← Quay lại trang sách

Chương 8 - Người Mèo.

Trời đang tối dần. Sau khi đã dựng trại xong, tranh thủ khi trời còn đủ sáng, cả đoàn tập trung lại nghiên cứu đoạn đầu của con đường mòn được nhắc đến trong tấm bản đồ mà Faustina đã đưa cho ông Vodyannoy. Zadie ướm hỏi:

– Cho cháu nhìn bản đồ được không?

Truyền nó sang cho cô, ông Vodyannoy nói:

– Dĩ nhiên được.

John thắc mắc:

– Mọi người có nghĩ đây cũng là con đường mà đoàn thám hiểm kia đã đi không?

Ông Sicky bảo:

– Chẳng có dấu rựa mở đường nào ở đây cả.

Nhưng Zadie lắc đầu nói:

– Chắc chắn họ đã đi đường này.

Rồi bước vài thước vào trong một bụi rậm gần đó, cô ngừng lại nhặt một thứ gì đó lên trước khi quay lại đưa cho mọi người xem. Cô bảo:

– Nhìn này.

Trên tay cô là một miếng giấy gói kẹo của Anh cùng một đầu lọc thuốc lá. Cô đưa chúng cho cậu Nimrod, cậu kiểm tra chúng với sự tỉ mỉ ngang ngửa Sherlock Holmes.

Cậu Nimrod cho biết:

– Mọi người có nhìn thấy chữ E và chữ S vàng trên mặt giấy không? Đó là chữ viết tắt của Empha Seema, một nhãn hiệu thuốc lá của Anh. Và miếng giấy gói kẹo này là của nhãn kẹo bơ cứng Callard của Anh.

Philippa nói:

– Vậy nghĩa là chúng ta đang đi trên lối mòn của họ. Người châu Âu đúng là thích quăng rác trên đường khi đi rừng, ông Sicky nhỉ?

Nhưng ông Sicky không còn tập trung lắng nghe họ nói nữa. Ông yên lặng chỉ tay về một hướng xa, và sau một lúc cậu Nimrod cũng nhận ra người dẫn đường của họ đang nhìn cái gì. Nằm vắt vẻo trên một nhành cây là một cặp báo đốm.

Cậu Nimrod hỏi:

– Anh không nghĩ chúng đang phục kích chúng ta chứ? Ý tôi là, chúng nằm sát đường đi quá.

Ông Sicky nói:

– Tôi không nghĩ như vậy, ông chủ à. Thứ nhất, nếu thật sự định phục kích, loài báo sẽ không bao giờ cho phép chúng ta nhìn thấy chúng. Ngoài ra, những con mèo bự này đang lim dim ngủ. Có vẻ như chúng đang chợp mắt chờ đến tối. Rồi sau đó chúng mới đi săn.

Đăm chiêu thở dài, ông xoa xoa cái đầu bé xíu của mình và nhận xét:

– Cũng hay khi nhìn thấy thứ gì dọc đường đi, ông bạn nhỉ. Trước khi chúng ta đến ngay cạnh chúng. Đúng không? Như hai con mèo này chẳng hạn.

Cậu Nimrod gật đầu:

– Ừ, được vậy thì tốt thật.

Ngước nhìn trời, ông Sicky nói:

– Dĩ nhiên giờ đã quá trễ. Chẳng bao lâu nữa trời sẽ quá tối để nhìn thấy nhiều thứ. Trừ khi chúng ta có được đôi mắt của loài mèo.

Cậu Nimrod mỉm cười:

– Anh vừa cho tôi một ý tưởng hay đấy, anh Sicky.

Một khi quay về chỗ dựng trại, cậu Nimrod nói cho mọi người biết ý tưởng của cậu là gì.

Cậu nói:

– Tôi nghĩ là, có lý do để chúng ta tin rằng đoàn thám hiểm kia có thể đã dành sẵn vài bất ngờ khác cho chúng ta trên đoạn đường phía trước. Cho nên, tôi đang nghĩ đến việc chúng ta tạm thời nên tách ra một lát. John và tôi sẽ đi trước thám thính để xem có an toàn không. Nếu không, chúng tôi sẽ quay lại cảnh báo cho mọi người biết. Cháu nghĩ sao, John? Cháu đi được không?

