Chương 6 - Cái Đầu Teo Nhỏ Của Ông Sicky Và Những Truyện Kể Kinh Khủng Sau Buổi Tối.
Họ thuê máy bay bay đến Cuzco, thủ đô cổ của người Inca nằm trên những sườn núi cao của dãy Andes. Đó là một chiếc máy bay Cessna Caravan đa năng, khá tiện lợi cho việc chuyên chở tất cả mớ dụng cụ mà họ mang theo từ New York. Trong khi chiếc máy bay đó được bổ sung nhiên liệu ở Cuzco, họ bắt trực thăng lên thành cổ Machu Picchu, nơi được gọi là “thành phố bị mất tích” mà Hiram Bingham đã tìm thấy vào năm 1911.
Machu Picchu gần như nằm trên những đám mây, và cặp sinh đôi nghĩ rằng nó là một trong những điều kỳ thú nhất mà chúng từng thấy. Gần tuyệt vời như những kim tự tháp, dù tuổi đời của nó ít hơn nhiều.
John nhận xét:
– Khó mà tin được người Inca có thể khuân những khối đá to đùng đó lên đến tận đây để xây thành mà không có sức mạnh djinn.
Cậu Nimrod bảo:
– À, họ có thể đấy. Nơi này được xây dựng vào năm 1450, hàng trăm sau khi vị vua djinn của người Inca, Manco Capac, qua đời.
Ông Groanin nói giữa những tiếng hổn hển, vì ở độ cao cách mặt nước biển đến gần hai ngàn năm trăm mét, không khí ở Machu Picchu khá loãng:
– Ít có thứ con người không thể làm một khi đã quyết tâm. Có lẽ ngoại trừ việc thể hiện sự tôn trọng đối với nơi này một ít, tôi phải nói, nhìn nó không có vẻ bị mất tích gì cả. Nhìn nơi này xem. Tôi nói, cứ nhìn nơi này mà xem. Chẳng khác gì công viên Heaton ở Manchester vào ngày nghỉ của ngân hàng ấy. Đầy nhóc người tán chuyện qua điện thoại hay tổ chức dã ngoại, dân hippy bán bưu thiếp, mấy gã cuồng tín dở hơi họp mặt cầu nguyện – Chúa ơi, đằng kia thậm chí còn có cả một nhóm người Mỹ quay quảng cáo kem chống nắng.
Đó là sự thật. Khu thành cổ đại hiện lúc nhúc du khách với đủ mọi quốc tịch, và John đã rời khỏi Machu Picchu với suy nghĩ, có lẽ tốt nhất là Hiram Bingham nên giữ bí mật khi khám phá ra nơi này. Philippa thì nghĩ rằng thật khó để tin rằng còn có một nơi khác như thế này – ở Machu Picchu, có đến một trăm bốn mươi công trình kiến trúc khác nhau được xây dựng trên khắp diện tích năm dặm vuông – ví dụ như Paititi, vẫn đang chờ đợi được khám phá.
Ít nhất đó là điều cô nghĩ cho đến khi họ quay lại với chiếc Cessna của họ và bay về phía đông, băng qua mặt bên kia của dãy Andes để đến với một thị trấn nhỏ tên gọi Manu nằm ngay tại trái tim của rừng Amazon thuộc địa phận Peru.
Là khu rừng mưa nhiệt đới lớn nhất trên trái đất, rừng Amazon bao phủ một diện tích lên đến ba triệu dặm vuông. Khoảng rừng Amazon thuộc địa phận của nước Peru chỉ là một phần nhỏ trong con số khổng lồ đó, tuy nhiên nó lại là nơi hoang dã nhất, khó tiếp cận nhất, và vì thế trở thành khu rừng mưa ít bị khai phá nhất trên thế giới. Khi chiếc máy bay hạ thấp trên những vòm cây dường như kéo dài đến vô tận, Philippa đã nghĩ cứ như thể cô đang nhìn xuống những tầng mây màu xanh lá khổng lồ chồng chất lên nhau. Cô nói với John:
– Ôi chao, nhìn nó như thể không có điểm kết thúc, John nhỉ? Ý em là, khi nhìn thấy những tán rừng dày như thế này, thật dễ để tin vào ý tưởng thật sự có một thành phố mất tích ẩn giấu ở dưới đó, nhỉ?
