← Quay lại trang sách

Chương 3 - Manco Capac.

Sáng hôm sau, khi xuống phòng ăn sáng, John nhìn thấy cậu Nimrod và ông Vodyannoy vẫn mặc bộ đồ của ngày hôm trước với vẻ mặt như sắp đọc cáo trạng. Cậu Nimrod tế nhị vào đề:

– Tối qua có một sự cố đã xảy ra thì phải.

Bàn tay cuộn lại thành nắm đấm, John rủa thầm ông Bo vì tội to mồm. Không. Đó là một lời buộc tội không công bằng. Ông Bo không phải loại người hay mách lẻo như vậy. Ngay cả khi chủ của ông là một djinn cực mạnh. Có lẽ cô em gái ngớ ngẩn của ông, bà Grace, đã lỡ miệng nhắc đến một điều gì đó. Khẽ cắn môi, John hy vọng cậu có thể nói tránh được vấn đề này.

– Ồ, thật hả cậu? Sự cố gì thế?

Cậu Nimrod giải thích:

– Có vẻ như bảo tàng Peabody đã bị đột nhập.

John thở phào nhẹ nhõm và cố che giấu nụ cười khi cậu tự phục vụ cho mình một miếng bít tết lớn. Cậu Nimrod tiếp tục:

– Một cuộc đột nhập hung bạo rất kỳ lạ. Cửa trước của bảo tàng đã bị phá vỡ bởi một vật thể lớn, và một số hiện vật quý giá bị quăng tứ tung khắp nơi.

John nói:

– Cháu không thấy việc đó có liên quan gì với cháu cả.

Cậu Nimrod hỏi:

– Chiều hôm qua cháu đã ở Peabody trong khoảng hai tiếng, đúng không?

John gật đầu:

– Vâng. Và chán đến chết. Cháu có thể cam đoan cháu không trộm gì ở đó, nếu đó là điều cậu nghi ngờ.

Cậu Nimrod bảo:

– Để cậu kể hết cho cháu biết chính xác chuyện gì đã xảy ra nhé. Rồi cháu sẽ hiểu tại sao cậu phải nói chuyện này với cháu, John. Cháu có thấy bức tượng Torosaurus ngay trước cửa bảo tàng không?

– Có ạ. Nó khá “độc” đấy.

Cậu Nimrod đưa cho John một bức ảnh chụp con khủng long bằng đồng đứng trên bệ đá hoa cương bên ngoài Peabody và hỏi:

– Bức tượng Torosaurus này phải không?

– Vâng ạ.

Cậu đưa cho John một bức hình khác:

– Có lẽ cháu sẽ muốn biết con Torosaurus đó bây giờ nhìn như thế này đây.

John nhún vai.

– Cháu không thấy…

Cậu Nimrod ngắt lời:

– Nó giờ đã đứng theo hướng ngược lại trên bệ. Giờ nó đứng đối mặt với bảo tàng, thay vì quay lưng lại.

John cảm thấy cằm cậu đang rơi xuống đất.

– Cháu nhìn thấy vấn đề rồi chứ, John? Bức tượng đồng này nặng đến vài tấn, bằng trọng lượng của một con Torosaurus thật. Cho nên, đây hiển nhiên không phải một trò đùa tầm thường của cánh sinh viên. Nói một cách khác, chúng ta khó lòng tưởng tượng được ai đó có thể làm được việc này trừ khi có được một cái cần cẩu rất, rất lớn, và đó là một giả thuyết khó có thể xảy ra. Cho nên chúng ta có được một lời giải thích rõ ràng ở đây là ai đó đã sử dụng sức mạnh djinn để làm con Torosaurus đó leo xuống bệ và phá vỡ cửa trước bằng cái sừng của nó. Cậu không biết tại sao. Bất cứ ai có khả năng thực hiện được kỳ công này thì họ không cần chú ý đến tội lỗi của họ.

Ông Vodyannoy nhún vai ra vẻ rất lấy làm tiếc và cho biết:

– Cảnh sát khá bối rối về việc này, dĩ nhiên. Nhưng họ đã tìm thấy mảnh vụn của cửa trước bảo tàng Peabody trên sừng bức tượng đồng đó.

