản quyền lịch sử. Ngoài ra, bên cạnh những hồn ma, còn có nhiều thứ trên thiên đường và mặt đất hơn là những gì cháu có thể tưởng tượng ra đấy, Philippa. Ít nhất cậu hy vọng vậy.

Ông Groanin làu bàu:

– Ngài không còn suy nghĩ nào dễ chịu hơn sao?

Bước vào căn phòng mà ông Bo dẫn tới, ông Groanin đóng cửa lại sau lưng, đưa mắt nhìn xung quanh và gật đầu hài lòng khi nhìn thấy một cái giường to đùng, một cái tivi màn hình rộng, và gian phòng tắm lát đá cẩm thạch rộng như một cánh đồng. Ông vừa mới thả túi xách của mình xuống sàn và nằm ngửa ra giường thì một tiếng gõ cửa vang lên. Là John.

Nặn một nụ cười tươi nhất có thể, ông hỏi cậu bé:

– Cháu muốn gì đây, chàng trai trẻ? Ta hỏi, cháu muốn gì ở ta nào?

John nói:

– Nếu cháu không lầm, ông không mấy hứng thú với giải Djinnverso, phải không ạ?

– Cháu nghĩ đúng đấy. Ta ghét tất cả các loại game ghiếc, ngoại trừ bóng đá và trò phóng phi tiêu.

– Trong trường hợp đó, cháu tự hỏi không biết ông có muốn đi tham quan Bảo tàng Peabody cùng cháu không?

Ông Groanin cân nhắc lời đề nghị của John trong giây lát. Sự thật thì, với ông, đó cũng không phải là một ý tưởng hấp dẫn gì. Tình yêu của ông với các loại bảo tàng không còn được bao nhiêu kể từ lúc ông bị một con hổ tấn công trong khi đang làm việc ở Bảo tàng Anh quốc. Nhưng vốn rất quý John, ông quyết định đi chung với cậu chỉ để đảm bảo cậu không gây rắc rối gì, vì dù có là djinn, bản chất nghịch ngợm của các cậu con trai vẫn muôn đời không đổi.

o O o

Là một tòa nhà to lớn được xây dựng vào cuối thế kỷ mười chín, Peabody có vẻ ngoài giống một tòa giáo đường hơn là một khu bảo tàng. Nhưng không giáo đường nào được trang trí bên ngoài bằng một loại tượng điêu khắc độc đáo như Peabody. Vì, đứng ngạo nghễ trên một bệ đá granit ngay trước mặt bảo tàng là một bức tượng đồng sống động với kích cỡ của một con Torosaurus thật, loài khủng long này gần giống với khủng long ba sừng Triceratops nhất.

Ông Groanin không mấy ấn tượng, làu bàu nhận xét:

– Sao người ta lại dựng tượng một con vật xấu đau xấu đớn như vậy chứ? Không thể hiểu được! Lũ sinh vật ngớ ngẩn này có gì hấp dẫn chứ? Toàn một đám to xác, xấu tính với hàm răng sắc lẻm và cặp giò lóng ngóng.

Rồi khẽ rùng mình, ông tổng kết lại một câu:

– Kinh khủng!

John thì không đồng ý với nhận xét đó:

– Cháu thấy hay mà. Ông cứ thử tưởng tượng xem, chuyện gì sẽ xảy ra nếu bức tượng này sống dậy? Mức độ phá hủy của nó? Bảo đảm sẽ hoành tráng lắm đó!

Ông Groanin tuyên bố thẳng thừng:

– Nếu ta đủ may mắn để được một djinn nào đó ban cho một điều ước ngay bây giờ, ta sẽ ước cho con quái vật to xác khủng khiếp này cứ giữ nguyên như cũ. Vĩnh viễn. Cháu rõ chưa?

John nhăn mặt:

– Vâng ạ. Cháu chỉ tưởng tượng thôi mà.

– Đừng. Khi cháu tưởng tượng cái gì, ta cá là hầu hết người bình thường đều phải lo chuẩn bị mũ bảo hiểm.