Gật đầu với cô em sinh đôi, John mỉm cười:
– Em có thể cá như thế. Nó thật tuyệt, nhỉ?
Thế mà ông Groanin lại đang cố lờ đi cảnh quan bên dưới. Ông lầm bầm:
– Ta hy vọng tay phi công biết hắn đang đi đâu. Ta sẽ rất bực bội nếu máy bay hết nhiên liệu và chúng ta phải bắt đầu tìm kiếm một chỗ hạ cánh an toàn dưới đó.
Vỗ vai viên quản gia, John châm chọc:
– Không hổ là ông Groanin. Lúc nào cũng nhìn vào mặt tốt của vấn đề.
Ông Groanin lầm bầm:
– Phải có ai đó làm điều đó. Như vậy, sẽ không ai bất ngờ khi mọi thứ trở nên tồi tệ.
John bật cười.
Zadie bảo:
– Tớ mừng là cậu thấy chuyện này đáng buồn cười đấy, John. Vì tớ thì không. Tớ chưa bao giờ hợp với việc là một hành khách trên không, ngay cả trong những thời điểm tốt đẹp nhất.
John nói:
– Chẳng hiểu sao tớ cũng nghĩ cậu sẽ như vậy.
Ông Groanin bảo cậu:
– Hãy nhìn vào mặt tốt của vấn đề. Ít nhất cô ấy đã ngừng nhảy tap-dance.
Philippa hỏi:
– Mọi người có biết ở dưới đó có đến một ngàn loài chim khác nhau không? Đó là chưa kể đến sáu loài dơi, bao gồm năm loài hút máu khác nhau.
Ông Groanin rên rỉ:
– Làm ơn đừng nhắc gì đến dơi. Đặc biệt là mấy con hút máu. Ta ghét dơi. Một cái lũ kinh tởm. Giống như chuột cống có cánh.
Ông Vodyannoy trấn an:
– Trừ khi anh bất cẩn đến mức thò chân ra khỏi lều vào ban đêm, ít có khả năng anh bị một con như thế cắn.
Ông Groanin tuyên bố:
– Đừng hòng mà bắt được tôi ban đêm thò ra khỏi lều dù chỉ một cọng tóc nhé. Không phải ai trong chúng ta cũng ngớ ngẩn đến mức thích lang thang trong một khu rừng có mấy tay săn đầu người lảng vảng xung quanh.
Zadie bảo:
– Cháu không thấy ai đó lại muốn có cái đầu của ông, ông Groanin ạ. Đầu tiên, chẳng có mấy cọng tóc trên đó. Và cũng chẳng có gì nhiều bên trong.
Ông Groanin lầm bầm rủa cô trong cuống họng rồi bắt đầu ăn một hũ Thực Phẩm Dinh Dưỡng cho Trẻ: Mì Ống Cắt Ngắn Sốt Cá Ngừ, một thứ mà ông chỉ ăn khi đã đói rã ruột, đó là loại thức ăn duy nhất ông định ăn trong suốt thời gian họ ở Amazon. Ông hy vọng rằng ít nhất sẽ có một thứ gì đó uống được ở đây. Nghe đồn loại bia địa phương - chichai - khá ngon. Và ông Groanin là một người thích uống bia.
Philippa đề nghị:
– Nhìn này, chúng ta có thể bài trừ truyền thuyết nhảm nhí đó một lần và mãi mãi được không vậy? Không có thợ săn đầu người ở rừng mưa Amazon. Có thể chừng một trăm năm trước thì có, nhưng bây giờ thì không. Đúng không, cậu Nimrod?
Cậu Nimrod nói:
– Có thể cháu nói đúng, Philippa. Nhưng mặt khác, chúng ta đang nói đến rừng Amazon, chứ không phải Công viên Quốc gia Yellowstone. Đây là khu rừng nguyên sinh vĩ đại cuối cùng trên trái đất và nó rộng đến ba triệu mẫu, phần lớn vẫn chưa có dấu chân của con người, hay thậm chí là djinn. Cho nên chúng ta thật sự không thể biết ở dưới đó có hoặc không có gì. Nhưng ít nhất có một điều mà cậu có thể nói chắc: sẽ có vài ngạc nhiên chờ chúng ta bên dưới một khi đặt chân xuống đất.
o O o
Tiếp đón họ là người tổ chức thám hiểm kiêm hướng dẫn viên du lịch gốc Nam Mỹ - ông Sicky - cùng đầu bếp kiêm người lái thuyền của ông - ông Muddy. Cả hai là bạn cũ của ông Vodyannoy, đã từng đồng hành cùng ông trong chuyến thám hiểm rừng lần trước.
