Chương 5 - Mang Đầu Francisco Pizarro Đến Cho Ta.
Họ bắt máy bay dân dụng đến Lima, thủ đô của Peru, một thành phố tuyệt vời đầy ắp những con người thân thiện. Không may là, điều đó lại không phải thứ ông Groanin thích.
Ông phàn nàn khi họ đến khách sạn năm sao Primer Paraíso Excelente con las Campaías Encendido ở khu trung tâm của Lima:
– Ước gì mấy người ở đây ngừng cười suốt với tôi như vậy. Làm tôi cảm thấy rất là bất an. Như thể tất cả bọn họ biết một điều gì đó mà tôi không biết ấy. Tôi không thể chịu nổi những người lúc nào nhìn cũng vui vẻ. Tôi nói, tôi không thể chịu nổi những người lúc nào cũng vui vẻ. Hãy đưa cho tôi những người như tôi, lúc nào cũng nhăn nhó và khốn khổ. Chúng ta luôn biết mình đang ở đâu với một người có vẻ mặt ảm đạm. Hãy cho tôi một người đến từ Manchester, không phải những kẻ xỏ lá tươi cười này.
Bước ra ban công của căn phòng hạng sang có tầm nhìn tuyệt vời về phía khu quảng trường vuông vức và tòa thánh đường ở bên kia đường, Philippa nhận xét:
– Bản thân cháu lại thích những người nhìn có vẻ vui vẻ. Họ khiến cháu cảm thấy ấm lòng.
John nói:
– Anh thì lại chẳng thấy ấm áp tí nào. Ở gần đường xích đạo như thế này, anh cứ nghĩ Peru phải nóng lắm chứ. Nhưng thực tế nó lại ren rét sao ấy. Ngay khi bước chân xuống máy bay, anh đã cảm thấy sức mạnh của mình giảm đi.
Ông Vodyannoy cho biết:
– Horror show, hầu hết mọi người đều nhầm lẫn như thế khi nghĩ về Lima. Ở đây thật sự không ấm áp lắm đâu. Và tất cả là vì dòng hải lưu lạnh Humboldt chảy dọc theo bờ biển Peru.
Tham khảo cái nhiệt kế treo trên tường, ông Groanin bảo:
– Sáu mươi độ F[6]. Tôi đồng ý với anh là nhiệt độ này hơi kém hoàn hảo một chút. Nhưng tôi thích thế này hơn là quá nóng hoặc quá lạnh. Nếu anh hỏi tôi, tôi sẽ bảo là thời tiết nóng bức là kẻ thù lớn nhất của văn minh. Không nền văn hóa đỉnh cao nào có thể tồn tại ở một nơi nhiệt độ cao hơn bảy mươi độ F[7]. Đó là lý do tại sao nước Anh là nơi văn minh nhất trên thế giới. Vì thời tiết Anh luôn mát lạnh vừa phải.
John cười:
– Không hổ là ông Groanin.
Zadie hào hứng nhảy một điệu tap-dance dọc sàn nhà. Lạnh hay không, cô vẫn có vẻ rất vui khi được cùng phiêu lưu đến Peru với John, Philippa, cậu Nimrod, ông Groanin và ông Vodyannoy.
Cô hỏi ông Vodyannoy:
– Bước tiếp theo của chúng ta là gì vậy ông?
Ông Vodyannoy chỉ tay về phía Thánh đường Lima, nơi này rất đặc biệt về đêm, khi đã lên đèn, nó sẽ tỏa sáng lộng lẫy như vàng được đánh bóng, và nhìn giống một phủ tổng thống hơn là một tòa thánh đường uy nghiêm. Kiểm tra cái đồng hồ quả quýt của mình, ông nói:
– Chúng ta sẽ vào đó. Chúng ta có một cuộc hẹn với Francisco Pizarro. Trong ba mươi phút nữa.
Philippa thốt lên:
– Francisco Pizarro? Nhưng ông ấy chết rồi, không phải sao?
Ông Vodyannoy bảo:
– Ta chân thành hy vọng như vậy.
Khi họ băng qua khu quảng trường trung tâm với đài phun nước trang trí và những hàng cọ, ông Vodyannoy hít một hơi thật sâu và nói:
– Horror show, thật mừng khi được trở lại Peru.
John tò mò:
– Cái từ “Horror show” đó rốt cuộc có nghĩa gì vậy ông Vodyannoy? Cháu thấy ông hay nói từ đó lắm.
Ông Vodyannoy trả lời:
– Không phải Horror show. Là khorosho. Nó là tiếng Nga. Có nghĩa là “à”, “okay” hoặc “ờ thì”. Đó là một “từ cửa miệng” và ta e là bản thân ta nhiều lúc cũng không biết mình đang nói nó.
John gật gù:
– Khorosho.
Philippa cắt ngang:
– Pizarro là viên đại tá Tây Ban Nha khét tiếng với việc chinh phục Nam Mỹ đúng không?
