Chương 20 - Tìm Kiếm Ông Gaunt.
Bác sĩ Stanley Kowalski đẩy người ra khỏi bức tường mà ông đang dựa vào và đưa cho Layla Gaunt một cái gương cầm tay cùng một tấm ảnh chụp hơn một năm trước, trước cái tai nạn khủng khiếp đã phá hủy khuôn mặt và cơ thể nguyên bản của bà.
Bà Layla hết đảo mắt qua cái gương lại quay sang nhìn bức hình trong suốt vài phút đồng hồ cho đến khi, lần đầu tiên trong nhiều tháng trở lại đây có thể nhận ra chính mình, bà mỉm cười rạng rỡ. Layla nói:
– Thật không thể tin anh làm được một việc tuyệt vời như vậy. Tôi nhìn y hệt như trước đây. Y hệt theo đúng nghĩa của từ đó ấy. Tôi tuyệt đối không thể chỉ ra khuôn mặt này ban đầu không phải là của tôi. Anh đã làm được một việc thật tuyệt vời. Anh biết không, trong số những bác sĩ thẩm mỹ, anh là một thiên tài thật sự đấy. Một thiên tài.
Rút que diêm mà ông đang nhai nhai trong miệng ra, bác sĩ Kowalski mỉm cười một cách khiêm tốn và nói:
– Cô cứ đùa tôi hoài.
Nhìn cách ăn mặc và cư xử của ông, ít ai nghĩ ông là một bác sĩ giải phẫu. Bên dưới cái áo blue trắng, ông mặc một áo thun xám trơn, quần jean cùng một đôi giày ống của công nhân lao động nặng nhọc.
Bà Gaunt khăng khăng:
– Không, tôi nói thật đó. Nếu không biết rõ, tôi sẽ nghĩ đây là đúng là một phép màu.
Bác sĩ Kowalski bảo:
– Cô biết gì không? Đó là điều mà tất cả bệnh nhân của tôi đều nói. Phải chi họ biết nhỉ?
– Biết anh là một djinn ấy à? Nếu họ biết điều đó, họ có lẽ sẽ trông chờ vào những điều không thể, Stanley ạ. Thay vì phép màu đơn thuần mà anh đã thực hiện cho họ.
Vị bác sĩ lại khiêm tốn nhún vai:
– Nếu là ai khác chứ không phải tôi, một cuộc giải phẫu thẩm mỹ như của cô chẳng khác nào một nhiệm vụ bất khả thi. Nhưng phần lớn những người tìm đến đây đều chỉ muốn trở thành một phiên bản đẹp hơn của chính mình. Không phải một người hoàn toàn khác như cô muốn, Layla ạ.
– Nhìn xem ai đang lên tiếng kìa. Nhìn anh chẳng giống cái anh chàng mà tôi đã quen khi còn đi học.
Bác sĩ Kowalski gãi gãi đầu rồi bỏ que diêm vào lại trong miệng. Ông là một người đàn ông không bình thường ở chỗ ông nhìn y hệt một diễn viên điện ảnh nổi tiếng đã quá cố tên Marlon Brando. Không phải Marlon Brando già xuất hiện trong những bộ phim như Bố Già, mà là Marlon Brando trẻ của những bộ phim như Chiếc xe điện mang tên Khao khát. Nhiều năm trước, người cha djinn của bác sĩ Kowalski, ông Victor, một bác sĩ thẩm mỹ ở Beverly Hills, California thể theo nguyện vọng của con trai đã biến ông Stanley thành phiên bản song sinh của người diễn viên mà rất nhiều người từng nghĩ là người đàn ông đẹp trai nhất thế giới. Bác sĩ Stanley Kowalski thậm chí còn nói năng y hệt Marlon Brando.
Bác sĩ Kowalski lại nhún vai bảo:
– Đúng là tôi đã thay đổi. Để tốt hơn. Và cô biết tại sao không? Vì tôi muốn được thoải mái. Đó luôn là phương châm làm việc của tôi. Thoải mái với chính bản thân mình. Và nếu không thể, cô có thể thay đổi bản thân cho đến khi được thoải mái. Đơn giản vậy thôi.
– Nhờ anh, tôi đã cảm thấy thoải mái hơn hẳn so với nhiều năm qua.