John tuyên bố:

– Cháu đã sẵn sàng cho mọi tình huống.

– Tinh thần được đấy.

Zadie phản đối:

– Lỡ nó không an toàn thì sao? Lỡ hai người gặp nguy hiểm thay cho mọi người thì sao?

Cậu Nimrod nói:

– Ta mừng là cháu đã đề cập đến chuyện đó, Zadie ạ. Chúng ta có thể vô hình mà đi, dĩ nhiên. Nhưng sẽ rất dễ để đi lạc khi cháu đi với một người mà cháu không thấy. Vì thế, điều mà ta đề nghị là: mọi người có nhớ hai con báo đực ngủ trên cây mà chúng ta đã thấy khi nãy không? Tôi và John sẽ mượn tạm cơ thể của chúng để đi thám thính một lát. Không gì có thể di chuyển trong rừng yên lặng hơn loài báo đốm.

Zadie nói:

– Ngoại trừ loài rắn.

Rồi như thể cần chứng minh cho lời nói của mình, cô chỉ cho họ thấy một con rắn san hô Peru đang gần như vô hình trườn qua lớp lá rụng trên mặt đất của rừng mưa nhiệt đới.

Cậu Nimrod thừa nhận:

– Đúng vậy. Nhưng ta chưa bao giờ thích làm một con rắn.

Zadie tiếp tục liệt kê:

– Và kiến lính. Và nhện. Và dơi. Tất cả đều di chuyển yên lặng hơn loài báo.

Cậu Nimrod mỉm cười đầy bình tĩnh:

– Và ta cũng không chưa bao giờ thích làm mấy con vật đó.

Trông thấy Zadie đang chuẩn bị liệt kê thêm vài loài nữa vào một danh sách vốn rất đa dạng, cậu Nimrod giơ một tay lên để ngăn cô lại rồi bảo:

– Nói chung là, trong cơ thể báo, chúng tôi có thể sớm phát hiện bất cứ bất ngờ nào đang chờ chúng ta phía trước. Như vậy chúng ta sẽ có dư thời gian để xử lý chúng.

Philippa đắn đo:

– Cháu không nghĩ cháu thích ý tưởng đoàn chúng ta bị phân nhỏ như vậy.

Zadie thừa nhận:

– Cháu cũng không thích.

Cậu Nimrod trấn an:

– Có anh Vodyannoy, anh Groanin và anh Sicky ở đây, hai đứa sẽ ổn thôi. Và chúng ta chỉ tách nhau vài tiếng là cùng. Chậm nhất là đến sáng mai.

Ông Vodyannoy khẳng định:

– Chừng nào ta còn ở đây, sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu. Cứ tin vào ta.

o O o

John theo cậu Nimrod đi ngược lên con đường mòn để đến cây tuyết tùng lớn đỏ au nơi cậu Nimrod đã trông thấy hai con báo đốm.

Cậu Nimrod nói:

– Chúng kia kìa. Loài panthera onca. Chúng đẹp nhỉ?

John đồng ý:

– Rất đẹp ạ. Sẽ tuyệt lắm đây.

Cậu Nimrod thừa nhận:

– Cậu cũng trông chờ hành động sắp tới của chúng ta lắm. Theo kinh nghiệm của cậu, không gì thú vị bằng cảm giác khi làm một con mèo. Và trong họ nhà mèo, báo đốm, hay otorongo theo tiếng địa phương, là một trong những trải nghiệm thú vị nhất. Cậu sẽ nhập vào con báo lớn hơn ở bên trái nhé.

Khựng lại, cậu Nimrod hỏi:

– Cháu đã làm việc này trước đây rồi, phải không? Việc nhập hồn vào động vật ấy? Ý cậu là, cậu nhớ mẹ cháu đã bảo cháu từng nhập vào một con chim.

John cho biết:

– Cháu đã từng là một con chim ưng. Ở Công viên Trung Tâm.

Cậu Nimrod nói:

– Nếu cháu từng thử sức với chim ưng thì nói thẳng, việc làm báo đốm sẽ dễ như ăn bánh.

