Chương 08
Cũng bất ngờ như con ấu trùng kiến sư tử bị một đứa trẻ nghịch ác giật ra khỏi lỗ rồi để mặc cho quằn quại ngoài nắng, Jean Louise bị giật phăng khỏi cái cõi yên tĩnh của cô và bỏ lại một mình để bảo vệ lớp biểu bì nhạy cảm bằng hết sức mình, vào một chiều Chủ nhật ẩm sì lúc đúng hai giờ hăm tám phút. Tình huống dẫn đến biến cố này là như sau:
Sau bữa ăn trôi qua trong lúc Jean Louise tiêu khiển cho cả nhà bằng những nhận xét của bác sĩ Finch về việc hát thánh ca đầy kiểu cách, Atticus ngồi trong góc phòng khách đọc mấy tờ báo Chủ nhật, còn Jean Louise trông ngóng tới cả một buổi chiều vui nhộn với ông chú, đi kèm với bánh quy để dùng trà và thứ cà phê đậm nhất Maycomb.
Chuông cửa reo. Cô nghe Atticus gọi, “Mời vào!” và tiếng Henry đáp lời ông, “Xong chưa, bác Finch?”
Cô buông cái khăn lau chén đĩa xuống, trước khi cô kịp rời nhà bếp Henry đã ló đầu qua khung cửa và kêu, “Hê.”
Alexandra lập tức dồn anh vào tường. “Henry Clinton, cậu phải thấy xấu hổ chứ.”
Henry, vốn có sức mê hoặc không phải tầm thường, dồn hết khả năng ấy vào Alexandra, tuy bác không lộ dấu hiệu mủi lòng nào. “Nào, bác Alexandra,” anh nói. “Dù có cố bác cũng đâu bực bội tụi cháu mãi được.”
Alexandra nói, “Lần này bác cứu hai đứa khỏi vụ đó nhưng lần tới chưa chắc bác có mặt đâu.”
“Bác Alexandra, tụi cháu trân trọng việc đó hơn mọi thứ trên đời.” Anh quay sang Jean Louise. “Bảy rưỡi tối nay và không tới Landing đâu. Mình sẽ tới màn trình diễn.”
“Được rồi. Mấy người đi đâu đấy?”
“Tòa án. Có buổi họp.”
“Vào Chủ nhật sao?”
“Ừ.”
“Đúng rồi, em cứ quên ở những vùng này sinh hoạt chính trị được tiến hành vào Chủ nhật.”
Atticus gọi Henry ra. “Tạm biệt, cưng,” anh nói.
Jean Louise theo anh ra phòng khách. Khi cánh cửa trước đóng lại sau lưng bố cô và Henry, cô đến chỗ ghế ngồi của bố để xếp gọn mấy tờ báo bố cô bỏ dưới nền nhà cạnh ghế. Cô cầm chúng lên, sắp xếp theo thứ tự trang mục, và đặt chúng trên trường kỷ thành một chồng gọn gàng. Cô sang góc phòng bên kia để xếp ngay ngắn chồng sách trên cái bàn để đèn, và khi đang làm thế mắt cô chạm vào một tập sách mỏng bằng cỡ cái phong bì dùng cho thư từ giao dịch.
Ngoài bìa tập sách là một bức vẽ một người da đen đang ăn thịt người; phía trên bức vẽ có dòng chữ Đại Đen. Tác giả là ai đó với nhiều bằng cấp hàn lâm theo sau tên họ. Cô mở tập sách ra, ngồi xuống cái ghế của bố cô và bắt đầu đọc. Khi đọc xong, cô nhón một góc tập sách cầm như đang cầm đuôi một con chuột chết, và đi bếp. Cô giơ tập sách ra trước mặt bà bác.
“Thứ này là gì vậy?” cô hỏi.
Bà Alexandra nhìn nó qua phía trên cặp kính. “Cái gì của bố cháu đấy.”
Jean Louise đạp xuống cần gạt để mở nắp thùng rác và vất tập sách vào đó.
“Đừng làm thế,” Alexandra nói. “Hồi này khó kiếm được thứ đó lắm.”
Jean Louise mở miệng ra, ngậm lại, rồi lại mở ra. “Bác à, bác có đọc thứ đó không? Bác biết nó viết gì không?”
“Biết chứ.”