Ông Vodyannoy gật đầu, bảo:
– Đúng thế. Francisco Pizarro đã đến Peru vào năm 1531 chỉ với một trăm sáu mươi tám lính Tây Ban Nha. Ban đầu, họ và người Inca giữ khoảng cách với nhau. Rồi, vào năm 1532, Pizarro đã dẫn lính của mình vào dãy Andes để gặp đức vua Inca là Atahualpa, nhà vua nắm trong tay một đạo quân gần một trăm ngàn người sau chiến thắng chính trị vĩ đại trước người anh trai và đối thủ của ông - Huascar. Sự tò mò về những kẻ ngoại quốc kỳ lạ và những con ngựa của họ - thứ mà người Inca chưa bao giờ trông thấy trước đây - đã khiến đức vua đến gần để quan sát rõ hơn. Lợi dụng cơ hội đó, Pizarro và lính của mình đã bắt giữ đức vua và giết chết khoảng năm ngàn tùy tùng của ngài. Những kẻ xâm lược dĩ nhiên chỉ hứng thú với vàng và đã hứa sẽ trả tự do cho đức vua nếu ngài chịu trả tiền chuộc. Vì thế đức vua đã hứa sẽ lấy vàng lấp đầy căn phòng giam cầm ngài, và người đã thực hiện đúng lời hứa của mình. Đáng buồn là, lính Tây Ban Nha lại không trung thực như vậy. Ngay khi căn phòng được lấp đầy vàng, họ liền xử tử vua Atahualpa tội nghiệp. Và đó là sự khởi đầu công cuộc chinh phục của Pizarro, lính Tây Ban Nha đã tàn sát gần như hoàn toàn cộng đồng Inca.
Philippa nhận xét:
– Ông ấy dã man quá.
Ông Vodyannoy bảo:
– Ồ, đúng vậy. Dù xét trên tiêu chuẩn ngày nay, ông ấy cũng chẳng kinh khủng hơn ai. Bản thân vua Atahualpa cũng chẳng phải một vị thánh. Pizarro là người sáng lập nên thành phố này, nơi một thời từng được gọi là Thành phố Các Vị Vua, và cũng là người đã ra lệnh xây dựng tòa thánh đường mà chúng ta đang đến. Cuối đời, ông đã đánh nhau với vài tên lính dưới quyền và bị chính những người lính Tây Ban Nha của ông giết chết vào năm 1541.
John nói:
– Đáng đời.
Ông Groanin lên tiếng:
– Nghe này, nghe này. Giờ mọi người đã biết nước Anh chúng tôi đã đối mặt với chuyện gì rồi nhé. Hạm đội Tây Ban Nha? Năm 1588? Họ đã cố xâm lược nước Anh. Nhưng chúng tôi đã đánh đuổi họ. Chẳng cần nhờ đến sự giúp đỡ của dân Mỹ các người. Y như năm 1939. Khi đó lính Mỹ ở đâu chứ?
Philippa nhắc:
– Năm 1588 làm gì có nước Mỹ hả ông? Nước Mỹ đâu có tồn tại, mãi cho đến năm 1776. Cho nên dù nước của tụi cháu có muốn giúp Anh cũng không được.
Ông Groanin lầm bầm:
– Chỉ toàn viện lý do thôi.
Ông Vodyannoy kể tiếp:
– Dù sao thì, Pizarro đã được chôn cất trong tòa thánh đường này. Và ngày nay, nơi trưng bày quan tài của ông là một trong những địa điểm thu hút khách du lịch chính của thành phố. Tuy nhiên, đó không phải là nơi yên giấc thật sự của ông ấy. Thi thể thật sự của ông được giấu đâu đó trong thánh đường. Đó là lý do tại sao chúng ta đang đi đến đó.
Họ bước vào tòa thánh đường và đi lên phòng làm việc của tổng giám mục, tiếp đón họ là một vị cha xứ có cặp mắt xanh sáng ngời cùng một bộ râu màu đen có hình dạng như một cái bàn chải đánh răng. Philippa nghĩ ông ấy nhìn hơi giống Charlie Chaplin. Ông Groanin nghĩ ông ấy nhìn giống một ai khác. Ông Vodyannoy giới thiệu đây là Cha Polzl. Cha Polzl hòa nhã bắt tay tất cả mọi người và chào mừng họ đến Peru.
Cha Polzl kể với lũ trẻ:
– Anh Vodyannoy và ta là bạn lâu năm của nhau. Sau trận động đất lần trước, anh ấy đã giúp tu sửa những vết nứt trên tường thánh đường.
Nở một nụ cười ấm áp với ông Vodyannoy, Cha nói:
– Tôi rất vui khi có cơ hội hỗ trợ anh, Frank ạ.
Ông Vodyannoy nói:
– Đây thật sự chỉ là một sự đề phòng thôi, thưa Cha. Nhưng như Cha biết đó, ở nơi chúng tôi sắp đến, những thứ như thế này đôi lúc sẽ có ích. Nếu chúng tôi đụng phải rắc rối nào đó, đó sẽ là một cống vật có giá trị cứu mạng. Trong trường hợp đó, tôi nhất định sẽ đặt lại chỗ cũ một phiên bản y như thật.