Cậu Nimrod nói:

– Anh Groanin đã nói cho cậu biết là cháu đặc biệt có ấn tượng với bức tượng. Rằng cháu đã thực sự thắc mắc chuyện gì sẽ xảy ra nếu bức tượng đó sống lại.

John bảo:

– Đúng là cháu đã nói như vậy. Nhưng coi nào, cháu không có liên quan gì đến vụ đột nhập. Thật đó.

Cậu vừa định biện hộ thêm nữa, nhưng rồi đột ngột nghĩ lại. Có khi nào sự cố kỳ quái này lại có liên quan gì đó với sự cố bàn cầu cơ ở khu sảnh của những cái bóng không nhỉ? Có khi nào người đàn ông ma quái mà cậu đã triệu hồi từ thế giới bên kia chính là người đã làm bức tượng đồng sống dậy và đột nhập vào bảo tàng Peabody?

Cậu Nimrod hỏi:

– Sao? Cậu nghĩ cháu đang định nói gì đó, phải không?

Cậu chờ trong giây lát rồi nói tiếp:

– Cháu không nghĩ thật là kỳ lạ sao, khi mà một chuyện quái dị như thế này lại đồng thời xảy ra vào cái đêm em gái của anh Bo, cô Grace, được giải cứu khỏi mạn đông của tòa nhà Nightshakes sau tám tháng mất tích? Hay đó đơn giản chỉ là một sự trùng hợp tình cờ?

John khăng khăng:

– Cháu không có làm gì với con Torosaurus đó. Và tất nhiên cháu cũng chẳng ăn trộm bất cứ món đồ trưng bày ngớ ngẩn nào.

– Có lẽ thế. Tuy nhiên, trong tình hình hiện tại chúng ta không có được bất cứ lời giải thích nào, cậu dám cá cháu có thể đưa cho chúng ta một lời giải thích rõ ràng hơn cho việc này.

John thở dài. Hiện tại, cậu không thấy có cách giải quyết nào khác ngoài một lời thú nhận thẳng thắn và đầy đủ. Cậu Nimrod đã nắm được thóp của cậu. Dĩ nhiên, với số lượng cá ông cậu của cậu đã ăn, John chẳng mấy ngạc nhiên về điều đó. Cậu Nimrod có một bộ não to bằng cả trái bóng rổ chứ chẳng ít. Cậu bé đã bị bắt bài. Vì thế, John kể cho cậu Nimrod và ông Vodyannoy biết chuyện đã xảy ra với cái bàn cầu cơ ở khu vực xa nhất của mạn Tây.

Cậu Nimrod thốt lên:

– Ôi, đèn ơi, cháu điên rồi hả, con trai?

Ông Vodyannoy nói thêm:

– Những cái bàn cầu cơ đó, mãi mãi không nên bị đụng tới. Chúng cực kỳ nguy hiểm. Đó là lý do tại sao chúng được giấu kỹ.

John xin lỗi:

– Cháu xin lỗi. Cháu không có ý xấu gì đâu, thật đó. Cháu chỉ muốn tìm cách liên lạc với ông Rakshasas mà thôi.

Đặt một tay lên vai John, cậu Nimrod gật đầu bảo:

– Cháu biết đó, cậu cũng nhớ anh ấy.

– Cậu thật sự nghĩ chuyện cháu sử dụng cái bàn cầu cơ đó có thể có liên quan đến sự cố ở Peabody sao?

Cậu Nimrod nói:

– Cậu e rằng đó là kết luận mà chúng ta buộc phải xác nhận. Người mà cháu đã triệu hồi, dù đó là ai, có lẽ đã rất khó chịu.

John hỏi:

– Vâng, nhưng tại sao ạ?

Ông Vodyannoy nói:

– Bởi vì ông ấy chắc hẳn đã không thực hiện được mục đích mà ông ấy được triệu hồi để làm, đó là giao tiếp với cháu. Có lẽ ông ấy đã điên tiết lên khi phát hiện cháu không hiểu được ngôn ngữ của ông ấy. Cháu có nhớ nó là gì không? Hay bất cứ từ nào mà ông ấy đã dùng?

John thú nhận:

– Không ạ.

– Vậy thì chúng ta sẽ phải tìm câu trả lời từ cái bàn cầu cơ mà cháu đã sử dụng. Cháu thấy đấy, mỗi cái bàn cầu cơ sẽ triệu hồi ra một thực thể khác nhau, từ một khu vực cụ thể nào đó trên thế giới, tùy thuộc vào nguồn gốc của bàn. Cháu nghĩ cháu có thể nhớ được cái bàn cầu cơ đó nhìn như thế nào không?