Vào trong bảo tàng, họ bỏ vài tiếng đồng hồ lang thang nhìn ngắm những bộ sưu tập thiết bị nghiên cứu khoa học qua các thời kỳ lịch sử, thiên thạch, cổ vật Ai Cập, cùng vô số đồ thủ công mỹ nghệ bằng vàng, gốm sứ của khu vực Nam Mỹ. John chắc hẳn sẽ cảm thấy chán chết đi được, nếu không có cảm giác kỳ lạ rằng có ai đó đang nhìn họ chăm chăm. Thậm chí cậu còn một vài lần thình lình quay phắt lại sau lưng, hy vọng sẽ bắt được kẻ đang theo dõi, nhưng rồi lại không phát giác điều gì bất thường. Thay vào đó, cậu chỉ thu được những cái liếc mắt khó hiểu từ ông Groanin vì hành vi kỳ lạ của mình.

Ông hỏi:

– Cháu bị gì vậy, cậu nhóc? Nãy giờ cháu cứ thấp thỏm như một cái bao tải đựng đầy mèo hoang ấy.

John lắc đầu:

– Không có gì đâu ông.

Liếc ra ngoài cửa sổ, gió đang bắt đầu thổi mạnh, cậu lẩm bẩm:

– Chắc chỉ là gió thôi.

Rồi liếc nhìn đồng hồ đeo tay, cậu bảo:

– Chúng ta về thôi, ông ơi. Nơi này chán quá.

Ông Groanin đồng ý:

– Không nhận xét nào thích hợp hơn! Ta từng thấy những cái khăn mùi xoa có họa tiết còn thú vị hơn nơi này nữa là.

Khi họ về đến Nightshakes, giải đấu Djinnverso đang trong giai đoạn cao trào, và không mấy ai để ý đến John. Lần này, cậu hoàn toàn hài lòng với chuyện đó. Sau bữa tối, cậu đi kiếm vị quản gia kỳ quái của ông Vodyannoy, để hỏi một chuyện. Cậu tìm thấy ông Bo trong phòng để thức ăn dưới tầng hầm, đang dán mắt vào một cuốn tạp chí về đấm bốc, môn thể thao mà ông Bo từng chơi giỏi một thời, phải nói thêm là ông Bo có dáng người to như một con khỉ đột núi và gần như cũng nhiều lông lá như vậy, nên chơi giỏi môn thể thao này là một điều dễ hiểu.

John rụt rè lên tiếng:

– Ông Bo, cháu xin lỗi vì đã làm phiền ông, nhưng ông có thể chỉ đường cho cháu đến chỗ ông Vodyannoy cất giữ bộ sưu tập bàn cầu cơ được không ạ? Ông thấy đó, cháu muốn ngắm chúng một chút. Để xem tại sao chúng được coi là những món đồ cổ quý báu ấy mà.

Ông Bo làu bàu gì đó rồi đứng dậy, với tay lấy cái áo khoác xốc xếch của mình, và, rút từ trong túi áo ra một tấm bản đồ của ngôi nhà, rồi trải nó lên bàn ăn. Chỉ cái ngón trỏ to bằng một khúc cây nhỏ vào một hình vuông nhỏ trên bản đồ, ông nói bằng một chất giọng kết hợp giữa cà phê, nhiều đêm mất ngủ, thuốc lá, cuống họng già nua như bị ai đó bóp nghẹt, và Hungary:

– Chúng ta đang ở đây. Cậu đi theo hành lang này, rồi lên cầu thang đến khu sảnh đầy những cái gương. Ra khỏi sảnh bằng cửa phía Đông, cậu đi xuyên qua phòng ảnh, rồi qua phòng nhạc, sẽ đến phòng tiếp khách mùa hè. Ra khỏi phòng tiếp khách bằng cánh cửa lớn, đi qua nhà kính, và cậu sẽ gặp cầu thang xoắn ốc. Lên hết cầu thang xoắn ốc, nếu may mắn, cậu sẽ đến được đài thiên văn – có thể dễ dàng nhận biết căn phòng đó nếu trông thấy một cái kính thiên văn phản quang lớn. Cầu cho sự may mắn của cậu vẫn tiếp tục, cậu sẽ rời khỏi đài thiên văn bằng một hành lang lát đá malachit xanh, đi liền một mạch qua khỏi phòng trưng bày chiến tích để đến khu sảnh của những cái bóng. Ở đó, trong mười ba cái ngăn kéo lớn dán nhãn CẨN THẬN, cậu sẽ tìm thấy thứ cậu đang tìm.

Gấp tấm bản đồ lại, ông Bo đưa nó cho John và bảo:

– Đây. Cầm lấy nó. Phòng trường hợp cậu đi lạc.