– Không cần giải thích thêm đâu, bạn của tôi, không cần đâu. Anh không cần phải nói gì cả. Làm ơn. Đi lối này nhé. Tôi nghĩ ông ấy có mất cũng chẳng ảnh hưởng đến ai đâu.
Cha Polzl dẫn sáu vị khách của mình vào một nhà nguyện cá nhân nhỏ, bên trong có một cái bàn nhỏ bằng gỗ sồi, trên bàn là một cái hộp gỗ bóng loáng to bằng một trái bóng. Bước đến chỗ cái bàn, Cha Polzl làm dấu thánh rồi mở cái hộp ra. Nằm bên trong hộp là một cái sọ người ngả vàng.
Zadie há hốc mồm. John huýt sáo. Vị cha xứ mỉm cười.
Cha Polzl khoan dung nói với cậu:
– Cứ thoải mái huýt sáo đi, chàng trai trẻ. Và mọi người cũng nên làm vậy. Vì đây là hộp sọ của… không ai khác, ngoài vị thống đốc tối cao đầu tiên của Peru, Don Francisco Pizarro. Nó đã được tìm thấy trong một hầm mộ bên dưới bệ thờ chính vào năm 1977.
Quay mặt đi chỗ khác, Philippa nhăn nhó:
– Ối!
Nhưng John thì nhìn chằm chằm vào cái hộp và hỏi:
– Ồ! Ai đó đã cắt nó ra à?
Ông Groanin bảo:
– Thường thì đó là cách tốt nhất để tách rời một cái đầu ra khỏi cơ thể. Phần còn lại của ông ấy yên nghỉ ở đâu vậy?
Vị cha xứ cho biết:
– Trong một cái hộp khác. Cũng ở thánh đường này.
Viên quản gia người Anh lầm bầm:
– Thật là một câu hỏi ngu ngốc!
Zadie hỏi:
– Tại sao Cha cất chúng riêng ra như vậy?
Cha Polzl giải thích:
– Vì chúng đã được tìm thấy như thế. Nếu mọi người muốn tự mình kiểm tra thì trên nắp hộp có một dòng chữ xác nhận đây là đầu của Pizarro đấy. Nhưng chúng tôi cũng đã nhờ giám định pháp y kiểm tra nó. Chỉ để hoàn toàn chắc chắn.
Ông Groanin tiếp tục lầm bầm:
– Ờ, Cha sẽ không muốn lầm lẫn về một thứ như vậy, đúng không?
Cậu Nimrod dường như có hứng thú với cái hộp hơn là cái sọ. Cậu lẩm bẩm:
– Kỳ lạ thật. Có vẻ như nó được làm từ gỗ cây lupuna.
John thì chỉ quan tâm đến cái sọ, nói:
– Nhìn này, có một cái lỗ trên đó. Nó ở đâu ra vậy, Cha Polzl? Một viên đạn? Hay một lưỡi gươm?
– Người ta đồn rằng, khi thanh gươm của ông còn dính chặt trong người cái gã tội nghiệp mà ông đang đâm, Pizarro đã bị ai đó đập một xô nước lên đầu, khiến ông ngã xuống đất.
Ông Groanin rùng mình:
– Tôi từng nghe nói về nước trên não. Nhưng tôi chưa bao giờ biết nó chí tử như vậy.
Vị cha xứ một lần nữa làm dấu thánh rồi kể tiếp:
– Khi nằm trên mặt đất, ông đã bị tới hai mươi người lính dưới quyền đâm đến chết. Tôi rất tiếc phải nói, tất cả bọn họ đều là người Tây Ban Nha theo đạo Công giáo, dù dĩ nhiên, bản thân Pizarro cũng bị ghét tương tự bởi những người Inca tội nghiệp mà ông đã trấn lột bừa bãi và hành hạ dã man. Có lẽ những người lính là căm ghét ông nhất.
John thắc mắc:
– Họ gây gổ với nhau về chuyện gì mới được? Ý cháu là, những người lính Tây Ban Nha ấy.
– Cùng một thứ mà con người luôn tranh giành với nhau. Quyền lực. Tiền tài. Trả thù. Pizarro đã chết như cách sống của ông trong đất nước bị đàn áp tồi tệ này. Chết bởi gươm đao.
Vị cha xứ đậy hộp lại và cẩn thận đưa nó cho ông Vodyannoy, sau khi nhận ra cái hộp với vẻ ngoài xưa cũ này nặng hơn tưởng tượng, ông đã đưa nó sang cho ông Groanin mạnh mẽ hơn.
Ông Groanin lầm bầm chế nhạo:
– Đúng là thứ tôi luôn muốn. Ông thật sự không cần làm thế đâu. Có kèm theo thiệp không đó?
Philippa nói:
– Nhưng cháu vẫn không hiểu. Tại sao chúng ta phải mang sọ của Pizarro theo?
Ông Groanin bảo:
– Cháu chưa nghe câu đó sao, quý cô Philippa? “Hai cái đầu tốt hơn một.” Ngay cả khi một cái đầu lủng lỗ. Ta nói, ngay cả khi một cái đầu bị lủng cả một lỗ to.