John gật đầu:

– Nếu nhìn thấy, chắc chắn cháu sẽ nhận ra nó.

Họ vòng ngược qua khu đại sảnh của những cái bóng. Dưới ánh sáng ban ngày, nhìn nó hoàn toàn khác với ấn tượng của cậu vào tối hôm trước. Chẳng mấy ma quái nữa, John nghĩ thầm. Ông Bo đã xếp gọn tất cả bàn cầu cơ vào mười ba ngăn kéo của cái tủ sơn mài đỏ, và đang bắt tay vào sửa khung cửa sổ bị vỡ.

Ông thậm chí còn đang huýt sáo vui vẻ. Mở ngăn kéo ra, ông Vodyannoy bắt đầu đưa cho John xem vô số bàn cầu cơ trong bộ sưu tập của ông, và chẳng bao lâu sau, John nhận ra cái bàn cầu cơ mà cậu đã sử dụng tối hôm trước.

Cậu nói:

– Nó đây. Chính là cái này. Cháu nhận ra hình những người thổ dân châu Mỹ trên đó, và cả người đàn ông mặc áo giáp này nữa.

Ông Vodyannoy cho biết:

– Trên thực tế, những người mà cháu gọi là thổ dân châu Mỹ này là người Inca. Và người đàn ông mặc áo giáp này được cho là Pizarro. Đây là thiết kế của những người Tây Ban Nha đi chinh phục Nam Mỹ. Và nó đã được làm ở Nam Mỹ vào khoảng một trăm năm mươi năm trước. Điều đó có nghĩa, nhiều khả năng linh hồn mà cháu đã triệu hồi, nếu đó là linh hồn chứ không phải một ác quỷ hay một con nguyên tố đến từ khu vực đó. Như vậy cũng giải thích được về con otorongo[2].

John kể tiếp:

– Cháu nhớ là người đàn ông đó có hai cái dái tai rất lớn, cùng một cái choàng lông chim.

Cậu Nimrod hỏi:

– Nghĩa là cháu đã thật sự thấy được ông ấy?

– Chỉ trong tích tắc thôi ạ. Một luồng gió từ ống khói đã thổi ra một ít khói, và chúng đã khiến hình dạng ông ấy rõ ràng hơn một tí.

Cậu Nimrod nói:

– Phải chi cháu nhớ được tên ông ấy thì tốt quá.

Ông Vodyannoy bảo:

– Chúng ta nên đến Peabody. Có thể một trong vô số hiện vật trưng bày về khu vực Nam Mỹ của bảo tàng sẽ giúp cháu trai anh nhớ lại điều gì đó.

o O o

Dải băng vàng của cảnh sát dùng phong tỏa hiện trường chăng ngang phía trước cánh cửa ra vào vỡ nát của Peabody, và không ai được phép vào trong ngoại trừ nhân viên bảo tàng và đội điều tra hiện trường vụ án đến từ cục cảnh sát New Haven. Nhưng không gì trong đó có thể ngăn trở được ba djinn. Rời khỏi lời nguyền của tòa nhà Nightshakes, họ chỉ cần đơn giản bỏ lại thân thể trong xe ông Vodyannoy, trong trạng thái vô hình, dễ dàng bước qua viên cảnh sát đứng gác trước những mảnh gỗ vụn ngổn ngang một thời còn là cánh cửa trước của bảo tàng. Nhưng đó là sau khi họ tạm ngừng lại để nghe thử một vài (trong vô số) những lời giải thích của cư dân địa phương về cùng một câu chuyện đã được kể lại với nhóm phóng viên, thợ chụp ảnh và đội quay phim của các đài truyền hình đang vây quanh con Torosaurus. Vài người cho rằng cánh sinh viên chính là người chịu trách nhiệm cho vị trí mới của bức tượng đồng.