Liếc nhìn xung quanh, John hơi lo lắng hỏi:

– Chúng ta sẽ để cơ thể của mình ở đâu đây cậu? Bất cứ chỗ nào quanh đây cũng có khả năng chúng ta quay lại và phát hiện cái gì đó đã ăn sạch chúng.

Cậu Nimrod bảo:

– Một lo lắng đúng! Cậu nghĩ rằng cháu không hề nghĩ đến việc mang cây đèn của cháu theo bên mình, đúng không?

John ngạc nhiên:

– Ơ, không ạ. Cháu nên mang theo nó sao cậu?

– Đó là một thói quen tốt mà cháu nên học. Như vậy cháu sẽ không bao giờ phải lo đến việc cất giấu cơ thể khi xuất hồn đi đâu đó. Đừng lo. Cháu có thể xài chung cây đèn du lịch của cậu.

Từ túi áo khoác của mình, cậu Nimrod rút ra một cái chai bạc nho nhỏ và đặt nó lên một nhánh cây. Cậu bảo:

– Được rồi. Chúng ta sẽ an toàn ở đây.

John cho biết:

– Cháu e là cháu chưa làm việc đó bao giờ. Cháu biết cách hóa thể, chỉ có điều cháu không biết cách tách rời hóa thể của cháu khỏi linh hồn.

Cậu Nimrod bảo:

– Chúng ta gọi đó là quá trình chắt gạn. Và việc đó thật ra rất dễ thực hiện, miễn là cháu nhớ bỏ nắp ra khỏi chai hoặc đèn. Đèn du lịch của cậu không có nắp đậy, nên chúng ta không cần phải lo về điều đó.

John thầm thì từ trọng tâm của cậu và dần dần được bao phủ trong một màn khói trắng đầy sinh khí. Khi quay lại thành nguyên tố tự nhiên của cậu, chính là lửa, cậu thoải mái hít sâu vào lồng ngực hàng triệu nguyên tố cacbon vốn tạo nên bản chất rực lửa của cậu, với một cảm giác mãnh liệt của sự khỏe khoắn và cực kỳ thư giãn, cậu để bản thân về hình dạng thật sự. Mỗi lần hóa thể, John cảm thấy như thể cậu lại có được một hiểu biết sâu sắc hơn về việc cậu là ai, cậu là cái gì, tựa như một thầy tu tìm được cõi niết bàn. Nó gần giống như cảm giác được trở về nhà sau một thời gian dài xa cách.

Bên trong cái chai, một cảm giác bất an đánh bại John trong giây lát, như nó vẫn thường xảy ra khi cậu trở lại với bản thể djinn thuần túy hoàn toàn của mình. Như một người vội vã chụp lại những tờ đô la bị gió thổi tung, cậu hối hả thu thập các nguyên tố của mình và tập hợp lại bản thân như vẫn thường làm, vì sợ rằng cậu có thể quên mất một phần nào đó nhỏ bé nhưng quan trọng của chính cậu. Nhưng bằng một cách nào đó, trước giờ cậu vẫn luôn làm được việc đó một cách thành công. Cậu Nimrod thì đã tập hợp lại bản thể cậu từ lâu và hiện đang xem xét không gian bên trong cái chai du lịch của cậu, như thường lệ, khoảng không gian luôn rộng hơn gấp nhiều lần so với vẻ bề ngoài của cái chai. John đến giờ vẫn không hiểu tại sao lại như vậy.

Bên trong cái chai của cậu Nimrod được trang hoàng như phòng thư giãn của một khách sạn tao nhã, với nhiều bức họa tinh xảo, vài cái ghế ngồi và sofa lớn bọc da, cùng một cái lò sưởi lửa bập bùng. Cậu Nimrod ngồi xuống, cởi giày ra, và mời John làm theo cậu. Cậu bảo John:

– Cháu chỉ cần nghĩ việc chắt gạn như một trải nghiệm rời-khỏi-cơ-thể bình thường. Hít sâu vài hơi rồi bay ra khỏi nắp chai. Được không?

John gật đầu.

– Thêm một điều nữa. Suýt nữa cậu quên. Sự chắt gạn sẽ có hiệu quả hơn nếu cháu rời khỏi cơ thể trong quá trình exhalation, không phải trong quá trình inhalation.