Cậu Nimrod bảo:
– Anh im lặng giùm một chút đi nào, anh Groanin.
– Vâng, thưa ngài.
– Anh nên mang nó về khách sạn đi.
– Vâng, thưa ngài.
Và vẫn cầm cái hộp hàn chì đựng hộp sọ của kẻ chinh phục Nam Mỹ, ông nhoáng một cái đã biến mất khỏi nhà nguyện.
– Quản gia của tôi đấy.
Cậu Nimrod nói với Cha Polzl, như thể chỉ cần giải thích như vậy là đủ.
Cha Polzl mỉm cười:
– Anh ấy như là một lá bài úp nhỉ.
Cậu Nimrod thở dài:
– Vâng, nhưng không phải lúc nào cũng là một lá bài thắng.
Họ ở lại trò chuyện với Cha Polzl thêm mười lăm phút nữa cho đến giờ Cha phải đi làm lễ Misa. Tòa thánh đường giờ đây đã đầy ắp những người mà với họ, Pizarro chỉ là một cái tên không mấy thiện cảm trong lịch sử. Sau khi cảm ơn Cha Polzl vì sự giúp đỡ của ông, năm djinn bước ra khỏi thánh đường và đặt chân lên khu quảng trường, giờ đây, nó đã lạnh hơn nữa bởi bụi nước từ một cái đài phun nước dường như có cả cảnh sát bảo vệ riêng. Khó nén nổi sự tò mò, John hỏi:
– Thế rốt cuộc cái đầu này để làm gì vậy, ông Vodyannoy? Một món quà cho những tay săn đầu người chăng?
Philippa khăng khăng:
– Làm gì còn kẻ săn đầu người ở Nam Mỹ. Mà có lẽ vốn chưa bao giờ có. Có khi đó chỉ là một câu chuyện được các nhà thám hiểm chế ra để nâng cao tiếng tăm của mình khi đến đây.
Không nói gì với Philippa, ông Vodyannoy chọn cách trả lời câu hỏi của John thay vì tranh cãi với em gái cậu. Ông nói:
– Nếu chúng ta gặp được Manco Capac, hoặc hậu duệ của ông ấy – hầu hết các bộ tộc da đỏ ở thượng lưu sông Amazon đều có tổ tiên là người Inca – đưa cho họ cái đầu của kẻ thù lớn nhất của người Inca có thể sẽ rất có lợi cho chúng ta.
Philippa thắc mắc:
– Nhưng bản thân Manco đã chết rất lâu trước khi Pizarro đến Peru mà. Trong trường hợp đó, cái tên Pizarro có lẽ không có ý nghĩa gì với ông ấy.
Cậu Nimrod thốt lên:
– Cháu có cần phải suy luận mọi chuyện theo từng chữ như vậy không, Philippa? Cố mà nhớ cháu là một djinn, không phải một luật sư trước tòa. Dựa trên việc Manco Capac có vẻ như đã quay lại từ cõi chết, cậu nghĩ chúng ta có thể cùng đồng ý rằng ông ấy có khả năng làm được hầu hết mọi chuyện khác, được không?
Philippa nói:
– Cậu nói đúng. Cháu xin lỗi. Từ cái khoảng thời gian sống ở Iravotum, đôi lúc cháu vẫn bị sa lầy vào logic.
Cậu Nimrod bảo:
– Ờ, đúng nhỉ. Cậu quên mất tiêu chuyện đó.
Philippa thở dài:
– Ước gì cháu cũng có thể quên.
o O o
Ông Groanin chậm rãi bước về khách sạn với cái hộp đựng sọ của Pizarro kẹp dưới cánh tay. Vừa đi ông vừa lẩm bẩm:
– Đúng là những chuyện mà một người phải làm khi là quản gia cho một djinn. Mình cảm thấy y như Hamlet điên khùng đi dạo vòng vòng với Yorick già ấy[8].
Trông thấy một quán cà phê, ông quyết định dừng lại nghỉ ngơi ở đó một lát, với ý nghĩ, lâu lâu để ai đó chờ đợi để phục vụ ông cũng là một ý tưởng không tồi. Ông Groanin ngồi xuống một cái bàn bên ngoài quán và, trông thấy một người phục vụ, ông vừa định gọi một tách trà, nhưng rồi nỗi lo về chất lượng nước lọc địa phương đã khiến ông thay đổi chủ ý và gọi một ly nước chanh. Và trong khi ngồi chờ người phục vụ quay lại, ông bắt đầu nghĩ về việc món nước chanh được chuẩn bị như thế nào: từ việc vắt chanh đến việc rưới nước vào và đun sôi hỗn hợp. Nhưng mà, ông Groanin nghĩ thầm, lỡ nước được lấy trực tiếp từ sông Amazon thì sao? Và họ có thật sự đun sôi nước không? Nước chanh ở Peru uống có an toàn không? Đó là những câu hỏi xoay vần quanh đầu ông Groanin tội nghiệp trong suốt khoảng thời gian chờ đợi người phục vụ quay lại với món nước chanh của ông. Đến khi đó, ông đã nghĩ kỹ hơn về việc uống nó.