Nếu bà Alexandra có thốt một lời tục tĩu vào mặt cô, chắc Jean Louise còn ít ngạc nhiên hơn.
“Bác, bác ơi, bác có biết rằng mấy thứ viết trong đó khiến cho tiến sĩ Goebbels cũng chẳng khác gì một chú bé nhà quê khờ khạo không?”
“Bác chẳng hiểu cháu đang nói gì, Jean Louise. Sách đó viết rất nhiều sự thật.”
“Phải đúng vậy,” Jean Louise nói khô khan. “Cháu đặc biệt thích cái phần nói rằng dân da đen, khổ thân cho họ, đành phải ở thế thấp kém hơn dân da trắng thôi bởi vì sọ của họ dày hơn và khoang đựng não nông hơn - chả biết ý nó muốn nói gì - nên tất cả chúng ta phải tử tế với họ, không để họ làm gì tự gây hại cho mình và giữ họ ở đúng chỗ của mình. Chúa lòng lành, bác à…”
Alexandra đứng thẳng người. “Sao?” bà nói.
Jean Louise nói, “Chẳng qua là cháu chưa từng biết bác lại quan tâm đến thứ tài liệu bẩn thỉu tục tĩu, bác ạ.”
Bà bác của cô im lặng, và Jean Louise tiếp tục, “Cháu thật sự ấn tượng với cái dụ ngôn rằng từ bình minh của lịch sử những người cai trị thế giới luôn là người da trắng, ngoại trừ Thành Cát Tư Hãn hay ai đó - tác giả thật công bình ở điểm đó - và ông ta đưa ra luận điểm trúng đích – rằng ngay cả các vua Ai Cập cổ đại cũng là người da trắng và thần dân của họ hoặc là dân da đen hoặc Do Thái…”
“Điều đó đúng mà, phải không?”
“Phải rồi, nhưng điều đó có dính dáng gì tới vụ này?”
Khi Jean Louise cảm thấy e ngại, mong đợi, hoặc căng thẳng, nhất là khi đối đầu với bà bác này, đầu óc cô sẽ chạy theo tiết tấu mấy hài kịch vớ vẩn của Gilbert và Sullivan. Ba hình ảnh hoạt náo quay tít điên cuồng trong đầu cô - những giờ khắc đầy hình ảnh chú Jack và Dill nhảy múa theo những nhịp điệu vô lý đã dập tắt sự ló dạng của ngày mai với những rắc rối của ngày mai.
Alexandra đang nói với cô, “Bác bảo cháu rồi. Đó là thứ bố cháu đi họp hội đồng công dân rồi mang về.”
“Họp cái gì?”
“Họp Hội đồng Công dân Maycomb. Cháu không biết có hội đồng đó à?”
“Không hề.”
“Ồ, bố cháu nằm trong ban điều hành còn Henry là một trong những thành viên kiên định nhất.” Alexandra thở dài. “Không phải là mình cần một hội đồng như vậy. Chưa có chuyện gì xảy ra ở Maycomb hết, nhưng chuẩn bị sẵn bao giờ cũng là khôn ngoan. Bây giờ họ đang ở đó đấy.”
“Hội đồng công dân à? Ở Maycomb sao?” Jean Louise nghe tiếng mình lặp lại một cách ngốc nghếch. “Atticus?”
Alexandra nói, “Jean Louise, bác nghĩ cháu chưa nhận ra hết những gì đang diễn ra dưới miền Nam này…”
Vận hết tốc độ, Jean Louise xoay gót chân quay người, bước tới cửa trước, ra ngoài, băng qua khoảng sân trước rộng rãi, đi dọc con đường dẫn vào thị trấn, tiếng gọi “cháu không được vào thị trấn Như Thế” của bà Alexandra vang vang sau lưng cô. Cô đã quên mất rằng còn có một chiếc xe vẫn chạy tốt trong nhà xe, rằng chìa khóa xe vẫn bỏ trên bàn ở tiền sảnh. Cô đi thật nhanh, giữ nhịp với đoạn nhạc ngớ ngẩn đang chạy qua đầu cô.
Đây là cảnh quá kẹt!
Nếu em lấy anh,
Khi tuổi trời của anh tới lúc cạn hết
Thì trinh nữ mà anh yêu thương
cũng phải bị giết luôn!
