← Quay lại trang sách

Chương 14 - El Tunchi.

Trong vài phút, hoàn toàn chắc chắn người biến mất không phải là mình mà là cậu Nimrod, John vòng mấy vòng quanh khu trại trống trải, lớn tiếng gọi cậu và lấy dao phát cỏ chém vào những bụi cây rậm rạp. Cậu không rõ sự biến mất của cậu Nimrod là tự phát hay do một sức mạnh nào đó tác động. Cậu Nimrod không phải dạng người biến mất mà không thông báo. Gần như ngay sau đó, John lại một lần nữa nghe thấy tiếng huýt sáo, và lần này cậu cẩn thận không huýt sáo đáp trả. Cậu hoàn toàn không nhận ra sự cẩn thận đó là quá trễ, và cơn thịnh nộ của el Tunchi đã rơi xuống đầu cậu từ lâu.

Lần này, John cảm thấy dường như cậu có thể lần theo nguồn gốc của tiếng huýt sáo, và cảm giác này ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn khi cậu tiến sâu hơn vào trong rừng. John không hề sợ hãi. Xét đến cùng, cậu vẫn là một djinn, và khi đặt chân đến một khoảng đất trống tràn ngập ánh mặt trời, cậu cảm nhận rõ sức mạnh djinn cuồn cuộn trong người. John thậm chí còn không sợ hãi khi cậu trông thấy tác giả của giai điệu du dương đó có vẻ ngoài đáng sợ như thế nào.

Gã đàn ông có mát tóc đen dài bờm xờm trước mặt John quấn một tấm thảm lông thú dơ hầy quanh cái hông to đùng. Nửa trên khuôn mặt gã sơn đen, trong khi nửa dưới lại sơn trắng. Điều đáng chú ý trên nửa trên khuôn mặt gã là gã chỉ có một mắt. Ở nửa dưới khuôn mặt, điều đáng chú ý nhất là gã đang ngậm đầu một con thằn lằn sống trong miệng, với phần cơ thể còn lại cùng cái đuôi hai màu đen-trắng của nó quấn quanh cổ gã, y như một cái dây chuyền. Có vẻ như gã đàn ông huýt sáo qua cái đầu của con thằn lằn và, như John nhanh chóng phát hiện sau đó, phần lớn thời gian gã cũng nói chuyện bằng cách đó. Trên thực tế, nó gần như thể con thằn lằn đang điều khiển gã đàn ông này. Và điều kỳ lạ nhất có lẽ là bản thân của cái giai điệu vui vẻ, thong dong – hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài của gã đàn ông – vẫn đang tiếp tục được phát ra từ cái miệng của con thằn lằn.

John nhận xét:

– Là một con thằn lằn, ông huýt sáo khá thật đấy.

Ngừng huýt sáo, con thằn lằn nói với giọng huýt gió:

– Dù là bất cứ thứ gì ta cũng huýt sáo tốt.

John khen:

– Và giai điệu đó thật hay.

Gã đàn ông thằn lằn phê phán:

– Mẹ ngươi chưa bao giờ bảo ngươi không bao giờ được huýt sáo trong nhà hát hả? Hay trên một con thuyền? Hay trong một ngôi nhà, phòng trường hợp ngươi mời ác quỷ vào nhà? Và trên hết, không bao giờ được huýt sáo trong rừng mưa?

John trả lời:

– Không, mẹ cháu chưa bao giờ dặn vậy. Nhưng đằng nào mẹ cháu cũng chẳng giống phần lớn những bà mẹ khác. Trên thực tế, bà thậm chí còn không đặc biệt giống mẹ cháu. Ít nhất là từ khi bà bắt đầu nhìn giống một người khác.

Gã đàn ông thằn lằn rít lên:

– Ngươi nói ta chẳng hiểu gì cả, thằng nhóc này.

John bảo:

– Đó là một câu chuyện dài. Có lẽ khi khác vậy.

– Ngươi có vẻ không sợ ta.

John nhún vai:

– Không ạ. Tại sao ông làm cậu Nimrod của cháu biến mất vậy?

– Hắn không biến mất. Người biến mất là ngươi kìa.

– Ờ, vậy thì ông là ai mà lại thích làm người khác biến mất thế? Ông là một hồn ma à?