Vừa đứng dậy, ông vừa lầm bầm:
– Cái đất nước chết tiệt này! Đáng lẽ mình nên gọi một lon bia. Cái đó luôn được đun sôi.
Ông vừa định bước đi thì chú ý thấy ở bàn kế bên, một phụ nữ vô cùng quyến rũ đang khóc nức nở. Ông hỏi:
– Có chuyện gì vậy? Tôi hỏi, có chuyện gì vậy, quý cô?
Người phụ nữ chỉ về phía bên kia của quảng trường. Trước sự ngạc nhiên của ông Groanin, ả nói tiếng Anh khá rõ.
– Ông có thấy gã đàn ông khoác áo jacket đỏ kia không, seíor[9]? Hắn vừa chạy đi với túi xách của tôi.
Ông Groanin ngạc nhiên bảo:
– Đùa đấy à? Ý cô là, hắn giật túi của cô? Ngay ban ngày ban mặt thế này?
Người phụ nữ xì mũi rồi gật đầu.
– Cả cuộc đời của tôi ở trong đó. Ví tiền của tôi. Chùm chìa khóa của tôi. Điện thoại của tôi. Tất cả mọi thứ. Tôi thật sự không biết tôi sẽ sống sao đây.
Ông Groanin nhíu mắt nhìn xa và hỏi:
– Cô nói cái gã mặc sơ mi đỏ đó hả?
Người phụ nữ gật đầu.
– Quần xanh dương?
Người phụ nữ lại gật đầu.
Đặt cái hộp cổ đựng sọ của Pizarro lên cái bàn trước mặt người phụ nữ, ông Groanin nói:
– Chờ ở đây. Tôi nói, cô chờ ở đây nhé. Tôi sẽ giải quyết chuyện này. Tôi là người Anh.
Và nói xong, ông Groanin nhanh chóng băng qua quảng trường về phía người đàn ông mặc áo sơ mi đỏ. Ông luôn mềm lòng trước một khuôn mặt xinh đẹp.
Đi được nửa đường, ông Groanin quay lại nhìn. Người phụ nữ đã đứng lên dõi theo ông, như thể hy vọng ông sẽ lấy lại túi xách giùm ả. Ông Groanin vẫy tay và đi tiếp. Nhưng giờ đây khi đã đến gần hơn, ông nhận ra người đàn ông trong cái áo jacket đỏ trên thực tế đang mặc một bộ lễ phục của quân đội. Bên dưới cánh tay của người đàn ông là một cái mũ cao màu đỏ có gắn lông chim, và cái túi duy nhất anh ta mang theo là túi đạn mắc trên cái thắt lưng quân dụng Sam Browne. Đó là một viên cảnh sát. Nuốt khan một cái khi nhận ra người đàn ông đó là ai, ông Groanin chạy ngược lại quán cà phê, nhưng người phụ nữ đã biến mất. Tệ hơn nữa, cái hộp chứa sọ Pizarro cũng đã biến mất.
Đó cũng là lúc ông trông thấy cậu Nimrod cùng những người khác. Ông Groanin thẳng thắn thú nhận:
– Tôi làm mất nó rồi. Cái hộp đó, với cái sọ gì đó của anh Frank. Tôi nói, tôi đã đánh mất cái hộp chết tiệt đó rồi.
Cậu Nimrod thở dài một tiếng thật to:
– Anh làm mất cái đầu của Don Francisco Pizarro rồi hả?
Giọng chẳng vui vẻ gì, ông Groanin nói:
– Tôi đã nói như vậy rồi mà. Một con chim Peru đã lừa tôi nghĩ rằng ả bị giật túi xách, rồi trộm đi cái hộp.
Zadie bảo:
– Ông dễ bị lừa thật đấy.
Ông Groanin ném cho cô nhỏ một ánh mắt đầy nọc độc.
Cậu Nimrod trầm giọng nói:
– Đưa cho tôi tay của anh, Groanin.
Ông Groanin lắp bắp:
– Đó là một tai nạn. Tôi nói, tôi xin lỗi, thưa ngài. Nhìn này, ngài không định làm một điều gì đó khó chịu với tôi đấy chứ?
Cậu Nimrod cầm lấy tay ông Groanin.
– Không phải với anh đâu, Groanin.
Rồi cậu ngắm mắt lại.
Ông Groanin lo lắng hỏi:
– Ngài đang làm gì vậy? Ả vẫn chưa đi xa đâu. Chúng ta phải đi tìm ả.
Cậu Nimrod nói:
– Đó chính xác là điều tôi đang cố thực hiện đây. Nếu anh chịu im miệng và để tôi làm.
Cậu Nimrod nhấc hai bàn tay của ông Groanin lên mũi, hít sâu vài lần rồi thầm thì từ trọng tâm của cậu:
– QWERTYUIOP!
Philippa hỏi nhỏ:
– Cậu Nimrod đang làm gì vậy?
Zadie chế nhạo:
– Đừng có nói với tớ là cậu không biết gì về odorari chứ?