John nói:

– Cám ơn ông. Mà, cho cháu hỏi, tại sao mười ba cái ngăn kéo đó lại dán nhãn CẨN THẬN vậy ông? Vì mấy bàn cầu cơ đó rất đắt giá hả?

Ông Bo nói, giọng cứng nhắc:

– Vấn đề không phải đắt hay không đắt. Chỉ là chúng khá nguy hiểm, và dù với bất cứ lý do nào cũng không nên để những người không am hiểu về chúng đụng tới. Ví dụ như một đứa bé mới mười hai, mười ba tuổi đầu. Dĩ nhiên, vì cậu là một djinn, tôi chắc cậu sẽ biết chính xác mình đang làm gì.

– Vâng. Ông nói đúng. Cháu biết cháu đang làm gì mà. Dĩ nhiên rồi.

Bất chấp niềm tin ông Bo đặt vào cậu, sự thật là John gần như không có tí khái niệm nào về công dụng của một bàn cầu cơ. Cất tấm bản đồ vào người, cậu vội di chuyển ra cửa, miệng thì nói:

– Cám ơn ông đã giúp.

Chỉ tay về hướng ngược lại, ông Bo nhắc:

– Không phải hướng đó đâu. Hướng này này. Mà sẵn nhắc luôn, khu sảnh của những cái gương nằm ở ngay rìa mạn phía đông của căn nhà. Nói cách khác, nó chính là biên giới với mạn đông, một nơi không nên đến khi trời tối. Ngay cả với một djinn như cậu. Tám tháng trước đây, em gái tôi, Grace, đã mất tích trong mạn đông.

John tò mò:

– Bà ấy lạc trong đó bao lâu vậy ông?

Ông Bo cho biết:

– Rất tiếc phải nói rằng đến giờ nó vẫn mất tích. Thỉnh thoảng chúng tôi có nghe thấy tiếng khóc của nó văng vẳng từ đâu đó trong nhà, nhưng dù cố đến mấy chúng tôi vẫn không tài nào tìm thấy nó. Chúng tôi đã để thức ăn rải rác khắp nhà cho nó. Và thức ăn luôn biến mất. Nên chúng tôi cho rằng nó vẫn còn sống.

– Nhưng ông Vodyannoy chắc hẳn có thể tìm ra bà ấy mà. Với sức mạnh djinn ấy.

Ông Bo thắc mắc:

– Vodyannoy không giải thích về chuyện đó với cậu sao?

– Giải thích chuyện gì cơ?

– Có một chú trói buộc djinn gắn trên căn nhà này, khiến cho sức mạnh djinn không hoạt động trong đây. Đó là lời nguyền Nightshakes, thưa cậu. Trước khi được sử dụng như một trại tâm thần, nó từng thuộc về một djinn tộc Ifrit. Một tộc djinn cực kỳ khó chơi. Trên thực tế, nếu cậu cho phép tôi nói thẳng, đó là những gã cuồng thể hiện sự xấu xa của mình.

– À vâng, cháu cũng đụng độ với họ rồi ạ.

Bằng một giọng nói trầm sâu và khàn đục như một con cá sấu, ông Bo nhắc:

– Cậu sẽ cẩn thận, đúng không? Bị lạc mất hai người không phải là một chuyện vui vẻ gì với chúng tôi đâu. Lạc một người thì còn có thể đổ cho xui xẻo. Nhưng để lạc đến hai người thì chỉ có thể tự trách tội bất cẩn.

– Vâng. Cháu sẽ ổn mà.

Trong một giây, những hạt mưa và những cơn gió chà xát vào khung cửa sổ như những con sói đói, chớp nhoáng, một tia chớp rọi sáng căn phòng để thức ăn của ông Bo như có ai đó chơi đùa với công tắc đèn điện.

Ông Bo nhận xét:

– Sắp có bão đấy.

John đáp lời:

– Cháu thì nghĩ nó đã thức dậy, ăn sáng và bắt tay vào việc từ lâu rồi ạ.

Ông Bo không mỉm cười trước câu nói đùa của John. Ông nói:

– Tôi nhắc đến nó, thưa cậu, vì hệ thống điện ở phía mạn đông của căn nhà này luôn không ổn định. Đặc biệt là trong một cơn bão điện từ. Tôi nghĩ cậu nên mang theo cây đèn pin này.