Có chiều cao quá khổ so với tầm vóc bình thường của thổ dân Châu Mỹ, ông Sicky có hai bàn tay cùng hai bàn chân to đùng, hai cánh tay, cổ và ngực của ông được che phủ bởi vô số hình xăm kỳ lạ mà ông vui vẻ cho phép John xem kỹ. Tất cả, ngoại trừ cái hình xăm trên bụng của ông. Ông Sicky nói với John rằng ông phải che lại cái hình xăm đặc biệt đó bởi vì, giống như ánh mắt của Nữ thần tóc rắn, nó có sức mạnh biến tất cả sinh vật sống thành đá.
John chọc:
– Coi nào, cháu cũng muốn biết ông xăm cái hình xăm đó ở đâu.
Ông Sicky giải thích:
– Nhiều năm trước anh Vodyannoy đã cho ta ba điều ước. Và hình xăm này là một trong ba điều ước đó, để ta dù tay không vẫn luôn có thể đánh bại kẻ thù.
John trầm trồ:
– Chà, ông có nhiều kẻ thù lắm à?
Ông Sicky mỉm cười:
– Bây giờ thì không.
Nói cách khác, ông Sicky là một người tử tế, có óc hài hước, đáng tin cậy, và tuyệt đối trung thực. Có vẻ như ông đã từng là một nhà điêu khắc tài năng. Hoặc ít nhất lũ trẻ nghĩ như vậy. Tuy vậy, điều đáng chú ý nhất ở ông Sicky là kích thước cái đầu của ông: chỉ to bằng một quả bưởi chùm, hay chính nắm tay của ông. John và Philippa cố giả vờ như thể ông Sicky có một cái đầu hoàn toàn bình thường, nhưng thật khó mà nghĩ như vậy khi nghe ông Sicky nói chuyện, vì tiếng Anh của ông không thật sự tốt và họ phải nhìn kỹ vào miệng ông để có thể chắc chắn ông đang nói gì. Mà miệng của ông của kỳ lạ không kém cái đầu của ông. Cặp sinh đôi đã nhìn thấy nghệ thuật xỏ lỗ cơ thể trước đây. Trên khắp đường phố ở New York không thiếu gì những người quái dị với đủ loại kim loại gắn vào mũi, tai, môi và rốn của họ.
Nhưng ông Sicky là người đầu tiên họ thấy khâu chỉ màu vào môi, giống như những sợi ria mép kiểu Fu Manchu. Và, ít nhất trong vài tiếng sau đó, lũ trẻ vẫn thầm đoán mò về bí ẩn bộ ria mép của ông.
Nguồn gốc biệt danh Sicky của ông lại dễ hiểu hơn nhiều. Mỗi lần có ai hỏi một điều gì đó đại loại như “Hôm nay ông thế nào?” ông Sicky luôn trả lời là, “Không tốt lắm. Hôm nay tôi hơi bệnh.” Dĩ nhiên, cặp sinh đôi quá lịch sự để hỏi về cái đầu nhỏ xíu và cái miệng có những vật trang trí kỳ lạ của ông Sicky. Nhưng Zadie lại thiếu tài ngoại giao và sự tế nhị của chúng, nên rốt cuộc chính cô là người buột miệng nói ra câu hỏi vẫn ám ảnh trong đầu mọi người.
Việc xảy ra như thế này: Họ đang dùng bữa tối tại ngôi nhà gỗ của ông Sicky ở ngôi làng mang tên Manu, trên bờ hồ bán nguyệt lấp lánh với hàng cọ che bóng mát, họ sẽ trải qua đêm đầu tiên của mình ở rừng Amazon thuộc địa phận Peru, tại ngôi nhà này. Món bít tết dê ngon tuyệt đang được chuẩn bị bởi đầu bếp của ông Sicky, ông Muddy không chỉ là một bếp trưởng tuyệt vời mà còn là một tay đàn ghi ta cừ khôi. Zadie đã uống vài ly nước gì đó mà cô thích đến nỗi phải hỏi ông Sicky đó là gì và nó được làm như thế nào.