Ông Vodyannoy giải thích:
– Odorari là một kỹ thuật thần bí chỉ có những djinn quyền năng nhất mới thực hiện được. Cháu thấy đó, dấu vết những nguyên tử của cái hộp vẫn còn dính trên tay anh Groanin. Vài phút nữa và có lẽ mọi chuyện sẽ quá trễ. Cháu cứ chờ xem. Vài giây nữa Nimrod sẽ đánh hơi được nó.
Cậu Nimrod lại hít một hơi thật sâu hai bàn tay lấm tấm mồ hôi của viên quản gia nhà cậu. Cậu có thể ngửi được mùi phô mai, bánh mì, kẹo ngậm họng, dấu vết của nước chanh, và một ít xà phòng. Rồi cuối cùng cậu cũng bắt được nó. Chỉ vài phân tử chì từ lớp hàn trên vỏ hộp, nhưng cũng đủ cho mục đích hiện tại của cậu. Cậu Nimrod đưa cái mũi đặc biệt thính của mình lên cao trên không khí và hít vào một mùi vị hỗn hợp của cà phê, bia, khói thuốc lá, thức ăn sấy khô, mồ hôi của con người, xà phòng, nhựa silicon, nước từ đài phun, khói gỗ, khí CO (oxit cacbon), hơi chì từ xăng dầu, và cuối cùng, cùng loại với thứ khí cacbon ở bàn tay to đùng của ông Groanin. Rồi cậu mở mắt ra và mỉm cười. Cậu nhỏ giọng, nói:
– Tôi tin là tôi đã tóm được chúng. Chờ ở đây nhé.
Từ quán cà phê, người phụ nữ xách cái hộp đựng sọ vòng qua một góc đường, đồng bọn của ả đang chờ trong xe. Ả vẫn chưa có thời gian để nhìn vào trong hộp, nhưng ả nghĩ đây có thể là một món đồ cổ và có lẽ bản thân cái hộp cũng rất có giá trị. Mở cửa trước, ả ngồi vào trong xe với cái hộp đặt trên đùi.
Không ai trong hai người bọn họ nhìn thấy người đàn ông vô hình trườn vào băng ghế ngay sau lưng ả.
Hất đầu về phía cái hộp, gã đàn ông hỏi:
– Cái gì thế?
– Chẳng biết. Nhưng có một cái tên trên nắp. Don Francisco Pizarro Demarkes.
– Tao chưa bao giờ nghe đến cái tên đó. Nhưng nghe có vẻ giàu sụ.
– Nhìn nó hơi ơn ớn. Nhưng mày nghĩ nó đáng giá không?
Nhe răng cười đầy vẻ hung ác, gã đàn ông bảo:
– Có lẽ bên trong còn có thứ gì đó đáng giá hơn.
– Chỉ có một cách để biết chắc chắn.
Người phụ nữ nói, và mở nắp hộp.
Cậu Nimrod không phải là một người độc ác, nhưng cậu cũng chẳng cảm thông mấy với những tên trộm và cảm thấy việc hù dọa bộ đôi lừa gạt này – đặc biệt là loại hù họa có thể khiến họ bỏ việc trộm cắp – về lâu dài sẽ có ích cho họ. Trong giây lát, cậu cân nhắc việc thay đổi vẻ ngoài của mình thành một thứ gì đó đáng sợ hơn nhiều, nhưng rồi lại từ bỏ ý định đó vì không muốn hai tên trộm lên cơn đau tim. Rồi cậu biến hình thành Pizarro, như trong một bức tranh của họa sĩ người Anh - John Everett Millais - mà cậu đã một lần trông thấy tại Phòng Trưng bày Quốc gia ở Luân Đôn, với một bộ râu, áo chẽn đỏ, giáp che ngực bằng vàng, cổ áo xếp nếp, mũ mềm gắn lông chim, và một thanh gươm trong tay. Sự xuất hiện đột ngột ở băng ghế sau này đồng hành với một tiếng bùm lớn như tiếng nổ của một cái túi giấy.
Hai tên trộm hét toáng lên và đồng loạt với tay lên cần gạt cửa xe, nhưng chúng rụng xuống tay họ và cánh cửa vẫn bị khóa kín. Vội vã muốn chạy ra khỏi xe, người phụ nữ làm cái sọ của Pizarro rơi khỏi hộp và rớt vào lòng ả, khiến ả càng hét lớn hơn. Rồi khi ả cố leo lên bảng đồng hồ tốc độ, cái sọ rớt xuống sàn.
Bằng giọng Tây Ban Nha oai nghiêm và vô cùng đáng sợ, cậu Nimrod hỏi lớn:
– Kẻ nào dám ăn trộm và đùa giỡn với cái đầu của ta như một quả dưa như vậy?
Nghiêng người về phía trước, cậu Nimrod cho phép một hơi thở đầy mùi tỏi thoát ra khỏi miệng và lỗ mũi của cậu, ô nhiễm bầu không khí khép kín bên trong xe, rồi cậu nói tiếp:
– Lũ vô lại. Hèn nhát. Đồ chó lai. Lũ tội phạm. Các ngươi, những kẻ dám ăn trộm cái hộp quý báu đó và đầu của Don Francisco Pizarro Demarkes, hãy chuẩn bị tinh thần đón nhận sự trừng phạt khủng khiếp nhất.