Những người khác chỉ lên trời và khăng khăng bảo chắc chắn người ngoài hành tinh đã làm việc đó. Một nhà địa chất học lập dị khẳng định ông đã đo được một trận động đất nhỏ xảy ra trong khu vực gần bảo tàng trường học, và tiếp tục khẳng định trận động đất đó đã làm bức tượng xoay vòng trên bệ. Vài tín đồ tôn giáo đưa ra những lời giải thích mang tính siêu thần, trong khi một nhóm người theo chủ nghĩa ngờ vực hăng say tranh luận về khả năng bức tượng Torosaurus đó hoàn toàn không phải là một bức tượng bằng đồng, mà là một con Torosaurus thật đang trong một tình trạng bất động tạm thời nào đó.

John ngoác miệng cười trước vài ý tưởng cực kỳ hoang đường và nhận xét về sự ngớ ngẩn của chúng với cậu Nimrod, quên béng đi việc cậu đang vô hình và ai đó có thể nghe thấy tiếng của cậu. Và có người đã nghe thấy. Một trong những viên cảnh sát. Và ông nhanh chóng kể với một phóng viên truyền hình rằng, theo nhận định của ông, bảo tàng này bị ma ám.

Bên trong bảo tàng, ba djinn vô hình – đang nắm lấy tay nhau để tránh lạc khỏi người khác – đi vào những căn phòng trưng bày hiện vật Nam Mỹ và ngay từ đầu đã nhận ra đây chính là mục tiêu chính của vụ đột nhập. Vài hộp trưng bày bằng kiếng đã bị đập vỡ, những hiện vật phần lớn bằng vàng được đựng trong đó đang nằm rải rác trên sàn nhà, một cảnh sát chụp ảnh đang bận rộn ghi lại hiện trường vụ án.

Cậu Nimrod lẩm bẩm:

– À, giờ thì mình đã hiểu.

John hỏi:

– Cậu hiểu chuyện gì cơ?

– Chuyện anh bạn Nam Mỹ vô danh khoác áo choàng lông chim của chúng ta chắc hẳn đã đến đây. Đến với những bảo vật Hiram Bingham.

Ông Vodyannoy nói cho John biết nhiều hiện vật ở bảo tàng Peabody đã được mang đến Yale từ Machu Picchu, một thành phố mất tích của người Inca được khai quật ở dãy Andes tại Peru bởi Hiram Bingham – người có lẽ là hình mẫu cho nhân vật Indiana Jones – vào năm 1911.

Ông cho biết:

– Chính quyền Peru từ lâu đã gửi thư đề nghị đại học Yale hoàn trả lại những cổ vật đó. Có lẽ anh bạn vô hình của chúng ta đã nghiêng về phía Peru.

Cậu Nimrod thừa nhận:

– Đây cũng là một khả năng.

Trong vài phút, họ nghe lỏm cuộc đối thoại giữa một viên thanh tra và một người đàn ông đeo mắt kiếng, mặc vét xám và cài một cái nơ vàng.

Viên thanh tra hỏi:

– Ông có thể cho chúng tôi biết là đã mất những gì không, thưa giáo sư?

Vị giáo sư trả lời:

– Ba đồng tiền xu hoặc mề đay khá lớn. Làm bằng vàng ròng, xuất xứ từ Inca. Và vài sợi khipu. Dây thừng truyền tin của người Inca.

– Còn gì khác?

– Còn. Một trong những xác ướp Inca của chúng ta đã mất tích.

Viên thanh tra hỏi lại:

– Ý ông là, giống như xác ướp Ai Cập? Cũng quấn băng vải gì gì đó?

Vị giáo sư cho biết:

– Không phải chỉ có người Ai Cập cổ đại mới ướp xác giới quý tộc của họ khi chết, trung úy. Một số nền văn minh tiền Columbia Nam Mỹ cũng làm như vậy. Chỉ có điều họ không dùng băng vải để quấn xác. Và họ không chôn kín xác ướp trong các kim tự tháp. Ít nhất thì người Inca không làm như vậy. Họ mang xác những vị vua quá cố để quẩn quanh bên người, và mang xác ra trong dịp lễ nghi. Có thể nói, họ cư xử với người quá cố như với người còn sống.

– Thế cái xác ướp bị mất đó nhìn như thế nào?

– Như xác chết. Như ai đó đã chết trong một thời gian rất dài. Những cái xác được ướp chất bảo quản, dĩ nhiên, nhưng chúng nhìn vẫn có vẻ gì đó rất kinh khủng.

Viên trung úy hỏi tiếp:

– Và chính xác, xác ướp đó là của ai?