Ông Bo đưa cho John một cây đèn pin, rồi ngồi xuống tiếp tục đọc nốt cuốn tạp chí của mình. Có phần bất an trước lời cảnh báo của vị quản gia nhưng không mảy may nhụt chí, vì cậu là một cậu bé ngoan cường và, phần lớn thời gian, rất dũng cảm, John thẳng tiến về phía khu sảnh của những cái bóng.

o O o

Phải mất nửa giờ John mới đến được khu sảnh của những cái bóng, và đến giờ này, cậu gần như phải liên tục lẩm nhẩm nói chuyện một mình để xua đi nỗi sợ hãi. Phòng ảnh treo đầy hình tổ tiên của ông Vodyannoy, vài người trong số đó nhìn như thể thuộc về một cuộc trình diễn những khuôn mặt quái dị nhất của lễ hội carnival. Đặc biệt là một bà cố vĩ đại với bộ râu đỏ hoét. Phòng tiếp khách mùa hè thì lạnh lẽo y như một hầm mộ, điều này không gây ngạc nhiên lắm vì vài bức tượng đầu thú bằng đá ở đó được chở về từ hầm mộ gia tộc Vodyannoy ở Vienna. Bước ra khỏi nơi được-gọi-là-phòng-tiếp-khách-mùa-hè đó thông qua một cánh cửa cao như giá bóng rổ, John bước xuyên qua khu nhà kính giăng đầy mạng nhện và leo lên một cái cầu thang xoắn ọp ẹp, trên đỉnh là một đài thiên văn, trên này có một bộ xương người ngồi trên một cái ghế bành bọc da màu đỏ nhìn như thể nó đang dùng kính thiên văn quan sát mặt trăng. Rồi, rời khỏi đài thiên văn bằng đoạn hành lang lát đá malachit xanh, cậu bước vào phòng trưng bày chiến tích. Không có một cái cúp vàng, bạc nào ở đây, chỉ có những con thú nhìn như thật đã bị bắn chết và nhồi bông một cách chuyên nghiệp trước khi được sắp đặt quanh phòng như vô số món đồ nội thất dữ tợn: một con gấu Kodiak, một con sư tử, một con hổ, một con chó rừng, một con linh cẩu, một con chó sói, một con báo, một con tê giác, và một con voi với ánh nhìn giết chóc trong cặp mắt màu hổ phách.

Cậu lẩm bẩm với bản thân:

– Quên Peabody đi nhé, chiến hữu. Cậu nên thăm thú cái bảo tàng này. Nó làm tớ nổi cả da gà rồi đây này.

Nhưng không gì có thể làm lung lay ý định của John. Cậu đã quyết chí sử dụng một trong những bàn cầu cơ để liên lạc với một linh hồn nào đó và tìm hiểu cho bằng được số phận của ông Rakshasas tội nghiệp. Một vài tháng trước đó, linh hồn của ông Rakshasas đã biến mất khỏi Bảo tàng Metropolitan ở New York, hình như ông bị một chiến binh đất nung Trung Quốc ma quái hấp thụ. Cơ thể của ông vốn được bảo quản tại căn hộ của gia đình Gaunt ở đường Đông 77, cũng đã biến mất không lâu sau đó. John rất nhớ ông lão djinn cùng những câu nói bằng tiếng Ai Len rất đặc trưng và thông thái của ông.

Khu sảnh của những cái bóng thật xứng đáng với tên gọi của nó. Cái đèn chùm trên trần có vẻ như không hoạt động, thay vào đó, một ngọn lửa bập bùng cháy trong cái lò sưởi to đùng khiến mọi thứ ở trong cảnh tranh tối tranh sáng, và rung rinh như có sức sống. Như thể cả căn phòng đang chuyển động, nhảy nhót. John bật đèn pin lên, khó khăn thở hắt ra một hơi, và nghiến răng mất mấy giây.

Cậu lẩm bẩm:

– Không có gì đáng sợ. Chỉ là bóng lửa phản chiếu thôi, không gì đặc biệt cả.

Đứng sừng sững ngay chính giữa phòng là một cái tủ đầy ngăn kéo hình lục giác cao lớn làm bằng sơn mài Trung Quốc màu đỏ sậm. Dưới ánh lửa, nhìn nó như thể thuộc về địa ngục.