Ông Sicky cho biết:
– Đây là chichai, một loại bia địa phương được tạo ra bởi người Inca.
Vui vẻ nâng cốc với ông Sicky, ông Groanin tuyên bố:
– Không gì tuyệt bằng một ly bia ra hồn.
Ông Sicky kể với Zadie:
– Người trưởng thành như anh Groanin đây sẽ uống loại chichai có cồn, đơn giản được gọi là chichai. Nhưng anh Vodyannoy bảo cho cháu uống loại không cồn được gọi là chichai thiêng, nên đó là thứ cháu đang uống. Nó có đầy đủ vị của chichai, nhưng không có cồn. Và cũng không có chứa calo. Dĩ nhiên, nếu cháu không phải là một đứa trẻ người Mỹ, ta sẽ đưa cho cháu loại chichai bình thường. Nhưng anh Vodyannoy nói là…
Zadie ngắt lời ông:
– Vâng, vâng, cháu hiểu rồi. Nhưng nó làm từ nguyên liệu gì thế? Có gì bên trong?
Ông Sicky trả lời:
– Ngũ cốc. Tương tự những loại bia khác. Và nước bọt. Nước bọt của người.
Zadie nuốt nước bọt một cách khó khăn:
– Xin lỗi, ông vừa nói nước bọt người hả?
Ông Sicky gật đầu:
– Ờ. Nước bọt. Như thế này này!
Cầm cái ly không của mình lên, ông vén mấy sợi chỉ trên môi qua một bên và nhả một đống nước bọt vào trong ly như thể nó sẽ giúp loại bỏ tất cả mọi nghi ngờ vẫn còn quanh quẩn trong đầu họ sau lời giải thích của ông.
Zadie hỏi:
– Ông đang đùa phải không?
Mồi lửa tẩu thuốc của mình, ông Vodyannoy nói:
– Ta e là anh ấy không nói đùa.
Ông Sicky bảo:
– Ta không nói đùa đâu. Đó là một công thức lâu đời của người Inca. Rất rất lâu đời. Rất ngon, phải không?
Lịch sự mỉm cười, Philippa hỏi:
– Và ông mua chichai đóng chai? Từ siêu thị?
Ông Sicky lắc đầu:
– Không, anh Muddy tự làm chúng đấy chứ.
Hoàn toàn vì tác động có thể của nó lên Zadie và ông Groanin, John chơi ác hỏi lại:
– À, để cháu làm rõ điều này nhé. Ý ông là, món chichai này được làm tại chỗ. Ông Muddy đã làm nó với nước bọt của chính ông, đúng không, ông Muddy?
Ngừng chơi ghi ta, ông Muddy đứng lên và nghiêng người cúi chào như thể xác nhận nguồn gốc thật sự của phần nước bọt trong chichai. Ông cao chưa đến mét rưỡi, nên khi đứng dậy, ông cũng chưa bằng ông Sicky đang ngồi. Nhưng ông có một trái tim rất lớn.
– Nước bọt của tôi, đúng thế.
Ông Muddy nói, rồi phun nước bọt vào bụi cây như thể muốn cung cấp thêm chứng cứ cho điều ông vừa thừa nhận.
– Tôi thích phun nước bọt. Tôi cũng phun nước bọt khá giỏi. Tôi có thể phun xa đến gần chục mét mà vẫn trúng đích.
Ông Sicky cho biết thêm:
– Cả vùng Nam Mỹ này không ai phun nước bọt xa hơn hay nhiều hơn anh Muddy đâu nhé.
Ông Groanin đứng dậy và lặng lẽ rời khỏi bàn. Cậu Nimrod nói:
– Ồ, tội nghiệp anh Groanin. Có lẽ tôi nên nói cho anh ấy biết trước khi anh ấy uống. Anh ấy đã uống mấy ly lớn rồi.
Uống cạn ly bia của mình, ông Vodyannoy nhận xét:
– Ngon tuyệt.
Zadie đề nghị:
– Chúng ta có thể nói về chuyện khác không vậy?