Đây là cảnh quá kẹt! [44]
Hank với bố Atticus đang làm gì vậy? Chuyện gì đang xảy ra? Cô không biết, nhưng cô sẽ tìm biết được trước khi mặt trời lặn.
Vụ này có liên quan đến tập sách mỏng cô thấy trong nhà - ngồi đó trước Chúa và mọi người - có liên quan đến các hội đồng công dân. Cô đã biết về những hội đồng đó, đúng thế. Báo chí New York đầy những bài viết về thứ này. Cô ước chi mình đã quan tâm hơn tới những bài đó, nhưng chỉ cần liếc dọc cột báo in là cô đủ biết một câu chuyện quen thuộc: vẫn những con người vốn tạo thành Vương quốc Vô hình [45] , những người ghét dân Công giáo; ngu xuẩn, đầy sợ hãi, đỏ mặt tía tai, thô lỗ, tôn trọng luật pháp, gốc Anh hăng máu trăm phần trăm, những người Mỹ đồng bào của cô - thứ rác rưởi.
Atticus với Hank đang giật dây điều gì đó, họ chỉ để theo dõi mọi chuyện - bác Alexandra nói Atticus nằm trong ban điều hành. Bác đã nhầm. Đó đơn giản là một sai lầm; đôi khi bác Alexandra cũng lẫn lộn các dữ kiện…
Cô đi chậm lại khi vào đến thị trấn. Quanh đấy văng hoe; chỉ có hai chiếc xe đậu trước cửa hàng thuốc và tạp phẩm. Tòa án nổi bật trắng toát trong ánh chiều. Xa xa một chú chó mực chạy nhảy dọc con đường, những cây thông gai vươn cành tua tủa khắp các góc quảng trường.
Khi đến lối vào ở mé Bắc cô thấy những chiếc xe không người đậu thành hàng đôi dọc chiều dài tòa nhà.
Khi bước lên những bậc thềm tòa án cô nhớ tới những ông già từng thơ thẩn ở đó, cô nhớ cái trụ cứng cáp nước lạnh đặt phía trong cánh cửa, nhớ những cái ghế có mặt bằng mây đan trong hành lang; cô không nhớ cái mùi nước tiểu thoang thoảng ẩm ướt của những căn phòng chật hẹp thiếu ánh nắng của hạt. Cô đi qua những văn phòng của nhân viên thu thuế, nhân viên thẩm định thuế, thư ký hành chánh hạt, hộ tịch viên, thẩm phán chứng thực di chúc, leo lên đường cầu thang cũ không sơn phết lên tầng pháp đình, theo một lối cầu thang nhỏ có mái che tới bao lơn dành cho người da màu, bước ra đó, và ngồi vào chỗ ngày xưa trong góc dãy ghế đầu, nơi cô và anh trai đã ngồi khi hai đứa tới tòa án xem bố cô làm việc.
Bên dưới cô, trên những băng ghế thô, có mặt không chỉ phần lớn thứ rác rưởi ở hạt Maycomb, mà cả những người đáng kính nhất của hạt.
Cô nhìn đến cuối phòng đàng kia, và sau hàng lan can ngăn cách khu làm việc của tòa với khu cho người dự khán, ngồi bên một cái bàn dài là bố cô, Henry Clinton, nhiều người cô đã quá rành mặt, và một người cô không biết.
Ở cuối bàn, ngồi như một con sên lãi xám xịt phù bệu to tướng là William Willoughby, biểu tượng chính trị của mọi thứ mà bố cô và những người giống ông hằng khinh miệt. Ông ta là kẻ cuối cùng thuộc lớp người của ông ta, cô thầm nghĩ. Atticus hiếm khi thèm để mắt tới ông ta, thế mà ông lại ở đó tại cùng một…
Quả thực William Willoughby là kẻ cuối cùng thuộc lớp người của ông ta, ít nhất trong một thời gian nữa. Ông ta đang chảy máu tới chết giữa sự dư dả, vì máu dưỡng sinh cho ông ta là cái nghèo. Mỗi hạt ở miền Nam đều có một Willoughby, mỗi kẻ đều giống những kẻ khác đến độ họ tạo thành một loại người được gọi là Ông, Kẻ Vĩ Đại, Kẻ Bé Nhỏ, tùy theo những khác biệt lãnh thổ lặt vặt. Ông ta, hoặc bất cứ tên gọi gì mà các thần dân dành cho ông ta, chiếm địa vị hành chánh hàng đầu trong hạt - ông ta thường là cảnh sát trưởng hoặc thẩm phán hoặc luật sư chứng thực di chúc - nhưng luôn có những dị biệt, như Willoughby của Maycomb, người đã quyết định không ban vinh dự cho chức vụ công quyền nào cả. Willoughby là thứ hiếm - sở thích muốn đứng khuất trong hậu trường hàm nghĩa sự thiếu vắng thói tự phụ cá nhân to lớn, một tố chất cốt yếu cho những kẻ chuyên chế rẻ tiền.