Nó có chính xác mười ba ngăn kéo. Trên mỗi ngăn kéo đều được sơn một chữ CAVE óng ánh sắc vàng. Trong một giây, John tự hỏi có phải cậu đã tìm nhầm chỗ hay không, cho đến khi cậu nhớ ra cave là tiếng Latin cho từ “cẩn thận”. Nhưng thứ làm đầu óc bất an của cậu phải ngay lập tức để ý đến là một hàng chữ tiếng Latin khác.

Cậu đọc:

– Carpe diem. Carpe diem. Nắm lấy tay cầm ngăn kéo.

Cậu nắm lấy một cái tay cầm ngăn kéo và kéo.

– Đang tìm gì à?

Thét lên một tiếng sợ hãi, John quay phắt người lại và trông thấy một người phụ nữ ngồi trên một cái ghế tay gác cao nhìn như thể một mụ phù thủy của căn phòng thần bí này. Bà có một mái tóc dài rối bù, quần áo dơ dáy, với một nụ cười kỳ dị trên khuôn mặt cáu bẩn xương xẩu vàng khè. Bản năng nói cho cậu biết đây là cô em gái thất lạc của ông Bo.

Nuốt ngược nỗi sợ hãi vào trong lòng, cậu hỏi:

– Bà là Grace phải không ạ?

Bà nói:

– Tôi không nghĩ tôi biết cậu, cậu nhóc.

John bảo:

– Anh trai bà, ông Bo, đã kể cho cháu nghe về bà.

Bà the thé hỏi:

– Anh ấy nói gì?

– Không có gì. Chỉ là chuyện bà đã mất tích ở mạn đông thôi.

– Một chuyện dễ xảy ra trong căn nhà này. Quá dễ.

John nói tiếp:

– Bà hiện đang ở tại mạn tây. Nếu bà muốn, cháu có thể chỉ đường đi về cho bà. Sau khi cháu đã làm xong chuyện cháu muốn làm khi đến đây.

– Tôi nghĩ cậu muốn chơi bài. Cậu muốn chơi bài à?

– Bài? Không ạ. Không hẳn thế.

– Cậu đang làm gì với mấy cái ngăn kéo đó đấy? Không có bài trong đó đâu, nếu đó là mục đích của cậu. Và cũng chẳng có thức ăn. Tôi đã kiểm tra chúng rồi.

– Cháu đang tìm mấy cái bàn cầu cơ của ông Vodyannoy.

John trả lời, và rút một bàn cầu cơ ra khỏi ngăn kéo. Đó là một tấm bảng gỗ tinh xảo, khắc hình vài người thổ dân da đỏ bản địa cùng một người đàn ông mặc giáp có hàm râu dài.

Bà Grace cho biết:

– Mấy tấm bảng này, chúng nguy hiểm lắm đó. Cậu không nên nghịch chúng.

Nhưng John không để ý đến lời cảnh báo đó. Lấy bàn cầu cơ cùng một trái tim nhỏ bằng gỗ bansa, đóng vai trò như con cơ, cậu trải chúng lên mặt thảm gần lò sưởi, và ngồi xuống trước chúng. Trên tấm bảng cầu cơ có in một bảng chữ cái, mười con số từ một đến không, và những chữ sí, no, hola, cùng adiós. Tò mò muốn xem chuyện gì sẽ xảy ra, bà Grace lò mò đi lại và ngồi xuống đối diện với John. Bà ngồi đủ gần để cậu có thể ngửi thấy mùi trên người bà, và đó không phải là một cái mùi dễ chịu gì, tuy nhiên John lại quá lịch sự nên không thể mở miệng chê bà hôi và ngồi xích ra xa. Ngoài ra, cậu vẫn có phần hơi sợ bà vì rõ ràng thần kinh của bà có vấn đề. Hít một hơi sâu, cậu đỡ tay vào mặt dưới tấm bảng, mắt nhìn chằm chằm vào nó.

Cậu nói lớn:

– Tên tôi là John Gaunt. Tôi đang cố liên lạc với một người bạn của tôi, tên là ông Rakshasas, để biết được rốt cuộc ông ấy đã qua bên kia hay chưa. Nếu ông Rakshasas có ở đây, hoặc có ai đó ở đây quen ông Rakshasas và biết ông ấy đang ở đâu, làm ơn hiện diện cho chúng tôi biết.

Không có gì xảy ra ngoài việc bà Grace lắc đầu và thầm thì:

– Nghe lời tôi đi, cậu nhóc. Đây không phải chuyện một đứa trẻ nên làm đâu.