Cô đang kinh hoàng ôm chặt lấy bụng mình và cảm thấy buồn nôn đến mức cô không thể đứng dậy đi theo viên quản gia vào bụi rậm nơi ông đang sụt sùi nôn mửa.
Nhưng John không định bỏ qua cho đề tài này. Tạm thời không. Cậu hỏi tiếp:
– Cần bao nhiêu nước bọt vậy, ông Sicky? Ví dụ, để làm một galong bia như thế này?
Ông Sicky gật đầu và nhả vài ngụm nước bọt vào cái ly không của mình. Giơ khoảng chừng vài centimet thứ nước bọt vàng đục lên, ông nói:
– Khoảng bằng vầy. Cho loại chichai. Nhiều hơn cho loại chichai thiêng.
Zadie nói:
– Xin cậu, John, nếu cậu không phiền. Tớ thật sự nghĩ chúng ta đã nghe đủ rồi đấy.
Và nghĩ rằng John cùng ông Muddy chỉ rời bỏ đề tài kinh tởm về bia chichai nếu cô có thể cho họ một đề tài bàn luận khác, cô mỉm cười rạng rỡ và hỏi:
– Thế, ông Sicky, làm sao mà cái đầu ông nhỏ như vậy thế? Và ông kiếm đâu ra mấy sợi chỉ quái dị trên miệng thế? Ông tự khâu chúng vào môi à?
Philippa thở hắt ra một tiếng khi thấy có người dám đặt một câu hỏi trực tiếp như thế với một người rõ ràng đã bị tổn thương trong quá khứ. Nhưng ông Sicky không mấy phật lòng. Ông đã quá quen với những câu hỏi như vậy. Ông Sicky cho biết:
– Ta là thổ dân của bộ tộc Prozuanaci. Tộc Prozuanaci là kẻ thù lâu đời của tộc Xuanaci. Tộc Xuanaci man rợ và kém văn mình hơn nhiều so với chúng ta. Vùng đất sinh sống của chúng cũng kém thân thiện, với không có lấy một đường mòn xuyên qua những cánh rừng cực kỳ rậm rạp, và người ta hiếm khi trông thấy chúng. Một điều tốt! Dù sao thì, rất nhiều năm trước đây, khi ta vẫn chưa lớn hơn hay to hơn cậu bé này, ta đã bị thổ dân tộc Xuanaci bắt. Nếu không phải vì ta còn nhỏ, có lẽ chúng đã cắt đầu ta làm vật kỷ niệm chiến tranh. Thứ mà chúng gọi là tzantza. Thay vào đó, để làm nhục ta và khiến ta luôn nhớ đến việc chúng đã bắt được ta như thế nào, chúng đã quyết định làm teo cái đầu của ta lại, khi nó vẫn nằm trên vai ta. Người Peru chúng ta gọi đó là pernocabeza.
Philippa nói:
– Nhưng đó chắc chắn là một chuyện không thể thực hiện được.
– Không phải với người Xuanaci. Tộc Xuanaci biết rất nhiều về cách lấy và làm teo nhỏ đầu người để làm vật kỷ niệm. Đầu tiên, chúng trói chặt ta lại và hút mỡ ra khỏi mặt ta bằng những ống rơm nhỏ. Rồi chúng cạo trọc đầu ta và sơn lên đó một loại dầu đặc biệt chiết xuất từ một loại cây hiếm có chỉ mọc trong rừng Amazon, và chỉ có người Xuanaci mới biết. Rồi họ bắt ta nằm chúi đầu vào một cái xô đựng đầy cát nóng cùng những dược thảo bí mật khác trong nhiều tuần, hong khô nó trước khi sơn lớp dầu đặc biệt kia lên, rồi lại hong khô nó lần nữa. Và họ vẫn liên tục hút mỡ ra khỏi mặt ta.
John nhận xét:
– Tựa tựa như giải phẫu rút mỡ ấy nhỉ. Cháu hiểu rồi.
Ông Sicky kể tiếp:
– Việc đó lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Và trong suốt khoảng thời gian đó, cơ thể ta tiếp tục lớn lên, trong khi đầu của ta teo nhỏ dần. Dĩ nhiên ta đã gào khóc kêu cứu. Bởi vì người của tộc Prozuanaci đang tìm kiếm ta. Và để ngăn chặn điều đó, người Xuanaci đã khâu miệng ta lại với những sợi chỉ mà các cháu thấy giờ ta vẫn đeo.