– Exhalation là gì cơ?

– Xin lỗi, cậu quên mất cháu là người Mỹ. Những từ tiếng Anh nhiều hơn ba âm là một ngôn ngữ xa lạ với cháu.

– Cậu nói hơi quá đó.

Cậu Nimrod ngọt ngào mỉm cười:

– Nhưng đó là sự thật. Nói chung là, cháu nên rời khỏi cơ thể khi thở ra. Như vậy, đến lúc cần nhập vào lại cơ thể, cháu có thể làm được điều đó như thể đang hít thở vào. Thói quen coi trọng việc hít vào và thở ra của mấy tay yoga Ấn Độ đã lấy ý tưởng từ đó đó. Từ chúng ta.

John thở ra một hơi thật sâu và nhấc mình lên khỏi cái cổ chai. Cảm giác này thật khác so với việc hóa thể. Nếu như việc hóa thể là về khói thì cái này lại hoàn toàn về không khí và sự tự do của linh hồn. Nó có cảm giác của một sự nhẹ nhõm đến kỳ lạ của bản thể.

Hai con báo đốm đang nằm ườn trên những nhánh cây cao, với bốn chân buông lỏng ở hai bên nhánh cây và cặp mắt khép kín, dù không con nào thật sự đang ngủ. Loài báo đốm thường không bỏ lỡ bất cứ điều gì. Và chúng cũng hiếm khi làm như vậy. Hai con báo này là anh em với nhau, vẫn và còn quá trẻ để tách rời nhau ra và trở thành những thợ săn độc lập như tập tính bình thường của loài báo đốm. Vài tiếng trước, chúng mới vừa thưởng thức một bữa trưa nhẹ với món thịt rùa sông và đang trông chờ đến một bữa tối bổ béo hơn như chuột lang Nam Mỹ, lợn lòi pecari, hoặc có thể là một con khỉ. Mẹ của chúng giờ đã là một ký ức xa xăm.

John trượt hồn vào con báo nhỏ hơn và ngay lập tức bắt tay vào việc liếm phần móng vuốt vẫn còn sót lại ít thịt rùa. Trong khi đó, sau khi phát ra vài tiếng meo meo càu nhàu, cậu Nimrod đứng dậy lấy hơi, há miệng gầm lớn một tiếng. Linh hồn John gần như nhảy dựng khỏi lớp áo hoa ban xinh đẹp, cậu trượt chân. Sức nặng cơ thể như muốn kéo cậu té nhào xuống đất, nhưng trong một giây, cậu đã bấu chặt vào nhánh cây với những cái móng bự sắc lẻm. John ngước nhìn cậu Nimrod và chờ đợi, đuôi ve vẩy đầy sốt ruột. Cậu Nimrod lại gầm lên một tiếng, như thể muốn phô trương kích cỡ và sức mạnh vượt trội của cậu.

John dùng khả năng truyền âm bằng sóng não hỏi cậu Nimrod, đơn giản vì, giống như phần lớn những động vật khác, loài báo đốm không có khả năng nói chuyện:

– Cậu làm cháu hết cả hồn.

Cậu Nimrod giải thích:

– Cậu chỉ muốn thông ngực thôi. Anh chàng này đã nằm vắt vẻo trên cây cả ba tiếng đồng hồ nên có hơi tức ngực một chút.

Ngay khi cậu Nimrod nhảy xuống khỏi nhánh cây, John tâng tâng nhảy ngược lên lối mòn trong rừng.

– Đừng chạy nhanh như vậy, John. Hãy nhớ là, chúng ta biến hình như thế này chỉ để thám thính đoạn đường trước mặt. Để có thể di chuyển một cách bí mật. Để khai thác những đặc tính tự nhiên của dòng họ Felidae tuyệt vời này. Và chúng ta nên di chuyển theo rìa lối mòn này, không phải ngay giữa đường. Ý cậu là, mất công biến thành báo làm gì nếu chúng ta cứ chình ình mà đi giữa đường như hai tay du khách ngốc nghếch.