John rít nhẹ:

– Im lặng nào. Làm ơn. Cháu đang cố liên lạc với bên kia mà bà.

Bà Grace cười khúc khích:

– Bên kia của cái gì cơ?

John thừa nhận:

– Cháu cũng không biết chính xác. Nhưng trước đây có một bà đồng đã liên lạc với cháu. Và đó là điều bà ấy đã nhắc đến.

Lông mày chau lại, bà Grace hỏi:

– Một bà đồng đã liên lạc với cậu? Cậu chết rồi hả? Nhìn cậu không giống người chết.

– Bà đừng bắt cháu giải thích ngay bây giờ được không?

John nói, và di chuyển tay lên phía trên tấm bảng. Hành động này có vẻ hiệu quả, vì gần như ngay lập tức, trái tim gỗ nhỏ chuyển động.

Bà Grace nói:

– Cậu di chuyển nó.

– Không, cháu không có đụng đến nó.

– Có, cậu đã đụng vào nó.

John quyết định lờ bà đi để tập trung tinh thần vào bàn cầu cơ. Cậu hỏi lại:

– Có ai ở đây không?

Rồi cậu lo lắng đảo mắt nhìn quanh khi nghe thấy tiếng cái gì đó gõ vào khung cửa sổ. Nhưng đó chỉ là một nhánh cây bên ngoài. Gió rên rỉ trong lò sưởi, lay động ngọn lửa, và một luồng khói mỏng lờ đờ trôi qua bề mặt tấm bảng. Rồi trái tim một lần nữa di chuyển, lần này rõ ràng hơn, từ chữ cái này đến chữ cái khác. John đánh vần từ được tạo thành.

– P-A-I-T-I-T-I.

Rồi trái tim ngừng lại.

– Paititi? Đó là một cái tên? Hay một từ? Tôi không hiểu.

Giờ đây trái tim gỗ bắt đầu di chuyển như điên, và John phải vật lộn không chỉ để đánh vần nên từ mà còn phải hiểu được chúng.

Cậu vội nói:

– Người di chuyển nhanh quá. Chậm lại giùm đi. Và làm ơn cho tôi biết đây là ngôn ngữ gì? Tôi không nhận ra chúng.

Cuối cùng, cậu phải hét lên:

– Này nhé, dù người đang trả lời tôi là ai thì cũng làm ơn cho tối biết đây là ngôn ngữ gì.

Trái tim ngừng lại trong giây lát, rồi một lần nữa chậm chạp chuyển động.

– M-A-N-C-O-C-A-P-A-C. Mancocapac? Tôi e là tôi không biết tiếng Mancocapac. Ước gì tôi biết. Nhưng tôi không biết.

Trong những hoàn cảnh bình thường, điều ước biết tiếng Mancocapac của John sẽ rất có ích, vì dù gì cậu cũng là một djinn. Trước đây, John từng có một lần ước gì cậu hiểu được tiếng Đức khi đến Berlin, và lập tức phát hiện cậu có thể. Nhưng chú trói buộc cổ đại của tộc Ifrit lên Nightshakes đồng nghĩa với việc điều ước của John không được thực hiện, nên thật không may, cậu tiếp tục không hiểu kẻ vô hình đang đối thoại với cậu rốt cuộc muốn nói gì.

Trái tim bắt đầu run bần bật trên bàn. Bà Grace nhận xét:

– Tôi nghĩ cậu làm nó khó chịu rồi đó.

Giây tiếp theo, trái tim gỗ nhỏ bé bay vọt vào lò sưởi như thể bị một ngón tay vô hình mạnh khỏe nào đó búng thẳng vào đống lửa. Ngay khi John vội vã chạy lại cứu trái tim cổ khỏi ngọn lửa, một thứ gì đó cầm bàn cầu cơ lên và ném vụt nó qua căn phòng, va vào và làm vỡ toang một trong mười ba ô cửa sổ. Ngọn lửa trong lò dường như trỗi dậy trước luồng khí oxy mới. Một cụm khói khổng lồ theo đường ống khói ùa vào phòng và dường như tụ lại thành một bóng người vô hình. Trong một giây ngắn ngủi, John trông thấy thứ nhìn như hình dáng một người đàn ông với hai cái dái tai dài nhất mà cậu từng thấy. Tóc mái gần như che kín mắt, người đàn ông khoác một cái áo choàng lông chim khiến ông nhìn giống một con công khổng lồ. Rồi hình dáng ấy biến mất khỏi tầm mắt, nhưng có vẻ như vẫn còn đâu đó trong căn phòng, vì có thứ gì đó giật tất cả mười ba ngăn kéo của cái tủ sơn mài đỏ hình lục giác ra, đổ tất cả bàn cầu cơ của ông Vodyannoy xuống sàn nhà. Một giây sau đó, khung cửa sổ bật toang và linh hồn – vì John chắc chắn đó là một linh hồn – người đàn ông biến mất trong đêm giông bão ngoài kia.