Bà Layla lại lần lượt nhìn hình ảnh của mình trong gương và trong bức hình, rồi hôn nhẹ lên má bác sĩ Kowalski.
Bác sĩ Kowalski nhìn có vẻ xấu hổ.
– Không, phải nói là tôi thật sự biết ơn anh. Bây giờ thì, anh đã quen tôi nhiều năm, đúng không, Stanley? Chúng ta học cùng trường với nhau. Vì thế, hãy nói thật cho tôi biết một điều. Giải phẫu là một chuyện. Tôi đã lại nhìn giống như xưa. Nhưng tôi còn quyến rũ không?
– Tôi chưa từng gặp một quý phu nhân nào không biết mình có quyến rũ hay không nếu không được ai nói đấy. Dĩ nhiên cô rất quyến rũ, Layla. Quyến rũ như mọi khi. Còn hơn cả xinh đẹp.
Bà Layla mỉm cười vui vẻ. Tuy nhiên, một giây sau đó, bà để tay lên ngực và bắt đầu ho sù sụ như bị nghẹt thở khủng khiếp.
Bác sĩ Kowalski lo lắng hỏi:
– Sao thế? Cô ổn chứ?
Ho thêm vài tiếng khó khăn nghe như tiếng hơi nước bị nén ra từ một máy pha cà phê espresso, bà Layla nói:
– Đóng chai tôi đi, nhưng có một thứ gì đó đang leo ngược lên cổ họng tôi.
Đến giờ phút này bà đã đoán được chuyện gì đang xảy ra và lý do tại sao một vật thể – dù nó là gì – đang từ bao tử bà du hành ngược lên khí quản. Trong một giây ngắn ngủi, bà rủa thầm cậu Nimrod vì đã sử dụng hệ thống mail nội bộ djinn mà không thông báo trước cho bà, nhưng rồi thêm một giây nữa trôi qua, bà đặt tay lên miệng và nhổ ra một vật thể lên lòng bàn tay. Bà bảo:
– Là em trai tôi, Nimrod. Mail nội bộ djinn.
Bác sĩ Kowalski thở phào:
– Làm tôi hết hồn. Tôi cứ nghĩ có thể đó là một dạng phản ứng hậu giải phẫu. Đôi lúc nó vẫn xảy ra. Chỉ nghĩ đến việc nhìn giống một người khác có thể khiến một người thấy khó thở.
Layla mở tờ giấy chống thấm dầu mở ra và đọc nhanh thông điệp trên đó.
Bà thông báo:
– Tôi phải lập tức quay về New York. Có lẽ còn phải nhanh hơn thế. Anh Edward chồng tôi đã bị bắt cóc.
– Tệ quá vậy. Cô có biết ai đứng đằng sau việc đó không? Tộc Ifrit? Hay tộc Ghul?
– Nimrod nghĩ đó là mundane.
– Họ thích gặp rắc rối sao? Dám đụng vào một djinn như cô?
Bà Layla dứt khoát nói:
– Ừ, họ thích gặp rắc rối đây mà.
Vì có vẻ như Layla không thể mạo hiểm tạo ra một cơn lốc gió khác - bà vẫn chưa quên cơn lốc gió mà bà đã thả ra ở New York trên nóc bảo tàng Guggenheim - bác sĩ Kowalski lái xe chở bà đến sân bay. Nhưng đó không phải một sân bay bình thường. Ông chở bà đến thẳng cái sân bay trực thuộc FAB Brazil, chi nhánh không quân của quân đội Brazil. Theo tin tức của bác sĩ Kowalski, bà Layla đã quyết định đi nhờ chiếc máy bay nhanh nhất mà bà có thể tìm được ở Brazil: chiếc máy bay phản lực mới Mirage 2000, với tốc độ tối đa lên đến hơn 1.500 dặm/giờ.
Viên phi công, một đại úy tên Alberto Santos, hiển nhiên ít có lựa chọn trong vấn đề này vì bà Layla đã ếm một chú trói buộc djinn lên ông. Vì vậy mà, khi Santos cho máy bay cất cánh, ông cứ nghĩ người đang ngồi trên chiếc ghế ngay sau lưng ông là không ai khác ngoài một vị thiếu tướng quan trọng của lực lượng Không Quân Brazil.
Trước khi cất cánh, bà Layla cám ơn bác sĩ Kowalski vì tất cả mọi sự giúp đỡ của ông và hôn ông lần nữa.