Willoughby quyết định điều hành hạt này không phải trong văn phòng tiện nghi nhất của hạt, mà trong một nơi nên được diễn tả đúng nhất là một cái chuồng - một căn phòng nhỏ, tối tăm, hôi hám có tên ông ta trên cửa, bên trong chẳng có gì ngoài một điện thoại, một bàn ăn, và mấy cái ghế gỗ có tay dựa chẳng cần son cũng đã lên nước bóng. Willoughby đi đến đâu, tự nhiên đi theo là một đám những nhân vật thụ động, phần lớn là tiêu cực được gọi là ‘Đám viên chức hành chánh,’ những mẫu người mà Willoughby đã đặt vào nhiều chức vụ khác nhau của hạt và thị trấn để làm việc theo lệnh.
Ngồi tại bàn bên cạnh Willoughby là một trong đám đó, Tom-Carl Joyner, cánh tay phải của ông ta với nỗi tự hào chính đáng: chẳng phải hắn đã thân cận với Willoughby ngay từ đầu sao? Không phải hắn làm chân chạy mọi việc cho Willoughby sao? Bộ không phải, trong những ngày xa xưa của thời Đại suy thoái, hắn là người gõ cửa nhà tá điền lúc nửa đêm, bộ không phải hắn đã lải nhải nhồi vào đầu mọi kẻ khốn cùng đói khát ngu dốt phải nhận trợ giúp xã hội, hoặc dưới dạng công việc hoặc tiền cứu trợ, rằng lá phiếu của họ là dành cho Willoughby? Không bỏ phiếu thì không đồ ăn. Giống như những vệ tinh nhỏ bé hơn của ông ta, qua bao năm Tom-Carl đã khoác cho mình một vẻ đáng kính kém phù hợp và không quan tâm chuyện bị nhắc nhớ tới những bước khởi đầu xấu xa của hắn. Chủ nhật đó Tom-Carl ngồi yên tâm với ý thức rằng cái đế chế nhỏ bé mà hắn đã mất ngủ rất nhiều để xây dựng rồi sẽ là của hắn một khi Willoughby hết hứng thú hoặc qua đời. Không có gì trên khuôn mặt Tom-Carl cho thấy rằng hắn có thể sẽ gặp một ngạc nhiên sửng sốt: sự độc lập đã có, do sung túc mang lại, ngay từ bây giờ đã ăn mòn vương quốc của hắn cho đến khi nó dần sụp đổ; hai kỳ bầu cử nữa nó sẽ tan vỡ chỉ còn là đề tài luận văn cho các sinh viên chuyên ngành xã hội học. Jean Louise ngắm khuôn mặt loắt choắt ra chiều quan trọng của hắn và suýt bật cười khi cô nghĩ ra rằng miền Nam quả là nhẫn tâm khi tưởng thưởng cho những công chức của nó quyền được tuyệt chủng
Cô nhìn xuống những hàng những dãy đầu người quen thuộc - tóc bạc, tóc nâu, tóc được chải cẩn thận để che chỗ không tóc - và cô nhớ lại, hồi xưa khi pháp đình chán ngắt, cô thường lặng lẽ nhắm bắn những viên đạn giấy xuống những cái đầu bóng loáng bên dưới. Có ngày quan tòa Taylor bắt gặp cô làm thế và đe sẽ viết lệnh tống giam cô.
Đồng hồ của tòa nhà kêu cọt kẹt, căng ra, rồi phát ra tiếng “phù!” và điểm giờ. Hai tiếng. Khi âm thanh run run tan đi cô thấy bố mình đứng dậy và nói với đám đông bằng giọng khô khốc dùng trong phòng xử.
“Thưa quý ông, diễn giả của chúng ta hôm nay là ông Grady O’Hanlon. Chắc ta không cần giới thiệu nữa. Đây, ông O’Hanlon.”