Nói xong, cậu Nimrod lẩn vào một bụi cây dày đặc ven đường và lập tức biến khỏi tầm nhìn. Những nốt hoa ban màu nâu sậm trên bộ da vàng hung của cậu là lớp áo ngụy trang hoàn hảo giữa một khu rừng.

John gầm nhẹ trước khi làm theo con báo đốm kia. Để chắc ăn, cậu lại gầm thêm một tiếng nữa. Cậu thích gầm. Trên thực tế, cậu thích tất cả mọi mặt của việc làm một con báo đốm và không thể nào tưởng tượng được tại sao trước đây cậu chưa bao giờ thử làm một con mèo lớn. Và cậu là một con mèo rất, rất lớn. Dài hơn một mét rưỡi và cao khoảng tám tấc nếu tính đến vai, John nặng gần một trăm kí. Cậu Nimrod dài hơn chừng vài tấc, và nặng hơn vài kí.

Trong một giờ tiếp theo, họ dễ dàng di chuyển qua khu rừng. Vóc dáng ngắn gọn và chắc nịch giúp họ trở thành những chuyên gia trong việc leo trèo, bò trườn và bơi lội - vì, cũng như loài hổ, báo đốm là một loài mèo thích bơi và bơi rất giỏi. Nhưng khi họ băng qua một nhánh sông của dòng Amazon, John tia được một con rùa và, thình lình cảm thấy đói bụng, ngoạn lấy nó giữa cặp hàm mạnh mẽ của cậu.

Giọng nói ngoại cảm của cậu Nimrod sốt ruột vang lên:

– Cháu đang làm gì vậy?

– Cháu đói.

– Chúng ta không có thời gian để dừng lại lót dạ đâu.

Liếm liếm môi, cậu Nimrod nói thêm:

– Ngay cả khi đó là một con rùa nhìn ngon miệng như vậy. Ngoài ra, nếu trí nhớ của con báo này không lầm, chúng ta đã dùng món rùa trong bữa trưa.

John vẫn giữ chặt con rùa đang yếu ớt chống cự giữa quai hàm của cậu.

– Cháu không nghĩ chúng ta có thời gian săn một thứ gì đó lớn hơn. Đúng không? Săn nai hay heo vòi sẽ tốn cả tiếng đồng hồ. Và giờ đây khi cháu đã có sẵn món này - chẳng phải tục ngữ vẫn bảo chúng ta không nên thả mồi bắt bóng sao?

Cậu Nimrod đồng ý:

– Cháu nói đúng. Cậu nghĩ có lẽ bản thân cậu cũng có phần đói bụng, và cái con này quả thật nhìn khá ngon. Cậu nghĩ chúng ta có lót dạ một chút cũng không phải là một việc xấu.

– Trừ khi cậu là con rùa.

Kèm với lời nhận xét đó là một tiếng cười độc địa và một thứ gì đó mang bản chất tàn bạo của loài báo đốm trong suy nghĩ của John, vì xét đến cùng, bạn không thể nào là một con báo mà không giống báo một chút. Ngay giây tiếp theo, John cắn mạnh vào con rùa, vì loài báo đốm có cú táp mạnh nhất trong cả họ nhà mèo - mạnh hơn cả loài hổ và sư tử - cặp hàm mạnh mẽ của cậu dễ dàng đâm thủng lớp mai bảo vệ của con rùa và giết nó ngay lập tức.

Cậu Nimrod giữ lấy nửa thân sau của con rùa, và hai con báo đốm xé con vật tội nghiệp đó ra làm đôi trước khi nhanh chóng xơi tái nó. Liếm phần thịt của mình, John thú nhận:

– Cháu từng nuôi một con rùa khi nhỏ. Nhưng cháu chưa bao giờ thích nó lắm. Lúc nào nó cũng cắn cháu.

Cậu Nimrod nhận xét:

– Cậu nghĩ cháu là người vừa có được cú cắn cuối cùng.