Ông nói:
– Thôi nào, đừng như thế, cô đang làm tôi mắc cỡ đấy. Vả lại cô vẫn còn cần được giúp đỡ đấy.
Rồi ông bắt đầu chỉ ra việc, vì New York cách Rio de Janeiro đến gần năm ngàn dặm và chiếc chiến đấu cơ này có phạm vi hành quân chỉ chừng chín trăm dặm, ông sẽ phải gọi điện thoại giả dạng viên thiếu tướng thật sự – người vốn cũng là một bệnh nhân của bác sĩ Kowalski và đã được ông giải phẫu thẩm mỹ để nhìn anh hùng hơn – để điều một loại phi cơ tiếp nhiên liệu tiếp tế cho họ trên suốt đường bay.
Đó là một chuyến bay thoải mái, ít nhất là cho đến khi Đại úy Santos quyết định chứng minh ông là một phi công thành thạo như thế nào và thực hiện một loại các động tác nhào lộn máy bay trên không đủ sức làm bất cứ ai ngoài một djinn như Layla phải chụp lấy túi nôn. Ngoài sự cố đó, mọi việc vẫn diễn ra suôn sẻ cho đến khi, sau chưa đầy bốn tiếng cất cánh khỏi Rio, chiếc chiến đấu cơ Brazil tiến vào không phận Mỹ gần New York và một đội máy bay tiêm kích F-15 Eagle của lực lượng Không quân Hoa Kỳ bay đến chặn đầu nó.
Vài giây sau họ đã bị công kích. Đại úy Santos triển khai tránh né nhưng đó là một trận chiến không cân sức. Một chiếc Mirage khó có thể làm gì nhiều trước bốn chiếc F-15 và khi tín hiệu cảnh báo trong buồng lái thông báo một đầu tên lửa đã khóa đuôi họ, họ không còn cách nào khác ngoài việc ấn nút ghế bật khẩn cấp của máy bay.
Họ nhảy dù xuống biển nơi một chiến hạm hải quân đang chờ sẵn để bắt giữ họ. Nhưng bà Layla đã quyết định bà không thể bị bắt. Không phải là khi bà đang mang khuôn mặt cũ của mình. Vì vậy mà, ngay khi chạm xuống biển, bà để cơ thể chìm xuống dưới mặt nước, một dụng cụ thở dưới nước cá nhân, một bộ đồ lặn, cùng vài cái vây cá, và ngay dưới mũi cùng ống nhòm của những lính thủy đang tìm kiếm bà, bà bơi thẳng về phía bờ biển Long Island.
Trong khi đó, việc đại úy không quân Brazil tội nghiệp đã bị bắt giữ. Bà Gaunt quyết định sẽ cứu ông, nhưng là sau này, khi cái vấn đề cấp bách khiến bà vội vã rời Nam Mỹ dã được giải quyết.
Bà lên bờ ở Westhampton, một vị trí thuận lợi cho bà. Bãi biển Westhampton cách căn nhà mùa hè của gia đình Gaunt ở Quogue chỉ một đoạn ngắn. Và dưới sự che đậy của màn đêm đang dần buông xuống, bà nhanh chóng bước về nhà. Một khi đến nơi, bà thay đồ, ăn một bữa tối nhẹ và, sử dụng máy tính trong phòng làm việc của chồng bà cùng từ khóa mà cậu Nimrod đã cung cấp qua mail nội bộ djinn, bà lên mạng tìm đoạn video của những kẻ bắt cóc.
Ngay khi xem xong đoạn phim, bà Layla phóng lớn một khung hình và bắt đầu phân tích những chi tiết nhỏ nhất của cái mà bà cho rằng có thể là manh mối dẫn đến nơi đoạn video được quay lại. Cuối cùng bà cũng đã tìm được cái mà bà cần tìm: Ở một góc hình ngay đằng sau lồng giam chồng bà có một khung cửa sổ lớn hình vòm và sau khi phóng đại khung cảnh bên ngoài cửa sổ, bà có được một hình ảnh trêu ngươi của rìa một cây cầu cũ.
Bà trầm ngâm tự hỏi bản thân:
– Đó là chỗ nào nhỉ?