Ông O’Hanlon đứng dậy và nói, “Giống như con bò nói với người vắt sữa vào một sáng lạnh lẽo, ‘Xin cám ơn ông vì bàn tay ấm áp.’”
Cả đời cô chưa từng nhìn thấy hay nghe ông O’Hanlon nói chuyện. Tuy nhiên, qua ý tưởng mở đề của mình, ông O’Hanlon cho cô thấy rõ ông ta là mẫu người thế nào - ông ta là một người bình thường, kính sợ Chúa như mọi người bình thường khác, đã bỏ công ăn việc làm để dành toàn thời gian cho việc duy trì chế độ phân cách màu da. Vậy đấy, có nhiều người có sở thích kỳ lạ, cô nghĩ.
Ông O’Hanlon có mái tóc nâu nhạt, mắt xanh, một khuôn mặt bướng bỉnh, một cái cà vạt khó coi, và không áo khoác. Ông ta cởi nút cổ áo, gỡ cà vạt, chớp chớp mắt, đưa tay lùa qua mái tóc, và đi vào vấn đề:
“Ông O’Hanlon sinh ra và lớn lên ở miền Nam, đi học ở đó, cưới một cô miền Nam, sống cả đời ở đó, và mối quan tâm chính hôm nay của ông là giữ gìn ‘Lối sống miền Nam’ và sẽ không có tên ‘mọi’ hay Tòa án Tối cao nào dạy bảo được ông hay bất cứ ai khác cần làm gì… một chủng tộc đần độn như là… hạ đẳng về bản chất… những cái tóc tai xoăn tít… còn ở trên cây… hôi hám nhớp nhúa… lấy con gái các ông… làm lai tạp giống nòi… lai tạp… hãy cứu lấy miền Nam… Ngày Thứ Hai Đen [46] … thấp hèn hơn gián… Chúa tạo ra các chủng tộc… không ai biết tại sao nhưng Ngài dự trù cho họ sống tách biệt nhau… nếu Ngài không định như vậy thì Ngài đã tạo ra tất cả chúng ta với cùng một màu da… trả về châu Phi…”
Cô nghe thấy tiếng nói của bố cô, một tiếng nói nhỏ xíu phát biểu trong ngày xa xưa thoải mái ấm áp.
“Thưa quý vị, nếu có một khẩu hiệu trên đời này mà đó quyền bình đẳng cho mọi người, không có đặc quyền cho bất cứ ai. Những tay chim mồi hô hào cho dân mọi… như lũ dã nhân… những cái mồm như cái ống lon… xuyên tạc Phúc âm… tòa án thích lắng nghe bọn cộng sản… lôi tất cả chúng nó ra bắn bỏ vì tội phản quốc…”
Giữa bài diễn thuyết rì rầm của ông O’Hanlon, một ký ức đang hiện lên để kháng cự ông ta: phòng xử đổi dạng một cách lặng lẽ, cô nhìn xuống vẫn những cái đầu ấy trong phòng. Khi cô nhìn sang đầu kia phòng một bồi thẩm đoàn ngồi trong ngăn của họ, quan tòa Taylor ở trên ghế chủ tọa, con cá hoa tiêu của ông ta ngồi ở chỗ thấp hơn ngay phía trước đang ghi chép đều đặn [47] , bố cô đang đứng: ông đã đứng dậy từ một cái bàn mà ở đó cô thấy được phần phía sau một cái đầu tóc tai xoăn tít…
Atticus Finch hiếm khi nhận một vụ hình sự; ông không ưa gì luật hình sự. Lý do duy nhất khiến ông nhận vụ này là vì ông biết thân chủ của mình không phạm tội như cáo trạng, và ông có chết cũng không thể để cậu trai da đen ấy đi tù vì một bài bào chữa miễn cưỡng, do tòa chỉ định. Cậu trai đến với ông qua Calpurnia, kể với ông câu chuyện của cậu, và đã kể sự thật. Sự thật thì xấu xí.
Atticus đích thân xử lý sự nghiệp của mình, tận dụng một bản cáo trạng cẩu thả, bảo vệ quan điểm trước bồi thẩm đoàn, và đạt được một điều mà trước cũng như sau đó chưa từng có ai làm được ở hạt Maycomb: ông giành được phán quyết tha bổng cho một cậu trai da màu bị cáo buộc hiếp dâm. Nhân chứng chủ yếu của bên công tố là một cô da trắng.