Bà Grace tuyên bố:

– Hắn đi rồi. Tôi là tôi nhẹ cả người khi tống khứ được người như hắn. Đập tan tành nơi này như vậy đấy. Phá hoại như quỉ à.

John để ngón tay lên miệng suỵt một tiếng, vẫn còn thứ gì đó lảng vảng trong phòng. Một thứ gì đó ẩn nấp trong bóng tối của khu sảnh những cái bóng. Một thứ gì đó chỉ vừa mới đến.

Nó nghe như tiếng sấm đì đùng. Hoặc có thể tiếng một gã đàn ông to lớn ngáy vang sau một bữa trưa thịnh soạn. Một gã đàn ông to lớn với cặp hàm chắc khỏe và những cái răng sắc nhọn. Một gã đàn ông to lớn mang hình dáng giống họ nhà mèo hơn con người. Tóc gáy John dựng đứng khi cậu thình lình nhận ra mô tả đó không giống một gã đàn ông to lớn, mà giống như đang nói về một con mèo to lớn. Loại mèo có đốm trên lông. Giống như con cậu đã thấy trong phòng trưng bày chiến tích. Tiếng gầm gừ đến gần hơn và cậu trông thấy một hình dáng hoàn toàn giống mèo đang chậm rãi tiến lên từ một góc phòng.

Nuốt nước miếng cái ực, bà Grace hỏi:

– Cái gì vậy? Một con cừu hả?

John thì thầm:

– Bà điên sao, đó rõ ràng không phải một con cừu.

– Vậy nó là gì?

John không trả lời. Nhưng trong đầu, cậu đã nhận ra loại mèo lớn nào họ sắp sửa đối mặt. Đó là một con báo đốm Nam Mỹ, hay otorongo. Một con to lớn, đầy cơ bắp săn chắc, dài gần hai mét và có lẽ nặng đến một trăm kí.

Bà Grace hỏi:

– Cậu có chắc đó không phải là một con cừu không vậy?

Người ta thường nói rằng adrenalin có thể khiến một người đàn ông bị một con bò điên đuổi theo nhảy phắt qua cả một cánh cổng, hoặc làm một đứa trẻ nhấc bổng một món đồ nặng trịch chặn ngang cơ thể cha mẹ chúng. Điều tương tự đã xảy ra với John, chỉ khác ở chỗ cậu là một djinn và, như tất cả mọi người đều biết, djinn được tạo nên từ lửa. John không suy nghĩ gì, chỉ làm theo những gì bản năng sống còn của cậu thúc giục. Cậu thò tay vào lò sưởi, nhấc lên một khúc gỗ cháy bừng bừng và, cùng lúc con otorongo phóng vụt về phía cậu, cậu nhét mạnh nó vào ngay giữa cái miệng ngoác rộng của con vật. Tiếng gầm của con otorongo trở thành tiếng rống thất thanh, và con mèo lớn rụt người lại trước ngọn lửa trong tay John. Nó quay người lại, liếc nhìn John lần nữa với cặp mắt sáng lòe trong bóng tối, như thể cân nhắc việc có nên một lần nữa tấn công một người được vũ trang với lửa hay không. Dường như quyết định đó không phải là một hành động thông minh, nó gồng mình như sợi dây căng cứng trên cánh cung, rồi phóng vọt qua cửa sổ.

Thở phào nhẹ nhõm, John quẳng khúc gỗ cháy vào lại trong lò và nói:

– Phù, xém nữa thì tiêu rồi.

Bà Grace vẫn lẩm bẩm:

– Con cừu đó nhìn ngộ ghê ta.

Thấy có tranh cãi lại cũng chẳng ích lợi gì, John chỉ ậm ờ:

– Vậy à?