– Không, không phải một hồn ma. Ta là el Tunchi. Một pháp sư. Tiếng vọng tinh thần của một thầy lang bản địa, người đã trút hơi thở cuối cùng trong rừng mưa sau khi bị những tên lính Tây Ban Nha tra tấn đến chết vào khoảng năm trăm năm trước. Hiển nhiên, mục tiêu của chúng là vàng. Và chúng đã hí hửng huýt sáo khi nghĩ đến việc tất cả bọn chúng sắp giàu đến nơi. Chúng thậm chí còn huýt sáo trong khi tra tấn ta. Trước khi chúng xuất hiện, không ai huýt sáo ở Nam Mỹ. Không ai biết cách. Kể từ lúc đó, ta vẫn luôn ở đây và tra tấn tất cả những kẻ giống như chúng dám huýt sáo trong rừng. Đó là sự trả thù của ta.

– Nhưng cháu không giống họ. Và ở chỗ của cháu, người ta huýt sáo khi hạnh phúc. Và cháu nghĩ ông thật quá quắt khi trả thù người khác chỉ vì họ làm một chuyện bình thường như vậy.

– Ngươi là ai mà dám bảo ta nên và không nên làm gì?

– Tên cháu là John Gaunt. Và cháu đang trên đường tìm kiếm thành phố mất tích Paititi. Để cứu thế giới khỏi sự hủy diệt vĩ đại. Khỏi Pachacuti.

– Ta không quan tâm đến điều đó, John Gaunt. Tất cả những gì ta quan tâm là sự trả thù của ta.

Nhe răng cười một cách độc ác, gã nói tiếp:

– Đầu tiên, ta sẽ đục một lỗ trên đầu ngươi. Rồi ta sẽ hút bộ não của ngươi ra. Rồi sau đó ta sẽ dùng cái sọ rỗng của ngươi làm một nốt trên cây đàn ống của ta.

– Ý ông là, giống như mấy cây đàn trong nhà thờ?

– Đúng thế. Ngoại trừ việc thay vì ống, ta dùng sọ người. Cây đàn ống của ta có sáu mươi mốt nốt và năm quãng tám. Ngươi muốn xem nó không?

John bình tĩnh nhún vai:

– Chắc chắn rồi.

John đi theo el Tunchi đến một túp lều nhỏ trong rừng, tại nơi đây cậu trông thấy một nhạc cụ kỳ lạ nhất mà cậu từng thấy.

El Tunchi tự hào giải thích:

– Năm bàn phím được làm từ vật liệu là xương và sừng ở khu này. Răng báo đốm và sừng linh dương. Phím đàn làm từ xương sống heo vòi. Bàn đạp làm từ xương chày người. Bao ống làm từ áo giáp trên xác lũ lính xâm lược. Chúa nguyền rủa chúng! Và dĩ nhiên như ngươi có thể thấy, bản thân các ống nhạc là sọ người sắp xếp theo thứ tự âm sắc và cao độ được gắn thẳng đứng vào hộp âm. Bản thân cái hộp âm thật sự chỉ là một cái hộp gỗ đặt trên một cái miệng hố lâu đời trên mặt đất có khí nóng thoát lên. Có rất nhiều cái hố như thế ở khu rừng này. Khi gió thổi qua những cái ống, nó sẽ tạo nên một âm thanh thật sự của địa ngục.

El Tunchi ngồi xuống và bắt đầu chơi đàn. Và chẳng mấy chốc, John buộc phải che tai lại. El Tunchi đã nói thật: Đó thật sự là một âm thanh của địa ngục. Giống như một thứ trồi lên từ một cái hố sâu nhất, tối đen nhất.

John bảo:

– Cháu nghĩ ông chơi đàn thật kém.

El Tunchi thừa nhận:

– Ta chưa bao giờ học chơi đàn. Mà ở trong rừng, việc đó cũng chẳng quan trọng. Chẳng có ai lắng nghe. Ngoài ra, ta không chơi đàn vì người khác. Ta chơi đàn vì chính bản thân ta. Nhưng ngay cả khi muốn có thính giả, ta chỉ việc huýt sáo gọi người là xong.