Atticus có hai lợi thế lớn: tuy cô bé da trắng mới mười bốn tuổi, nhưng bị cáo không bị buộc tội giao cấu với trẻ vị thành niên, nên Atticus có thể và đã chứng minh có sự đồng thuận. Điều này dễ chứng minh hơn so với điều kiện bình thường - bị cáo chỉ có một tay. Cánh tay kia đã bị đứt lìa trong một tai nạn ở xưởng cưa.
Atticus theo đuổi vụ này tới kết thúc với từng ly khả năng của ông và với sự ghê tởm bản năng chua chát đến độ chỉ cái ý thức rằng ông sẽ được sống bình yên với chính mình mới đủ sức xóa sạch nó đi. Sau phán quyết, ông bước ra khỏi pháp đình ngay giữa ban ngày, đi bộ về nhà và làm một bữa tắm hơi. Ông chẳng bao giờ tính vụ này làm ông phải trả cái giá nào; ông không bao giờ nhìn lại. Ông không bao giờ biết rằng có hai cặp mắt giống như mắt ông ở trên bao lơn đang dõi theo ông.
“… không phải là vấn đề bọn mọi bẩn thỉu có tới trường cùng với con cái của các ông hoặc ngồi ở phía đầu xe buýt hay không… đó là chuyện liệu nền văn minh Thiên Chúa giáo có tiếp tục tồn tại hay không hoặc liệu chúng ta có trở thành nô lệ của cộng sản hay không… những luật sư mọi đen… chà đạp lên Hiến pháp… những người bạn Do Thái của chúng ta… đã giết Giêsu… bầu cho bọn mọi đen… các ông cố của ta… những thẩm phán và cảnh sát trưởng mọi đen… phân cách là bình đẳng… chín mươi lăm phần trăm tiền thu thuế… cho bọn mọi đen và chó săn già… theo con bê vàng… thuyết giảng Phúc âm… phu nhân Roosevelt thân mến… kẻ yêu mọi đen… tiếp đãi bốn mươi lăm tên mọi đen nhưng không một trinh nữ miền Nam tươi tắn [48] … Huey Long, quý ông Thiên Chúa giáo ấy… đen như mấu gỗ thông cháy dở… hối lộ Tòa án Tối cao… những tín đồ Thiên Chúa giáo da trắng đúng đắn… đâu phải Giêsu chịu đóng đinh vì bọn mọi đen…”
Bàn tay Jean Louise trượt đi. Cô nhấc tay khỏi lan can của bao lơn và nhìn xuống. Nó ướt đẫm. Một vết ướt trên lan can phản chiếu ánh sáng mong manh rọi qua những cửa sổ ở hàng trên. Cô nhìn chăm chăm vào bố cô đang ngồi ở bên phải ông O’Hanlon, và cô không tin được điều mình nhìn thấy. Cô nhìn chăm chăm vào Henry đang ngồi ở bên trái ông O’Hanlon, và cô không tin được điều mình nhìn thấy…
… nhưng họ đang ngồi khắp phòng xử. Những con người có tư chất và phẩm cách, những con người có trách nhiệm những người tốt. Những con người thuộc đủ mọi tầng lớp và các kiểu tên tuổi… có vẻ như người đàn ông duy nhất trong hạt không có mặt là chú Jack. Chú Jack - cô đã hẹn sẽ thăm chú ấy vào lúc nào đó. Bao giờ?
Cô không biết nhiều về công chuyện của các ông, nhưng cô biết rằng sự có mặt của bố cô bên cái bàn với một người luôn phun từ miệng ra những điều thối tha - điều ấy có làm cho nó bớt thối tha đi không? Không. Điều ấy tán thành.
Cô cảm thấy muốn ói. Ruột cô thắt lại, cô bắt đầu run rẩy.
Hank.
Mọi dây thần kinh trong người cô ré lên, rồi chết. Cô lặng người.
Cô lóng ngóng kéo mình đứng dậy, và loạng choạng từ bao lơn xuống đường cầu thang có mái che. Cô không nghe tiếng chân mình lết xuống cầu thang rộng rãi, hoặc tiếng đồng hồ của tòa nhà cần mẫn báo hai giờ rưỡi; cô không cảm thấy không khí ẩm ướt của tầng một.