John đang bị cuốn hút bởi câu chuyện của ông Sicky, nôn nóng hỏi:
– Chuyện gì xảy ra sau đó? Họ thả ông đi à?
– Khi đầu ta đã nhỏ xíu, chúng tổ chức một buổi tiệc tiệc pernocabeza đặc biệt – một buổi tiệc mà ta là vị khách danh dự. Chúng đưa cho ta một cái ly chứa tất cả mỡ hút ra từ chính đầu của ta.
– Và ông đã uống nó?
– Dĩ nhiên. Nếu ta từ chối, chúng chắc chắn sẽ giết ta. Lượng mỡ đó làm cơ thể ta to hơn trước, và do đó, càng làm cái đầu của ta nhìn có vẻ nhỏ bé hơn.
John nhận xét:
– Có vẻ hợp lý. Rồi sao nữa ông?
Ông Sicky nhún vai:
– Chúng đưa cho ta một cái gương mà chúng đã từng dùng một cái đầu bị teo nhỏ để trao đổi, để ta tự nhìn bản thân. Một việc mà chúng nghĩ khá hài hước.
Philippa cũng bị lôi cuốn bởi câu chuyện không kém anh trai, hỏi:
– Và ông đã cảm thấy như thế nào?
Ông Sicky nói:
– Bệnh. Rất bệnh. Bệnh đến tận bao tử. Cháu sẽ cảm thấy như thế nào?
Philippa đồng ý:
– Thấy muốn bệnh ạ.
– Rồi chúng thả ta đi. Ta đã về lại làng của mình và mọi người đều mừng rỡ khi trông thấy ta, nhưng đồng thời cũng rất buồn vì những chuyện tộc Xuanaci đã làm với ta và cái đầu của ta.
John hỏi:
– Về sau ông có trả thù được họ không?
Là một cậu con trai, John tự nhiên nghĩ đến điều đó. Đưa mắt nhìn ông Vodyannoy, ông Sicky mỉm cười bảo:
– Ồ, có chứ. Nhưng là rất nhiều năm về sau.
Ông Vodyannoy cho biết:
– Vào lần ta đến đây nghỉ lễ, anh Sicky đã cứu ta, ngăn con Scolopendra gigantea - một loài rết khổng lồ của Peru – lại, lúc nó sắp cắn ta đến nơi. Chúng rất độc và hoàn toàn có thể làm chết người. Chúng còn độc với djinn chúng ta hơn là với mundane.
John nói:
– Cháu nghĩ như thế cũng coi như công bằng, “bù qua sớt lại” việc chúng ta hoàn toàn miễn nhiễm trước nọc rắn.
Philippa thắc mắc:
– Chúng lớn đến mức nào?
Ông Vodyannoy trả lời:
– Chúng có thể dễ dàng đạt độ dài gần nửa mét. Dù sao thì, ta đã tặng cho anh Sicky ba điều ước. Và sau khi lãng phí điều ước đầu tiên…
Ông Sicky nhe răng cười một cách ngượng ngùng khi nhớ đến việc đó.
– Ta đã ước gì mình biết được anh Vodyannoy có nói dối hay không. Và rồi ta đã biết, dĩ nhiên.
Zadie cẩn thận đặt câu hỏi:
– Ừm, thứ lỗi cho cháu nhé, và cháu cũng không có ý xúc phạm gì, nhưng ông Sicky, sao ông không ước có một cái đầu kích cỡ bình thường?
Ông Sicky đơn giản trả lời:
– Bởi vì ta không muốn như thế. Ta đã quá quen với kích cỡ hiện tại của cái đầu ta. Tất cả những người khác cũng vậy. Việc đó không còn quan trọng nữa.
John nói:
– Cháu biết rồi. Điều ước thứ hai của ông là trả thù người Xuanaci.
Ông Sicky lắc đầu:
– Ồ không. Điều ước thứ hai của ta là có một công việc làm ăn riêng. Ở đây, trong khu rừng này. Để nuôi sống gia đình ta. Và đó là lý do tại sao ta có công ty tổ chức du lịch và thám hiểm này. Điều ước thứ ba của ta là có cái hình xăm mà ta đã kể với cháu. Cái hình xăm có thể biến mọi vật thành đá ấy.