– Tôi không biết. Hiram Bingham mang bản chất của một nhà thám hiểm nhiều hơn là một nhà khảo cổ học, ông thường chẳng mấy để ý đến việc xác nhận đầy đủ nguồn gốc của những cổ vật Inca mà ông mang về từ Machu Picchu, thành phố mất tích của người Inca. Cái xác ướp đó có thể thuộc về bất cứ ai. Ý tôi là, bất cứ thành viên hoàng gia nào của người Inca.

John thì thầm:

– Thú vị đây.

Vị giáo sư hỏi:

– Ông nói gì cơ?

Viên thanh tra lắc đầu:

– Tôi có nói gì đâu, giáo sư. Theo ông, tại sao lại có người muốn lấy cắp một cái xác ướp?

– Mình cũng đang tự hỏi điều đó đây.

John lẩm bẩm, và cảm thấy cậu Nimrod nhanh chóng kéo cậu rời đi khi viên thanh tra và vị giáo sư ngờ vực nhìn nhau.

Cậu Nimrod rít lên:

– John, cháu phải học cách giữ im lặng khi đang vô hình.

– Cháu xin lỗi. Chỉ là cháu thật sự không thể ngăn được tò mò. Với cả đống vàng rơi rụng khắp trên sàn như thế, thật quái lạ khi thứ bị mất cắp lại là một cái xác ướp.

Ông Vodyannoy lắc đầu:

– Ta không nghĩ nó bị mất cắp. Dù sao thì, cháu không thể gọi là lấy cắp một thứ vốn ngay từ đầu đã thuộc về cháu.

John hỏi:

– Ông nghĩ cái xác ướp thuộc về người đàn ông khoác áo choàng lông chim đó à? Đó chính là xác ướp của ông ấy sao?

Ông Vodyannoy bảo:

– Ta không thể nghĩ ra được một giải thích nào khác thích hợp hơn. Hai người thì sao?

Cậu Nimrod nói:

– Điều này có nghĩa chúng ta cần nhanh chóng hơn trong việc xác định danh tính của ông ấy.

Ông Vodyannoy tranh luận:

– Tôi không biết chúng ta có thể làm việc đó như thế nào. Anh cũng nghe tay giáo sư ấy nói rồi đó. Họ cũng không biết đó là ai.

Cậu Nimrod bảo:

– Để tôi suy nghĩ một lúc.

Ba djinn vô hình dừng lại trước một bức hình lớn bằng cả bức tường mô tả về Machu Picchu. John đã nhìn thấy nó trong một tiết học môn lịch sử ở trường: một thành phố mất tích của người Inca nằm trên đỉnh một cao nguyên gần hai ngàn năm trăm mét ở giữa cánh rừng Peru.

John nói:

– Không dễ để đánh mất cả một thành phố. Ý cháu là, nó đâu có giống một chùm chìa khóa, đúng không? Hoặc một tờ mười đô. Một thành phố không phải là một thứ có thể bị vứt bừa đâu đó. Ý cháu là, cháu cá có rất nhiều người dân Peru bản địa biết rõ nó luôn ở đó. Cháu cá là nó chưa bao giờ thật sự bị mất tích. Cháu cá là cái ông Hiram Bingham đó đã gán mác mất tích cho nó chỉ để làm bản thân ông ấy trở nên nổi tiếng hơn thôi.

Cậu Nimrod cười bảo:

– Hay lắm. Cậu nghĩ điều cháu vừa nói chứa đựng rất nhiều sự thật. Dĩ nhiên có cả một thành phố mất tích đàng hoàng của người Inca. Nhưng không phải là Machu Picchu. Chưa bao giờ là nó. Đó chỉ là ước muốn cá nhân của Hiram Bingham.

John tò mò:

– Thế cái thành phố mất tích kia tên gì vậy cậu?

– Paititi.

Trái tim John bỗng lỗi một nhịp. Cậu hỏi lại:

– Cậu bảo nó gọi là gì cơ?

Cậu Nimrod lặp lại:

– Paititi.

Trong một giây, con mắt trong đầu John hình dung nên trái tim trên bàn cầu cơ đánh vần từng chữ cái.

Cậu hỏi:

– Có phải là P-A-I-T-I-T-I không ạ?

Cậu Nimrod gật đầu:

– Đúng vậy. Tại sao? Và cố nói nhỏ một chút đi. Cậu vừa mới thấy một viên cảnh sát ra dấu thánh đấy.