Quay người lại trên ghế, hai tay chấp vào nhau như cầu nguyện, gã đàn ông lí nhí van xin:
– Tôi xin ngài, Don Francisco, xin đừng giết chúng tôi.
Cậu Nimrod phả hơi thở nặng mùi lưu huỳnh vào mặt gã và lắc gươm soàn soạt trong vỏ bao của nó.
– Ngươi dám khẩn cầu ta hả, tên trộm kia?
Cậu gần như cảm thấy khoái trá, tựa như trong giờ phút xuất thần của một diễn viên vào vai thiên tài xấu xa trong một vở kịch câm Giáng sinh rẻ tiền.
– Ngươi chỉ được phép hỏi xin ta để ngươi chết như thế nào, chỉ được hỏi ta sẽ chém chết người và đồng bọn vô dụng của ngươi như thế nào. Các ngươi lũ Ả rập, lũ linh cẩu, lũ bệnh hủi. Hãy nhân danh mẹ của các người và mẹ của mẹ các ngươi rằng các ngươi sẽ không bao giờ trộm cắp lần nữa, và có lẽ ta sẽ tha cho cái mạng chó vô dụng của các ngươi. Bằng không, hãy ngậm miệng lại, vì hơi thở dối trá cuối cùng sẽ nằm trong lỗ mũi trộm cắp và cái miệng dối trá của các người.
Gã đàn ông rối rít nói:
– Vâng, vâng, vâng. Tôi thề. Nhân danh mẹ tôi và mẹ của mẹ tôi. Tôi sẽ không bao giờ trộm cắp lần nữa. Cả hai chúng ta sẽ làm vậy, đúng không?
Người đàn bà chồm hổm trên bảng đồng hồ xe the thé rú lên:
– Vâng, tôi thề.
Cậu Nimrod gầm lên, đồng thời làm cái xe run lên bần bật với sự giận dữ của cậu cho đến khi bộ tản nhiệt bắt đầu bốc khói nghi ngút:
– Ta không tin các ngươi. Vì các ngươi vẫn chưa nói gì về việc trả cái sọ của ta lại cho gã ngốc tội nghiệp mà các ngươi đã đánh cắp nó từ gã, hắn cũng sẽ hứng chịu một cái chết khủng khiếp. Và ta vẫn không nghe các ngươi nói gì về việc bù đắp lại cho tất cả những kẻ ngốc mà các ngươi đã lừa gạt và lấy cắp đồ đạc. Nhưng vì cả hai ngươi đã làm ta mềm lòng đôi chút, có lẽ ta sẽ cho các ngươi chọn lựa cái chết của mình. Bây giờ thì, ta sẽ nhét các ngươi vào một cái hũ rò rỉ rồi quẳng nó đến vùng biển dơ bẩn nhất trên hành tinh này chăng? Hay ta nên từ tốn mớm các ngươi cho một con trăn Nam Mỹ với hơi thở hôi hám?
Người phụ nữ rú lên:
– Không, không, không. Chúng tôi sẽ lập tức mang trả cái sọ cho ông ấy. Tôi hứa. Và tôi sẽ quyên góp toàn bộ số tiền ăn trộm được từ trước đến giờ cho nhà thờ. Tôi thề đấy.
Gã đàn ông gật đầu lia lịa:
– Tôi cũng vậy.
Gật đầu hài lòng, cậu Nimrod nói:
– Thôi được, ta sẽ tin các ngươi. Nhưng nếu bất cứ ai trong các ngươi dám ăn trộm dù chỉ một món đồ văn phòng phẩm, dám đi xe buýt chui, hoặc dám trả trễ sách cho thư viện, ta sẽ quay lại và thay thế đầu của các người bằng phân voi và cắt tai các ngươi làm đồ trang sức. Các ngươi nghe rõ rồi chứ?
– Vâng, vâng, vâng.
– Giờ thì đi đi. Đi trả cái hộp và cái sọ lại cho gã ngốc mặt tái mét ở quảng trường mau.
Cậu Nimrod làm những cánh cửa xe bật tung ra và hai tên trộm lồm cồm bò xuống, chỉ ngừng lại đủ lâu để cầm cái hộp lên và bỏ cái sọ của Pizarro vào lại bên trong.
Cười khúc khích một lát vì cậu khá hài lòng với phần trình diễn vừa rồi của mình, cậu Nimrod bước ra khỏi xe và đứng nhìn hai tên trộm chạy trối chết. Nghĩ rằng mình nên nhắc nhở họ phải cải tà quy chính, cậu quay lại, thầm thì từ trọng tâm của mình và thay đổi một ít thiết kế ban đầu của chiếc xe – tô đen lớp kính sau xe và thêm vào đó mấy song sắt để nó nhìn giống một cái xe chở tù nhân. Để nhấn mạnh hơn nữa, cậu thậm chí còn đặt hai bộ áo tù liền quần màu cam cùng hai cái còng trên băng ghế xe.
Xong xuôi, cậu nói:
– Ai bảo chúng ta không thể cải tạo tội phạm nào?