Bà chằm chằm nhìn bức hình trong một thời gian dài, rất dài trước khi nhận ra bà biết cây cầu này. Đó là cầu Brooklyn bắc ngang sông Đông của New York. Và từ góc độ của những cái chân cầu bằng bê tông và vòm trời Manhattan đằng sau, bà rút ra kết luận chồng bà đang bị giam ở mặt Brooklyn của cây cầu, trong một tòa nhà đâu đó ngay bên dưới cây cầu.
Layla lại lên mạng tìm kiếm hình ảnh của Brooklyn cùng cây cầu nổi tiếng của nó, và chỉ vài phút sau tìm được một địa điểm có vẻ phù hợp. Nằm ngay bên dưới cây cầu có một tòa nhà bị bỏ hoang trên bờ sông có tên Kho Hàng Molloy. Căn nhà kho này có những khung cửa sổ lớn hình vòm y như trong bức hình.
Kho Hàng Molloy là nơi chồng bà đang bị những môn đồ của Virgil McCreeby giam giữ.
Cặp mắt bà giận dữ nheo lại khi bà nhìn chằm chằm vào bức ảnh chụp cái nhà kho và tưởng tượng những gì chồng bà có thể đã phải trải qua.
Bà lầm bầm, vẻ mặt của nhân vật phản diện:
– Mình sẽ trả thù những kẻ đáng tởm đó. Có lẽ mình chưa biết sẽ làm gì, nhưng chắc chắn chúng sẽ là sự trả thù khủng bố nhất trên thế giới.
o O o
Trời đã tối hẳn khi bà tự lái xe đến Brooklyn. Cây cầu đang huyên náo với tiếng xe cộ qua lại, và một cơn gió mạnh lạnh lẽo đang thổi qua sông Đông. Với cái ống nhòm cực chuẩn xác, bà quan sát Kho Hàng Molloy, đặc biệt là những khung cửa sổ hình vòm. Đó là một nơi kỳ lạ nhìn có vẻ ma quái, giống như một thứ xuất hiện trong cơn ác mộng của ai đó. Làm từ đá vôi với mái ngói đỏ đổ dốc cùng hai cái tháp đa giác, chỉ có một bảng hiệu cũ kỹ đề tên Kho Hàng Molloy treo trên một cánh cổng hình chữ L cho thấy đây là một nhà kho chứ không phải một tòa lâu đài kiểu Romanesque thu nhỏ. Nhìn từ bên ngoài, tòa nhà này có vẻ bị bỏ hoang. Nhưng để chắc ăn, bà không cho rằng mình đã lầm hoặc tin vào việc Virgil McCreeby không chuẩn bị vài biện pháp phòng bị djinn nào đó. Ngay cả khi là một djinn, bạn cũng phải rất cẩn thận với mọi chuyện có liên quan đến Virgil McCreeby.
Bước đến trước lối vào hoa lệ với hai mái vòm đôi, bà chú ý đến những chữ cái trang trí trên phiến đá phía trên cửa trước. Bà nghĩ thầm rằng chúng giống như loại chữ run từng được các tu sĩ cổ đại sử dụng. Bà biết chúng khá phổ biến ở Anh và Đức, nhưng hiếm khi được trông thấy ở New York. Layla vừa định đặt tay lên nắm cửa thì cái mũi nhạy bén của bà bắt được một mùi vị kỳ lạ trên đó. Một mùi giống như hương hoa nhưng nặng hơn.
Rút tay lại, bà cúi người lại gần và ngửi kỹ cái nắm cửa như một con báo đa nghi đánh hơi mùi cạm bẫy của thợ săn. Và dưới ánh trăng, bà nhìn thấy một lớp mỏng của một thứ gì đó dầy và nhờn trét lên trên nắm cửa. Đó là một loại thuốc bôi nào đó.
Một thứ gì đó lướt nhanh qua ký ức của bà khi bà nhớ ra cái mùi ngập trong khoang mũi bà là gì. Thuốc bôi. Đó là một loại enzim thẩm thấu qua da làm từ nọc độc của loài bọ cạp tử thần rình rập. Nếu để tay lên đó, bà sẽ bị tê liệt trong vài giờ hoặc có thể lâu hơn, tùy thuộc vào độ đậm đặc của loại thuốc bôi này. Nhận ra bà vừa may mắn thoát nạn trong gang tấc, Layla thầm thì từ trọng tâm của mình và chỉ vài giây sau, hai bàn tay bà đã được bảo vệ an toàn trong một đôi găng da dày cộm.