Philippa bảo:
– Thế mà cháu cứ nghĩ ông là một nhà điêu khắc đấy. Những bức tượng động vật nhìn giống như thật mà cháu đã thấy ở quanh đây, chúng từng là động vật thật sự, đúng không?
Ông Sicky gật đầu:
– Đúng vậy. Ta kiếm thêm được ít tiền với việc bán chúng cho du khách.
John hỏi:
– Vậy còn người Xuanaci?
Ông Sicky lại nhe răng cười một cách ngượng ngùng:
– Cháu nghĩ đúng đấy, cậu bé. Có một ngày, sử dụng cái hình xăm này, ta đã đi sâu vào trong rừng, tìm kiếm vài gã Xuanaci và cũng biến chúng thành đá.
John trầm trồ:
– Chà. Thế ông cảm thấy như thế nào về việc đó?
Ông Sicky bảo:
– Bệnh. Rất bệnh. Bệnh đến tận bao tử. Làm việc đó không cho ta bất kỳ sự dễ chịu nào. Đại loại như vậy. Có lẽ cháu sẽ tận mắt nhìn thấy những bức tượng đó vì chúng ta sẽ đi ngược dòng, vào sâu trong lãnh địa của người Xuanaci, để đến được nơi mọi người muốn đến.
Ông Groanin quay lại bàn.
John hỏi mà một mắt nhìn sang ông Groanin:
– Họ có còn săn đầu người không ông?
Ông Sicky nhún vai:
– Câu hỏi khó đây. Lâu lắm rồi ta không gặp một người Xuanaci nào. Nên có thể có. Cũng có thể không.
Mỉm cười với ông Groanin, ông nhỏ nhẹ nói:
– Đứng yên đừng nhúc nhích gì nhé, anh Groanin.
– Sicky, ông bạn già, anh vừa nói gì cơ?
– Làm ơn đứng yên đừng nhúc nhích. Có một thứ trên lưng anh đó.
Ông Groanin nuốt khan, mặt trở nên xanh lè.
– Thứ? Thứ gì? Ý anh là, một con vật kinh tởm nào đó à?
Bàn tay ông Sicky biến mất đằng sau lưng ông Groanin trong một giây, rồi xuất hiện trở lại với một con rết to đùng. Nó có khoảng hai mươi tám đốt đỏ au và vài chục cặp chân vàng khè to hơn răng lược cỡ lớn. Con rết nhìn giống một thứ gì đó đến từ một hành tinh khác, một hành tinh không mến khách.
Đứng bật dậy khỏi bàn, John thốt lên:
– Thánh thần ơi, một con Scolopendra gigantea.
Cậu Nimrod gật đầu:
– Chính xác.
– Con lớn nhất mà ta từng thấy.
Ông Sicky nói, và giơ nó lên trước ánh sáng để tất cả mọi người có thể nhìn rõ hơn. Ngay cả trong bàn tay to đùng của ông Sicky, con rết khổng lồ nhìn vẫn bự như một con rắn.
– Con này chắc phải dài đến bảy tấc. Cũng khá là độc.
Cậu Nimrod nói với ông Groanin:
– Mặt anh hơi xanh đó, anh Groanin. Anh cảm thấy thế nào?
Ông Groanin nói:
– Bệnh. Rất bệnh. Bệnh đến tận bao tử tôi đây này. Ngài nghĩ tôi cảm thấy thế nào chứ?
Và rồi ông ngất xỉu.
Tuy nhiên, ông Sicky không giết con rết khổng lồ, và thậm chí cũng không quẳng nó đi. Tối hôm đó, ba đứa trẻ phát hiện ông nhốt con rết trong một cái hộp lớn và cho nó ăn chuột nhắt và gián.
Zadie nhăn mặt:
– Eo ơi, sao ông giữ một thứ kinh khủng như vậy chứ, ông Sicky?
Ông Sicky cho biết:
– Ta sẽ nuôi nó lớn hơn nữa. Rồi ta sẽ cho nó thấy hình xăm ma thuật trên bụng ta và biến nó thành đá. Nó sẽ là một tác phẩm điêu khắc giúp ta kiếm được một số tiền lớn từ du khách. Giống như những bức tượng khác.