Rồi cậu sục mõm vào mớ mai rùa vỡ nát để tìm kiếm những miếng thịt cuối cùng. Về sau cậu sẽ ói ra những gì cậu không tiêu hóa được. Xong xuôi, cậu Nimrod nói:

– Giờ thì, chúng ta đi tiếp được chưa? Khi trời vẫn còn tối và chúng ta vẫn còn có lợi thế nhìn thấy trong bóng tối. Cậu không tài nào nhớ được lần cuối cậu hài lòng với việc có được một thị lực hoàn hảo như thế này là khi nào. Cậu thật sự nên làm cho mình một cặp kính tốt hơn một khi trở lại làm người.

Họ chỉ vừa định di chuyển đi chỗ khác thì một âm thanh có nhịp điệu vang lên trong bầu không khí ẩm thấp của khu rừng.

John thắc mắc:

– Cái gì vậy?

– Nghe như một tiếng trống.

– Cậu có nghĩ đó là những tay săn đầu người mà ông Sicky nhắc đến không?

– Có hai bộ lạc thổ dân ở cánh rừng này, John ạ. Tộc Xuanaci và tộc Prozuanaci. Chỉ có tộc Xuanaci có khuynh hướng hiếu chiến.

John đề nghị:

– Có lẽ chúng ta nên quay lại. Để xem mọi người có ổn không.

Cậu Nimrod bảo:

– Anh Vodyannoy dư sức bảo vệ mọi người.

– Nếu cậu nói vậy thì ta đi tiếp thôi.

Tiếp tục chuyến trinh sát của mình, họ đi dọc theo con đường mòn mà cậu Nimrod đã ghi nhớ trong lần cuối cùng nghiên cứu bản đồ. Sau một giờ đi đường, trong suốt khoảng thời gian đó tiếng trống vẫn tiếp tục vang lên, John ngừng lại và trao đổi một suy nghĩ qua sóng não cho cậu Nimrod:

– Mọi thứ có vẻ an toàn. Cậu nghĩ giờ chúng ta nên quay lại chưa?

Cậu Nimrod bảo:

– Để xem có gì ở đỉnh đồi tiếp theo đã.

Rồi cậu trườn qua bên dưới một thân cây đổ và xuyên qua một bụi cây rậm rạp mà không làm xáo động dù chỉ một cái lá. Một hoặc hai giây sau, cậu bỗng đứng khựng lại giữa đường như thể một thứ gì đó đã làm cậu đóng băng ngay tại chỗ.

John hỏi:

– Gì vậy cậu?

Cậu Nimrod không trả lời. Phải đến gần một phút sau, cậu mới nằm rạp bụng xuống đất và chăm chú nhìn một thứ gì đó ở phía trước họ. John bò đến nằm cạnh cậu và cố căng mắt nhìn xem đó là gì. Trời bắt đầu đổ mưa. Và cậu Nimrod vẫn không lên tiếng.

Lắc nước mưa ra khỏi lỗ tai, John híp mắt lại trước làn mưa bất tận và nhìn chằm chằm vào bóng tối trước mặt. Cậu Nimrod đang nhìn một cái cây nhỏ với thân hình và những nhánh cây vặn vẹo ở cách họ gần mười mét. Dù cố hết sức, John vẫn không thể thấy được bất cứ thứ gì đặc biệt ở trên cái cây đó, tuy nhiên, tin vào kinh nghiệm của cậu Nimrod, cậu tiếp tục chờ đợi, và thật may khi lòng kiên nhẫn dễ đến với loài báo đốm hơn là djinn, vì rốt cuộc lòng kiên nhẫn của cậu cũng được đền bù xứng đáng.

Cái cây đang chuyển động nhưng gần như không thể cảm nhận được. Không phải chuyển động theo một phương hướng cụ thể nào, mà như thể nó đang thở nhẹ. Rồi một thứ gì đó vụt lóe lên ở phần chóp của một trong những nhánh cây, như một con chim hay một con côn trùng nào đó, và thình lình John cảm thấy nổi da gà khi nhận ra đó không phải là một cái cây gì cả. Cậu để suy nghĩ của mình trượt ra khỏi đầu để đến với sinh vật đang nằm kế bên:

– Đó là một con trăn anaconda khổng lồ.