Túm lấy bàn tay John, bà Grace nhìn chằm chằm vào nó với ánh mắt kinh ngạc và nói:

– Tay của cậu này. Chẳng có dấu vết nào cả. Không một vết phỏng. Không có gì. Một vết muội than cũng không nốt.

Nhìn vào tay mình, John hơi kinh ngạc khi phát hiện bà nói đúng. Bàn tay cậu hoàn toàn lành lặn.

Bà tuyên bố một cách đắc thắng:

– Cậu không phải người.

John mỉm cười. Lúc này đây, cậu gần như không còn tâm trí quan tâm chuyện sẽ có thêm một người bình thường biết được bí mật của cậu.

– Không, cháu không phải.

Có phần sợ sệt, bà Grace thả tay cậu ra và thầm thì:

– Nè, đừng nói với tôi là cậu thực sự đã chết chứ.

John lắc đầu:

– Không, cháu chưa có chết. Cháu là một djinn.

– Djinn? Giống như một con cừu hả?

– Ừ. Giống như một con cừu. Mà nè, sao bà hứng thú với cừu như vậy?

– Vì tôi cũng là một con cừu. Không những vậy, tôi còn là một con cừu đi lạc. Nếu tôi tìm được những con cừu đi lạc khác, tôi nghĩ anh trai tôi, Bo, cũng có thể tìm thấy tôi. Cậu biết đó. Giống như trong bài đồng dao của con nít ấy.

John nghĩ rằng đó là câu chuyện buồn nhất cậu từng nghe, rồi thuyết phục bà Grace đi cùng mình quay về phòng để thức ăn của Nightshakes, ông Bo đã vô cùng phấn khởi khi được đoàn tụ với em gái.

John thú nhận:

– Ông Bo à, cháu e là khu sảnh của những cái bóng hiện giờ có hơi lộn xộn. Mấy cái bàn cầu cơ lăn lóc khắp trên sàn. Nhưng cháu đã nghĩ tốt hơn là nên mang bà Grace về đây càng sớm càng tốt thay vì tốn thời gian thu dọn chúng.

Ôm chặt lấy bà Grace, em gái vị quản gia giờ đây đã bắt đầu bật khóc hu hu, hình như cuối cùng bà cũng đã nhận ra chuyện gì xảy ra với mình, ông Bo nói:

– Cứ để đó cho tôi, thưa cậu. Cám ơn cậu rất nhiều, thưa cậu, tôi vĩnh viễn mắc nợ cậu. Bất cứ khi nào cậu cần, hãy gọi tôi nhé.

Nói xong, ông hôn lên tay John một cách thành kính.

Rụt tay lại, vì cậu không thích bị ai hôn tay, đặc biệt là bởi một người đàn ông trưởng thành, John bảo:

– Có một việc ông có thể giúp cháu. Cháu sẽ rất cám ơn nếu ông không nhắc đến việc này với bất cứ ai. Cậu Nimrod của cháu có thể sẽ không vui nếu biết được cháu đã làm gì. Ông thấy đó, cậu ấy dù sao cũng là người Anh.

– Vâng, thưa cậu. Tôi hoàn toàn hiểu việc đó. Cậu không cần phải giải thích gì thêm. Tôi từng làm việc cho một thành viên dòng dõi hoàng gia Anh, và tôi có thể bảo đảm với cậu rằng, không ai cứng nhắc hơn họ. Mấy người đó khắc nghiệt đến nỗi họ có thể đánh trứng thành bánh trứng đường chỉ bằng một cái liếc mắt.

– Vâng. Cháu nghĩ mô tả vậy là chuẩn quá chuẩn.

Ông Bo lại cầm lấy tay John, và cậu quyết định cậu nên đi ngủ trước khi viên quản gia người Hungary có thể hôn nó lần nữa. Cậu cảm thấy tối nay cũng không hoàn toàn bị lãng phí. Dù thất bại trong việc tìm kiếm tin tức về ông Rakshasas, nhưng ít nhất cậu cũng đã giải cứu được bà Grace.

Khi đi lên cầu thang, John nhìn thấy Philippa và cậu Nimrod vẫn còn say sưa chơi Djinnverso trong thư viện. Có vẻ như họ sẽ tiếp tục như thế đến sáng. Cái này mới thật sự là lãng phí thời gian, John nghĩ thầm. Hoàn toàn lãng phí thời gian như việc la cà trên sân bóng đá của các trường đại học.