John suy nghĩ một cách cẩn thận. Sức mạnh và trí tưởng tượng của cậu không đủ để nghĩ ra được một cách trả cậu về lại thế giới song song, nơi chỉ vài phút trước cậu còn ở cùng cậu Nimrod. Để làm được điều đó, cậu biết mình cần đến el Tunchi. Nhưng John lại cho rằng cậu có đủ khả năng kích thích vị pháp sư này tham gia vào một cuộc thi tài nào đó mà từ đó cậu có thể kiếm được vài lợi thế cho bản thân.

Cậu nói:

– Nhắc đến chuyện huýt sáo, nếu nghĩ kỹ, ông cũng không thật sự giỏi cho lắm. Cháu cá là cháu có thể đánh bại ông nếu thi huýt sáo.

El Tunchi nhe răng cười và con thằn lằn rớt khỏi miệng gã. Nhét nó vào lại, gã hỏi:

– Ngươi đang thách thức ta đấy à?

John nhe răng cười lại với gã:

– Dĩ nhiên. Nhưng này, nếu chúng ta chuẩn bị thi tài với nhau, tốt hơn nên có một cái gì đó đáng để thi tài mới đúng.

– Ví dụ như?

– Ví dụ như ông sẽ có cái sọ của cháu nếu ông thắng, và nếu ông thua, ông sẽ trả cháu về lại với cậu Nimrod của cháu.

El Tunchi gật gù:

– Được. Cứ thỏa thuận vậy đi.

John hỏi:

– Ai thi trước?

El Tunchi nói:

– Ngươi. Vì ngươi là kẻ thách thức.

John nhún vai:

– Được thôi.

Rồi cậu thầm thì từ trọng tâm của mình, “ABECEDARIAN!” và ước cho cậu trở thành người huýt sáo giỏi nhất thế giới.

Sau khi làm ấm người với vài nhịp “Dixie” và “Yankee Doodle[11]”, những điệu huýt sáo phổ biến nhất ở mọi vùng của nước Mỹ, John hăm hở bắt đầu với một giai điệu có tên “Anh hề”, nối tiếp là điệu “Cô nàng đáng yêu” và đến khi John kết thúc điệu “Ánh trăng”, gã pháp sư huýt sáo của rừng mưa nhìn đã có vẻ lo lắng.

– Ta thật sự chưa bao giờ nghe được những giai điệu tuyệt đẹp được thể hiện một cách tuyệt vời như vậy.

El Tunchi thừa nhận, rồi bắt đầu huýt sáo một phiên bản phức tạp hơn của giai điệu mà John đã nghe thấy trước đó. Nhưng ngay cả gã cũng phải thừa nhận gã không có được sự khéo léo và du dương như những điệu huýt sáo chẳng khác gì nhạc giao hưởng của John.

Giận dữ với chính mình, gã nói:

– Đúng là ngươi có lẽ huýt sáo một giai điệu hay hơn, nhưng ta không tin có người thắng được ta về sức mạnh của tiếng huýt sáo.

John bảo:

– Được thôi. Nhưng lần này đến lượt ông thi trước.

El Tunchi hít sâu một hơi, mím môi lại, và bật ra một tiếng huýt sáo dài nhức óc khiến vài con chim và nhiều loại côn trùng phải lo sợ đi lánh nạn trong bầu không khí tương đối yên tĩnh của những đám mây.

Gật đầu, John thừa nhận:

– Không tệ. Nhưng cháu có thể làm tốt hơn.

Và ước rằng cậu có thể huýt sáo mạnh như bão, như cách ví von thông thường của con người, John đặt ngón tay lên miệng và bắt đầu thổi.

Ban đầu tiếng huýt sáo chỉ đơn thuần là lớn – trên thực tế, nó lớn như tiếng huýt sáo của el Tunchi. Nhưng khi tiếng huýt sáo tiếp tục, luồng gió sản sinh ra bởi chuyển động ồ ạt của không khí phát ra từ miệng John bắt đầu tập trung sức mạnh, cho đến khi cây cối và bụi rậm xung quanh họ cũng bắt đầu chuyển động. Rồi miếng vải trùm đầu của el Tunchi bị thổi bay, làm lộ ra cái đầu trọc lóc của gã. Thứ bị thổi bay tiếp theo là cái thảm lông thú của gã pháp sư, làm gã đứng đó với mỗi một cái khố che thân. Cuối cùng, đến lượt con thằn lằn trong miệng gã bị gió mang đi. John sẽ bật cười nếu không phải việc đó cần cậu ngừng huýt sáo.