John cho biết:

– Paititi là từ đầu tiên được ghép ra trên bàn cầu cơ.

– Cháu chắc chứ?

– Vâng ạ.

Sau khi cố vắt khô bộ não như một miếng bọt biển trong giây lát, John nói thêm:

– Cháu chắc chắn như vậy. Còn có một từ khác mà cháu phân biệt được. Hình như là ngôn ngữ được viết ra. Cháu nghĩ đó là Mancocapac.

Cậu Nimrod hỏi lớn:

– Manco Capac?

John nhắc:

– Nhỏ giọng thôi cậu.

– Cháu mới nói Manco Capac hả?

– Vâng ạ.

Ông Vodyannoy cho biết:

– Manco Capac không phải là một ngôn ngữ. Đó là một cái tên. Manco Capac là người thiết lập nên triều đại Inca ở Peru. Đó là lý do tại sao ông ấy đôi khi được biết đến với cái tên Manco Vĩ Đại. Đó là người cháu đã triệu hồi đấy, John ạ. Đó là người cháu đã thấy. Đó chính là Manco Capac.

Thở dốc, ông Vodyannoy quay qua cậu Nimrod và nói:

– Ôi, Chúa ơi. Nimrod, anh có nhớ bức hình trên tờ báo vài ngày trước không? Chụp từ rừng Nam Mỹ ấy. Mắt Rừng?

Cậu Nimrod thú nhận:

– Từ khi trông thấy nó, tôi khó có thể nghĩ đến chuyện gì khác. Anh cũng đang nghĩ như tôi phải không?

Ông Vodyannoy gật đầu bảo:

– Lời tiên tri. Dĩ nhiên rồi. Còn có thể là gì khác chứ?

John thắc mắc:

– Lời tiên tri nào cơ?

Cậu Nimrod tiếp tục hỏi ông Vodyannoy:

– Anh nghĩ chúng ta có thể thử triệu hồi Manco Capac lần nữa không? Với bàn cầu cơ ấy?

Ông Vodyannoy lắc đầu:

– Không thể, giờ ông ấy đã có lại xác ướp của mình. Manco Capac sẽ sử dụng nó cho những lần xuất hiện trong tương lai thay vì một cái bàn cầu cơ.

Cậu Nimrod ủ rũ nói:

– Có nghĩa là chúng ta đã bỏ lỡ nó. Chúng ta đã bở lỡ cơ hội tốt nhất để ngăn chặn một thảm họa. Chúng ta đã bỏ lỡ nó rồi.

Ông Vodyannoy nhận xét:

– Anh không nghĩ điều này thật kỳ lạ sao? Rằng cậu bé nhà anh lại là người triệu hồi ông ấy. Cùng với việc nó là một đứa trẻ sinh đôi. Tôi nghĩ điều đó có nghĩa John và Philippa rốt cuộc là cặp sinh đôi đó. Cặp sinh đôi được tiên định ấy.

Cậu Nimrod nói:

– Tôi thật không muốn nghĩ về việc đó. Nhưng hiển nhiên tôi e đó là sự thật. Luôn luôn là vậy. Tôi nghĩ có lẽ tôi nên thông báo cho Faustina biết.

John cố nói lớn nhất có thể mà không làm một viên cảnh sát nào bị hoảng sợ:

– Có ai đó làm ơn cho cháu biết rốt cuộc chuyện này là như thế nào không vậy?

Cậu Nimrod bảo:

– Ta nghĩ tốt nhất em gái cháu nên có mặt khi ta giải thích về việc này. Vì nó ảnh hưởng đến cả Philippa chẳng kém gì cháu. Nhưng Manco Capac không chỉ là vị vua Inca đầu tiên, mà còn là một djinn. Một djinn rất, rất vĩ đại.

John hỏi:

– Vậy còn lời tiên tri?

Cậu Nimrod thở dài một tiếng thườn thượt và khẽ nói:

– Lời tiên tri à? Nó được gọi là Pachacuti. Một thứ mà tất cả các bộ tộc djinn, dù Thiện hay Ác, đều sợ hãi. Đó là một từ Inca. Nó có nghĩa “mặt đất vĩ đại rung chuyển”. Đó là lời tiên tri về ngày tận thế.