Cậu Nimrod im lặng trả lời lại:

– Chính xác hơn, đó là một con anaconda khổng lồ khổng lồ. Bình thường loài anaconda này khi trưởng thành sẽ dài từ sáu đến chín mét. Nhưng con trăn này có vẻ dài gấp đôi kích thước đó. Hoặc có thể còn bự hơn. Khó có thể nói rõ trong bóng tối như thế này. Nhưng với kích cỡ và vị trí ngay sát đường đi của nó, cậu không nghi ngờ gì chuyện nó được đặt ở đây để phục kích chúng ta.

John thắc mắc:

– Làm sao họ làm được điều này chứ?

Cậu Nimrod thừa nhận:

– Cậu cũng không biết. Nhưng dù họ đã làm điều này như thế nào, chúng ta cũng bắt buộc phải loại bỏ con trăn này.

– Chúng ta sẽ cần đến một khẩu súng rất, rất lớn.

Cậu Nimrod lắc đầu bảo:

– Không có gì đảm bảo ngày mai nó vẫn ở đây. Và, bất chấp kích cỡ khổng lồ của nó, dưới hình dạng loài người chúng ta có thể sẽ không bao giờ nhận ra nó. Cho đến khi đã quá trễ. Không, John, chúng ta phải cùng nhau tấn công nó. Chúng ta phải giết nó ngay bây giờ.

John rụt rè:

– Nhưng nó bự quá. Thân hình nó phải to đến gần cả mét chứ không ít. Cậu có thể cắn nó cả ngày mà chẳng ăn nhằm gì.

– Chúng ta có một hai lợi thế khi là phía tấn công. Thứ nhất, cơn mưa sẽ giúp che giấu chuyển động của chúng ta. Ngoài ra, chúng ta cũng đã xác định được đầu của nó ở đâu. Đó là nơi tốt nhất để chúng ta tập trung tấn công. Cháu sẽ thực hiện cú cắn cổ họng gây nghẹt thở khét tiếng của loài báo đốm. Cậu sẽ tấn công hộp sọ của nó, ở giữa hai tai, đâm thủng bộ não của nó như cháu đã làm với cái mai rùa mấy tiếng trước. Nếu may mắn, con trăn này sẽ không ngờ đến chuyện đó. Đặc biệt là khi nó chỉ lo nhìn con đường mòn trong khi chúng ta tấn công từ trong rừng, ở đằng sau điểm mù của nó. Đó là một lợi thế khác. Nhưng chúng ta cũng phải rất cẩn thận. Nếu con trăn quấn được người chúng ta, chúng ta sẽ bị nghiền nát như một cái sandwich mứt. Nếu điều đó xảy ra, cháu phải lập tức thoát hồn ra khỏi con báo đốm. Rồi nhập vào một sinh vật nào đó và tìm đường quay lại chỗ cậu cất cái chai chứa cơ thể của chúng ta. Cháu rõ cả chưa?

John tuyên bố:

– Rõ rồi ạ.

Họ bắt đầu nhích lại gần con trăn. Mỗi khi cậu Nimrod làm xáo động một cái lá nào đó, cậu lập tức ngừng lại chờ cho đến khi nó ngừng rung chuyển. Nửa tiếng sau, họ chỉ mới đến gần con trăn được thêm ba bốn mét gì đó. Điều đó dường như kích động con báo đốm mà cậu Nimrod đang nhập vào. Những sợi gân căng ra, bắp thịt cứng lại, và những cái móng vuốt to lớn duỗi ra từ những bàn chân mạnh mẽ. John bắt chước theo cậu. Cổ họng con trăn, cậu tự nói với bản thân. Cắn và làm nó nghẹt thở. Cắn và làm nó nghẹt thở.

Khi thời khắc đến, cuộc tấn công diễn ra trong im lặng. Tiếng gầm của báo đốm có thể làm một sinh vật nhỏ hơn sợ hãi và khuất phục, nhưng nó lại chẳng khác gì một tiếng còi cảnh giác cho con trăn khổng lồ, khiến họ đánh mất lợi thế bất ngờ. Cả hai con báo đồng loạt phóng mình qua lớp lá rừng sũng nước, lao về phía cái đầu to bằng một cái xẻng của con trăn như hai mũi tên bắn ra khỏi nỏ.

Cuộc tấn công đã bắt đầu.