Một lần nữa bà với tay lên nắm cửa và nhẹ nhàng xoay nó. Cánh cửa không bị khóa. Nhưng bà vẫn chưa mở nó ra. Layla biết với một pháp sư mạnh mẽ như McCreeby, ngay cả một tiếng kẹt cửa hay tiếng sàn nhà cót két cũng có thể bị tận dụng cho một mục đích hiểm ác. Có vài tiếng kẹt cửa không chỉ làm dựng đứng tóc gáy của một người mà còn cả phần cổ và cái đầu gắn liền với tóc gáy cho đến khi người đó bị treo cổ giữa không khí. Và tiếng sàn nhà cọt kẹt có thể biến thành một loại bẫy gấu vô hình với những cái răng sắc nhọn có thể cắn nát cẳng chân một người. Thậm chí còn có những tiếng gió thổi qua khung cửa sổ vỡ nát có thể là tiếng sói hú từ xa đánh động một con sói xám thật sự đang rình rập bạn trong bóng tối.
Bà Layla không sợ những cái bẫy thắt cổ, bẫy gấu hay thậm chí là những con sói, nhưng bà đặc biệt e ngại những điều không tưởng. Ngay cả như vậy, bà vẫn gạt đi lớp mạng nhện giăng trên cửa để tra dầu vào bản lề, trong đầu chỉ nghĩ đó là nhà của vài con nhện thông thường. Đó là suy nghĩ ban đầu của bà. May mắn là, đó không phải suy nghĩ thứ hai của bà, vì sau đó bà đã nhớ đến việc Virgil McCreeby là một tay sưu tập nhện khá nhiệt tình và đã tự làm bản thân gã gần như miễn nhiễm với những loài nhện độc nhất. Nhiều khả năng đó là vì gã biết rõ trong khi nọc rắn hoàn toàn vô hại với djinn, nọc độc của nhện và bò cạp lại đặc biệt nguy hiểm. Bà vội vàng đóng cửa lại lần nữa. Vừa kịp lúc, vì bà đã thoáng thấy một thứ gì đó to lớn và đầy lông di chuyển trong căn phòng đằng sau cánh cửa. Quá lớn để là một con nhện, bà nghĩ thầm. Nhưng bà có thể chắc chắn sự di chuyển đó được kích hoạt bởi cái mạng nhện.
Layla quay lại xe để cất cơ thể bà vào đâu đó an toàn, nghĩ rằng bà nên biến thành vô hình trước khi bước vào căn nhà kho. Nghĩ rằng có lẽ sẽ đi lâu, bà ngồi vào băng ghế sau nên có chỗ duỗi chân rộng rãi hơn, và khóa cửa từ bên trong. Rồi Layla thầm thì từ trọng tâm của mình và, trong một giây, bà có cảm giác như mình cao lên, cao lên rất nhiều, ngoại trừ việc khi ngó xuống, bà thấy mình đang nhìn vào phần nắp xe.
Layla bay ngược về phía căn nhà kho và đi xuyên qua cửa trước. Ngay lập tức, bà cảm thấy may mắn vì đã cẩn thận, vì ngay đằng sau cánh cửa trước, bà trông thấy thứ mà ban đầu bà nghĩ là một con nhện rất lớn. Một cặp mắt vô hình mất nhiều thời gian để điều chỉnh với bóng tối hơn là mắt thường, và ít nhất phải mất một vài phút, bà mới nhận ra thứ mà bà đang nhìn thấy không phải một con nhện, mà là một bức tranh khảm cổ kỳ lạ có hình một gã đàn ông nằm sấp, mặc dù gã có phần giống một con nhện ở chỗ gã được mô tả đang bò hai tay hai chân trên một bức tường.
Trong trạng thái vô hình, bà bước đến gần bức tranh khảm để nhìn kỹ hơn. Mặc đồ đen từ trên xuống dưới với một cái đồng hồ cát màu trắng trên lưng, gã đàn ông kỳ lạ có hai cẳng tay dài và gầy kinh khủng, cùng hai bàn tay, bàn chân bé xíu, và một cái đầu cúi thấp đến mức bà chỉ có thể nhìn thấy một cái trán dô như mái vòm và vài cọng tóc lẻ tẻ. Thay vì người nhện, phải nói gã là một sự lai hợp giữa người và nhện mới đúng. Layla nghĩ đó là bức hình kinh tởm nhất mà bà từng thấy – so với cả bên ngoài Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại – và một căn nhà kho bỏ hoang có lẽ là nơi tốt nhất cho nó. Nhưng có vẻ nó không phải một thứ có khả năng gây hại cho bà.