Nhìn Zadie nhảy tap-dance quanh cái bàn cà phê nơi cả nhóm đang ngồi chờ cậu Nimrod quay lại, ông Groanin lầm bầm:
– Nó cứ nhất định phải làm gì vậy sao? Tôi không ngại nói cho mọi người rằng tôi hy vọng có một cái bẫy hay một miệng cống để mở nào đó quanh đây.
Philippa nhăn mặt:
– Hơi ác đó ông.
John bảo:
– Anh thì không nghĩ vậy.
– Nó làm tôi phát điên lên được. Nhảy với chả nhót. Nó nghĩ nó là ai chứ? Gene Kelly? Hay Ginger Rogers dở hơi? Bộ nó bị bệnh hiếu động thái quá hay sao? Tôi hỏi, cô nàng ngớ ngẩn đó mắc bệnh hiếu động thái quá hay sao?
Ông Vodyannoy nói:
– Ờ, tôi tin là vậy. Djinn chúng tôi gọi đó là tình trạng tự dưng đứng ngồi không yên. Giống như khi ai đó theo đuổi một giai điệu lố bịch trên đàn phong cầm của nhà thờ. Không ít djinn mắc chứng đó khi còn trẻ.
Philippa lập tức bảo:
– Đấy thấy chưa. Không phải lỗi của cậu ấy đâu nhé. Chúng ta cần phải thông cảm cho cậu ấy chứ ông.
John chế giễu:
– Em đang nói về bản thân em đấy à?
Tuy nhiên trên thực tế, Philippa hiện tại đã hối hận với việc mời Zadie tham gia chuyến phiêu lưu Nam Mỹ của họ. Thứ cô ngại nhất không phải là điệu tap-dance hay thậm chí là cái bàn chải đánh răng Zadie luôn ngậm trong miệng, mà là cái miệng lưỡi sắc nhọn hay chỉ trích của cô. Nó thật sự làm Philippa cảm thấy khó chịu.
Zadie vẫn đang nhảy tap-dance khi người phụ nữ lấy trộm cái hộp xuất hiện tại bàn của họ và trả nó lại cùng một cái cúi người xin lỗi đầy sợ hãi.
Ả nói:
– Tôi rất tiếc. Cho tôi xin lỗi. Tôi sẽ không bao giờ làm vậy nữa. Xin thứ lỗi cho tôi, seíor.
Ông Groanin bảo:
– À, ờ, nói thì dễ lắm. Cô nên tự cảm thấy xấu hổ, cô gái trẻ ạ. Tôi nghĩ tôi nên đi gọi cảnh sát để bắt cô lại. Tôi nói, tôi thật muốn đi gọi cảnh sát đến đây đấy, cô nghe chưa? Tôi không có thời gian cho những tên trộm. Thật sự không. Đặc biệt khi họ trộm đồ của người khác.
Mỉm cười trông thật thảm hại, người phụ nữ hơi vặn vẹo hai tay với nhau và cúi đầu lần nữa. Ngân ngấn nước mắt, ả lặp lại:
– Xin thứ lỗi cho tôi.
Ông Groanin từ chối thẳng thừng:
– Không bao giờ.
Philippa nghiêm nghị nói:
– Kìa ông! Cháu nhớ ông cũng từng là một kẻ trộm mà. Trên thực tế, đó là cách ông gặp cậu Nimrod, không phải sao? Bởi vì ông đã lấy trộm cái bình rượu chứa cậu ấy.
Viên quản gia người Anh đằng hắng một tiếng lớn và nhìn Philippa với cặp mắt trợn tròn.
– Ờ thì, có thể nói như vậy. Cám ơn đã nhắc nhở ta điều đó, thưa cô. Giờ đây khi cháu đã nhắc lại điều đó, ta nghĩ rằng ta muốn quên đi khoảng đời đó.
Zadie mỉa mai:
– Con người thì lầm lỗi và thánh thần thì tha thứ.
Ông Groanin cắn môi. Bị Philippa, người ông cực kỳ yêu quý, chỉ trích là một chuyện, nhưng bị chỉ trích bởi một người khó chịu như Zadie lại là một chuyện khác. Ông lầm bầm:
– Cậu nhóc Dybbuk mà mình vẫn hay phàn nàn hóa ra vẫn còn đỡ.
Zadie dù sao cũng chẳng nghe người khác nói, hỏi lại:
– Hm?
Ông Groanin nói:
– Tôi nói, với thánh thần thì cái gì mà chẳng tốt đẹp, bảnh bao. Nhưng với mundane chúng tôi lại khác.
Ông bực bội vẫy tay với người phụ nữ:
– Cô đi đi, cô nàng láu cá, trước khi tôi kịp đổi ý và để cô hứng chịu cảnh bị bán làm nô lệ hay bất cứ cách xử trí nào dành cho những kẻ trộm ở cái vùng thô tục này.
Người phụ nữ quay lưng lại và vội vã bỏ chạy. Ông Groanin đắc thắng tuyên bố:
– Đấy. Tôi nghĩ phải đe dọa như thế mới được.