Gã pháp sư hét lên với giọng thật của gã, một chất giọng the thé như dê đực không đáng sợ chút nào:

– Xin ngươi.

John nghĩ thầm rằng khi nghe một cái giọng the thé, mỏng manh như vậy, người ta dễ dàng hiểu được tại sao el Tunchi lại sử dụng một con thằn lằn để nói chuyện thay.

– Ta van ngươi, ngừng lại đi.

Gã pháp sư thiếu điều khóc ré lên. Giờ đây, khi đã mất bộ tóc giả kỳ lạ cùng cái thảm quấn hông của mình, nhìn gã nhỏ hơn hẳn. Gã nhét ngón tay vào tai, nhắm chặt hai mắt, và cúi rạp người trên mặt đất như thể e sợ cả cánh rừng sắp bị thổi bay.

– Làm ơn. Đừng huýt sáo nữa. Nó làm ta phát điên mất.

Nhưng John vẫn tiếp tục huýt sáo như cơn gió Bắc, vì cậu quyết định dạy cho el Tunchi một bài học. Chưa bao giờ có một tiếng huýt sáo mạnh mẽ như vậy. Ngay cả ở Nam Cực, mũi Cape Horn, những thảo nguyên nước Nga hay trên biển cả, hết thảy cả những nơi mà các cơn gió vĩ đại thổi tung tất cả những gì đứng trước mặt chúng, cũng không bằng. Và ngoài quần áo của el Tunchi, John còn thổi bay cả cây đàn ống bệnh hoạn của gã: những phím đàn làm từ xương sống heo vòi, bàn đạp làm từ xương chày của con người, những bao ống làm từ áo giáp, và dĩ nhiên cả những cái ống nhạc làm từ sọ người; tất cả đều bị thổi bay qua những ngọn cây hoặc bị nghiền nát thành bụi và không bao giờ xuất hiện lần nữa.

Sau cuộc đụng độ của cậu với những thổ dân Prozuanaci, John có hứng với việc dạy cho ai đó một bài học. Và trong khi cậu thông cảm với những người từng là nạn nhân của những kẻ chinh phục Nam Mỹ, cậu lại không nghĩ đó là lời bào chữa thỏa đáng cho việc đục lỗ vào đầu người khác và dùng cái sọ rỗng của họ để làm ống nhạc cho một cây đàn kinh khủng nào đó. Chỉ đến khi đã hoàn toàn chắc chắn rằng cậu đã thổi bay hết tất cả mọi bộ phận của cây đàn ống, John mới rút ngón tay ra khỏi miệng và ngừng huýt sáo.

Dần dần, cánh rừng yên tĩnh trở lại.

Dù có thể thấy rõ el Tunchi đã bị đánh bại, John vẫn hỏi:

– Ơ, ông đầu hàng chưa vậy?

Người lung lay như sắp đổ, el Tunchi chậm chạp đứng dậy, giật giật lỗ tai – vì hiện tại gã có phần hơi điếc – và nghiêm trang cúi người trước John.

Gã nói:

– Thưa ngài. Kính thưa quý ngài đáng kính. Tôi chưa bao giờ nghe được một thứ như thế trước đây. Suốt năm trăm năm ám khu rừng này cũng chưa. Thật là một tiếng huýt sáo đặc biệt. Không lời nào có thể mô tả hết về nó. Tôi cực kỳ xin lỗi, thưa ngài. Tôi sẽ trả ngài về với cậu của ngài, ngay lập tức.

John nhắc:

– Chờ một chút. Ông phải ngừng ngay cái việc huýt sáo bắt người để lấy sọ của họ, hiểu chưa? Không lịch sự chút nào.

– Vâng, thưa ngài. Như ngài mong muốn. Cây đàn của tôi đã bay mất, nên có lấy sọ người cũng chẳng để làm gì.

– Ông hứa sẽ không bao giờ làm như thế nữa chứ?