Ông chỉ tay vào vài bức tượng động vật đường nét chi tiết, hoàn mỹ ở trên mái hiên bên ngoài phòng khách của ông. Chúng bao gồm một con nhện ăn chim, một con thú ăn kiến, một con lười, một con thú túi opot, một con khỉ rú, một con chó tai ngắn, một con heo vòi, một con nhím, và một con báo sư tử. Nhìn như thể ông Sicky có cả một xưởng thủ công gia đình tại ngôi nhà gỗ đơn sơ của ông ở Manu.
John tò mò:
– Đó là cách ông tạo ra tất cả những bức tượng sao? Chỉ việc cho chúng thấy bụng của ông thôi à?
Ông Sicky gật đầu và cho biết thêm:
– Ta từng có một bức tượng thổ dân Xuanaci. Nhưng một nhà điêu khắc Anh nổi tiếng đã mua nó và bán lại cho một bảo tàng nghệ thuật đương đại ở Luân Đôn với giá khá cao.
John hỏi:
– Ông cảm thấy như thế nào về việc đó?
Ông Sicky đơn giản trả lời:
– Bệnh.
Philippa thắc mắc:
– Cháu có thể hiểu tại sao có người muốn một con báo sư tử bằng đá. Thậm chí là một con nhím. Nhưng loại người quái gở nào sẽ muốn mua một con rết đá chứ?
John bảo em:
– Ồ, anh không biết. Anh không ngại có một con đâu. Ông biết gì không, ông Sicky? Cháu sẽ mua nó.
Philippa nói:
– Em đoán là anh vừa trả lời câu hỏi của em.
John nhanh chóng nói thêm:
– Ý cháu là, khi ông đã hoàn thành việc, ờ, việc biến nó thành đá. Nó có thể sẽ rất hợp với mặt lò sưởi ở nhà cháu.
Vì thế mà John có phần thất vọng khi ít lâu sau đó, ngay trước giờ đi ngủ, ông Sicky thông báo với cậu rằng con rết khổng lồ đã trốn thoát khỏi cái hộp. Gãi gãi cái đầu to bằng quả bưởi chùm của ông với vẻ mặt khó hiểu, ông Sicky nói:
– Ta nghĩ nó là một con rết rất thông minh. Ta nghĩ, có lẽ nó đã giả vờ như nó nhỏ hơn nhiều so với kích thước thực tế. Nếu duỗi thẳng người ra, chắc nó dài hơn ta nghĩ. Dù sao thì, nó đã chuồn mất. Chúng ta sẽ không trông thấy nó lần nữa.
Zadie bảo:
– Cháu hy vọng như vậy.
Nhưng trong khi theo bản năng cô căm ghét loài rết, Zadie dường như lại cảm thấy khác về loài dơi, vì cặp sinh đôi đã rất ngạc nhiên khi phát hiện bám trên tay cô là một con dơi thú nuôi của cô.
Mời cặp sinh đôi vuốt ve nó, cô giải thích:
– Tớ đã tìm thấy nó treo trên tường phòng ngủ của tớ. Nó khá thuần, thật đó.
Xem xét con vật, ông Vodyannoy hùng hồn tuyên bố:
– Đây là một con Sturnira erythromos. Loài dơi vai vàng. Hoàn toàn vô hại.
Dùng ngón tay xoa xoa đầu con dơi, Philippa nhận xét:
– Lông nó mượt thật.
Ông Vodyannoy cho biết:
– Hoàng đế Atahualpa của người Inca có một tấm áo choàng mềm hơn cả tơ lụa, làm từ những miếng da dơi tốt nhất. Một trong những anh em của Pizarro - Pedro - đã ghi chép lại cách thu phục lòng người Inca trong đó có da dơi.
Zadie nói:
– Tớ gọi nó là Zotz. Lấy từ Camazotz, vị thần dơi đại diện cho cái chết của người Maya.
Con chó của ông Muddy - Hector - gầm gừ với con dơi khi Zadie thử giới thiệu chúng với nhau. Hành động này khiến nó được ông Groanin tưởng thưởng bằng một cú vỗ nhẹ trên đầu.
Viên quản gia lầm bầm:
– Hector, anh bạn già, tao không thể đồng ý hơn nữa. Có một thứ gì đó rất là không ổn với cô bé đó.