Bước lùi lại khỏi bức hình, bà đưa mắt nhìn quanh phần sảnh vào hoang vắng và lạnh lẽo. Ở hai bên sảnh có hai cái cầu thang cũ ọp ẹp dẫn lên bóng tối sâu thẳm hơn ở trên lầu. Vài cái ghế gỗ uốn xếp chồng lên nhau dựa vào một bức tường trống trải, ẩm thấp, và trong một lò sưởi trống trơn, một con chó to đùng đang nằm ngủ. Vốn nổi tiếng với giác quan thứ sáu, loài chó dù không thấy nhưng thỉnh thoảng vẫn có thể cảm nhận được thế giới vô hình nếu bị làm phiền, vì vậy Layla đã chọn cái cầu thang nằm xa con chó. Tuy nhiên, cái cầu thang đó chỉ dẫn đến một bức tường gạch.
Một lần nữa quay lại sảnh vào, bà dừng lại cạnh con chó và, nghĩ rằng bà có thể lợi dụng cơ thể nó một lát, bà trượt vào bên dưới bộ lông dơ hầy và chỉ đi được vài bước cứng ngắc trước khi nhận ra con chó đã chết. Và lý do duy nhất nó nhìn như còn sống là vì nó đã được xử lý bởi một chuyên gia nhồi xác động vật. Không nghi ngờ gì việc nó từng là con thú cưng yêu thích của ai đó.
Để cái xác nhồi bông của con chó lại bên lò sưởi, bà bắt đầu bước lên cây cầu thang thứ hai, và chỉ mới đi được vài bước khi nghe thấy một thứ gì đó sau lưng bà. Quay người lại, bà nhìn thấy mấy chục dấu chân in trên lớp bụi dày che phủ cái sàn nhà trống trơn. Trong một giây, Layla nghĩ đó là dấu chân của bà. Rồi đưa mắt về phía sau cánh cửa, bà nhìn thấy gã đàn ông kỳ lạ bò trên hai tay hai chân trong bức chạm trổ rợn da gà đã không còn ở đó. Gã đã biến mất. Nhưng đi đâu? Và những dấu chân này có thể là của gã không? Bà lo lắng nhìn quanh.
Câu trả lời của Layla không đến chậm. Một luồng khí lạnh trượt xuống ống khói và ùa ra từ lò sưởi, làm cái sảnh vào trở nên lạnh ngắt như một cái kho lạnh chứa thịt. Sự thay đổi nhiệt độ đột ngột này khiến cơ thể vô hình của bà hiện rõ hơn trước, và vì thế, dễ bị tấn công hơn. Đó là khoảnh khắc mà gã nhện-người kỳ lạ từ bức tranh khảm chờ đợi. Từ trên trần nhà, sinh vật kinh khủng đó rớt thẳng vào giữa cơ thể ngoại chất của Layla và cái miệng đáng sợ của nó – nó không có mũi, mà chỉ có một đống mô rắn chắc quanh cái lỗ miệng được sử dụng như một ống hút mà nó bắt đầu dùng để hút linh hồn của bà – phát ra một âm thanh ướt át ghê tởm như tiếng một cái máy hút bụi sũng nước.
Thình lình Layla nhận ra McCreeby đã canh giữ nơi này trước một djinn như bà một cách hoàn hảo như thế nào: Sinh vật từ trong tranh đó là exorbere, một con nguyên tố đặc biệt từng được các tu sĩ cổ đại sử dụng trong những lễ trừ tà để hút linh hồn và những vật thể vô hình khác vào ruột của nó. Một điều kinh khủng tương tự đã xảy ra cho ông Rakshasas tội nghiệp, người vẫn mất tích từ sau khi bị một chiến binh đất nung hấp thụ ở Đền Dendur trong Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan tại New York.
Bà cảm thấy vài phần nhỏ của chính mình tách ra khỏi cơ thể vô hình của bà và biến mất vào trong exorbere. Rồi thêm vài phần khác. Bà đang từ từ bị hút vào quên lãng.