– Vâng, thưa ngài. Ngài có được lời hứa trang trọng nhất của tôi về việc đó. Tôi sẽ không bao giờ làm thế nữa.

John cảm thấy hơi mềm lòng trước sinh vật tội nghiệp này. Giờ đây khi cậu đã phá hủy cây đàn khủng khiếp của gã và cấm gã tra tấn người khác, có thể thấy rõ el Tunchi không còn cách tự tiêu khiển nào khác trong quãng đời bất tử còn lại.

John nói:

– Ông biết không, ông vẫn có thể sử dụng một cây đàn ống thật. Một cây đàn ống đàng hoàng như trong nhà thờ ấy.

Và thầm thì từ trọng tâm của mình, John tạo ra một bản sao của cây đàn ống mà cậu từng trông thấy trong một thánh đường.

Há hốc miệng, el Tunchi sững sờ nhìn cây đàn, như thể nó là một con tàu vũ trụ.

Gã pháp sư thều thào:

– Thật tuyệt vời. Quá hấp dẫn. Vầy mới là một nhạc cụ chứ. Ước gì tôi biết cách chơi nó.

John gật đầu:

– Ông nói đúng. Nó chẳng giúp ích gì cho ông nếu ông không biết cách chơi đàn. Điều ước của ông là mệnh lệnh của cháu.

Và một lần nữa sử dụng sức mạnh djinn, cậu ban cho el Tunchi một tài năng mới. Cậu biến gã thành một nhạc công đàn ống vĩ đại.

John mất năm phút tiếp theo để thuyết phục el Tunchi rằng điều ước của gã đã được thực hiện, trước khi gã rốt cuộc chịu ngồi xuống và chơi vài bản nhạc hòa tấu tuyệt vời của Bach và Handel. Và khi chơi đàn xong, gã quỳ xuống trước mặt John và hôn tay cậu. El Tunchi nói:

– Cám ơn ngài, hỡi đức ngài vĩ đại, cám ơn ngài rất nhiều. Ngài đã ban cho tôi điều ước tha thiết nhất của tôi trên thế giới này. Tôi chưa bao giờ thích làm người khác biến mất rồi trộm sọ của họ. Trả thù chỉ là một phần nhỏ trong lý do tôi làm việc đó. Sự bực bội khi không có lấy một cây đàn đàng hoàng để chơi mới là lý do chủ yếu.

– Cháu rất vui khi nghe ông nói như vậy.

Và John thật sự rất vui. Âm thanh của cây đàn ống khổng lồ nghe thật tuyệt vời trong khu rừng này. Trên thực tế, dưới tai John, nó tựa như âm thanh của văn minh. El Tunchi nói:

– Nhưng trước khi trả ngài về với cậu của ngài, tôi có một điều quan trọng cần nói với ngài. Một điều sẽ giúp ngài trong việc tìm kiếm Paititi.

o O o

Cậu Nimrod nói:

– Cháu đây rồi. Cậu đang tự hỏi cháu chạy đi chơi đâu rồi.

John thanh mình:

– Cháu không có chạy đi chơi đâu hết. Cháu đã biến mất. Vì cháu đã trả lời tiếng huýt sáo của el Tunchi.

Rồi John kể cho cậu Nimrod nghe về el Tunchi và cuộc thi huýt sáo. Cậu Nimrod gật gù:

– Thể nào! Cách đây ít lâu, một trận gió dữ dội đã vô duyên vô cớ quét qua khu rừng này. Ra là cháu.

– Chính xác thì cháu đã ở đâu vậy cậu? Khi cháu biến mất ấy?

Cậu Nimrod nhún vai:

– Khó nói lắm. Thế giới tiếp theo. Thế giới trước đây. Thế giới bên cạnh. Không thế giới nào thật sự thích đáng để nói về nơi cháu đã ở. Hay chính xác hơn, nơi cháu không ở. Cháu đã ở đây và ở đó gần như cùng một lúc. Hay nói cách khác, gần như chẳng ở đâu cả.

– Ý cậu là, giống như hai chiều không gian?

– Ừ. Nhưng cũng không hẳn vậy.

– Vậy làm sao cậu có thể cảm thấy trận gió từ tiếng huýt sáo của cháu?

– À, đó là vấn đề với sự huýt sáo. Nếu tiếng huýt sáo kéo dài đủ lâu, nó thật sự có thể di chuyển giữa cái mà cháu gọi là hai chiều không gian. Có rất nhiều trận bão lốc bắt nguồn từ tiếng huýt sáo vu vơ của những hồn ma.

– Cháu hiểu rồi.

Nói là nói vậy, nhưng John vẫn không hiểu lắm. Không thật sự hiểu. Cậu Nimrod bảo:

– Dù sao thì, giờ cháu đã quay lại. Đó mới là điều quan trọng. Chúng ta nên đi thôi. Trong khi cháu biến đi chơi đùa với el Tunchi, con dơi của Zadie đã quay lại với một bức thư nữa từ Virgil McCreeby. Gã nói rằng gã đang bị lạc trong rừng. Gã bảo Zadie nhập vào con dơi để có thể bay đến giúp gã xem thử chính xác gã đang ở đâu.

Vẫn rất lo lắng về em gái của cậu cùng những người khác, John buồn bã gật đầu và hỏi:

– Có nghĩ là chúng ta vẫn còn thời gian đi tìm Philippa và những người khác hả cậu?

Cậu Nimrod lắc đầu:

– Cậu e là không. Nhìn này, John, họ sẽ phải tự lo cho bản thân. Cậu có cần nhắc cho cháu nhớ Faustina đã yêu cầu chúng ta làm gì không? Chúng ta phải che giấu Mắt Rừng. Nếu không làm được điều đó, chúng ta không thể ngăn cản ai đó tìm ra thành phố mất tích Paititi. Sẽ không tốt chút nào nếu đó là nơi McCreeby đang cố tìm đến. Cậu có thể cá với cháu như thế. Chúng ta phải chặn gã lại. Bằng bất cứ giá nào. Cháu hiểu không? Bằng bất cứ giá nào.

John gật đầu. Hiếm khi cậu Nimrod nói năng với vẻ lo lắng thấy rõ như vậy. John nói:

– Nhắc mới nhớ, el Tunchi đã đưa cho cháu cái này. Ông ấy bảo nó có thể giúp chúng ta tìm ra Paititi. Dù cháu hoàn toàn không biết bằng cách nào, hay thậm chí nó là gì.

John đưa cho cậu Nimrod một thứ nhìn giống như một sợi dây chuyền làm từ vài trăm đoạn dây màu – nhiều cái trong số đó có thắt nút.

Cẩn thận kiểm tra món đồ, cậu Nimrod cho biết:

– Đây là khipu. Khác với những nền văn minh thời Đồ Đồng khác, người Inca không có ngôn ngữ viết. Vì vậy, đây là cách họ mã hóa và ghi lại những thông tin quan trọng.

– Ồ? Thế nó có nghĩa gì vậy cậu?

Cậu Nimrod thú nhận:

– Cậu không biết. Cậu không nghĩ có người biết. Ngày nay, khipu cũng là một bí mật chẳng kém gì chữ tượng hình Ai Cập vào trước thời Champollion giải mã được ý nghĩa của chúng. Hãy hy vọng một giải pháp cho vấn đề này tự xuất hiện. Nhưng vì bản thân của hy vọng hiếm khi đủ cho chính nó…

Cậu Nimrod mở ba lô của ông Vodyannoy và rút ra một cuốn sách.

– Đơn giản hóa khipu của người Inca, viết bởi Terence Forelock. Anh Frank đã mang cuốn sách này theo từ thư viện của anh ấy ở New Haven vì nghĩ nó có thể có ích. Nên nhớ rằng không phải chỉ có các hạt lệ mặt trời bị trộm đi. Faustina đã nói còn có vài sợi khipu cùng một cây quyền trượng bằng vàng bị trộm khỏi bảo tàng ở Berlin. Có lẽ cuốn sách này sẽ cho chúng ta biết một ít về điều chúng ta cần biết để hiểu được thông điệp chứa đựng trong những sợi dây này.

John hỏi:

– Vậy giờ chúng ta đi đâu đây?

Cậu Nimrod trả lời:

– Chúng ta phải tiếp tục tiến về phía Mắt Rừng. Dựa theo đường đi mà cậu đã ghi nhớ từ bản đồ của Faustina.