Mặt trời chói chang rọi vào mắt cô đau buốt, và cô đưa tay lên che mặt. Khi cô từ từ bỏ tay xuống để điều chỉnh đôi mắt từ tối qua sáng, cô thấy Maycomb không một bóng người, đang lung linh trong buổi chiều nóng hừng hực.
Cô đi xuống những bậc thềm và bước vào bóng mát của một cây sồi thường xanh. Cô giơ tay ra tựa vào thân cây. Cô nhìn Maycomb, và họng cô thắt lại: Maycomb đang nhìn lại cô.
Đi đi, những tòa nhà cũ kỹ nói. Không có chỗ cho ngươi ở đây đâu. Chẳng ai cần đến ngươi. Chúng ta có những bí mật.
Vâng lời chúng, trong cái nóng câm lặng cô bước theo con đường chính của Maycomb, một đại lộ dẫn về Montgomery. Cô đi mãi, qua những ngôi nhà có sân trước rộng rãi với những bà khéo trồng tỉa và những ông to lớn chậm chạp sống trong đó. Cô ngỡ mình nghe tiếng bà Wheeler réo lên với cô Maudie Atkinson ở bên kia đường, và nếu trông thấy cô, Maudie thường bảo vào đi ăn chút bánh nướng, cô vừa làm một cái bánh to cho ông bác sĩ và một cái nhỏ cho cháu. Cô đếm những chỗ nứt trên lề đường, gồng mình chờ đón đạt công kích của bà Henry Lafayette Dubose - Đừng có nói hê ta, Jean Louise Finch, cháu phải nói chúc buổi chiều tốt lành! - bước nhanh qua ngôi nhà cũ có mái dốc đứng, qua nhà của cô Rachel, và về đến nhà mình.
KEM LÀM TẠI NHÀ
Cô hấp háy mắt dữ dội. Mình mất trí rồi, cô thầm nghĩ.
Cô gắng bước qua nhưng đã trễ. Cửa hàng kem thấp, vuông, hiện đại ngay tại ngôi nhà cũ của cô đã mở cửa, và một người đang nhìn cô qua cửa sổ. Cô thọc tay vào túi quần và rút ra đồng hai mươi lăm xu.
“Làm ơn cho một cây ốc quế vani.”
“Ốc quế ấy không về nữa rồi. Tôi có thể cho cô một…”
“Thôi được rồi. Có thứ nào cho thứ đó,” cô nói với anh ta.
“Jean Louise Finch, phải hông?” anh nói.
“Vâng.”
“Trước sống ở đây, phải hông?”
“Vâng.”
“Thực tế là, đẻ ở đây, phải hông?”
“Vâng.”
“Đang sống ở New York, đúng chưa?”
“Vâng.”
“Maycomb thay đổi rồi, há?”
“Vâng.”
“Đâu nhớ tôi là ai, phải hông?”
“Không nhớ.”
“Vậy tôi cũng không nói đâu. Bạn có thể ngồi đấy ăn kem và cố nghĩ ra tôi là ai, và nếu bạn nhớ ra tôi sẽ cho bạn một suất kem nữa miễn phí.”
“Cảm ơn anh,” cô nói. “Tôi vòng ra sau một chút anh có phiền không…”
“Được thôi. Có bàn ghế ở phía sau đó. Người ta ngồi ra đó buổi tối ăn kem.”
Sân sau được rải sỏi trắng. Cô nghĩ, trông nó thật nhỏ khi không có căn nhà, không nhà xe, không có mấy cây xoan. Cô ngồi xuống bên một cái bàn và đặt hộp kem lên đó. Mình phải suy nghĩ mới được.
Mọi chuyện xảy ra nhanh đến nỗi bụng dạ cô vẫn còn co thắt. Cô hít thở sâu để dịu lại, nhưng nó chưa chịu nằm yên. Cô cảm thấy mình tái xanh vì buồn nôn, và cô gục đầu xuống; cố hết sức nhưng cô vẫn không suy nghĩ được, cô chỉ biết, và điều cô biết là thế này:
Con người duy nhất cô từng tin tưởng trọn vẹn bằng hết tâm hồn đã phụ lòng cô; con người duy nhất mà cô từng biết mình có thể chỉ vào người ấy và nói với sự am tường, “Đây là một quý ông, tận cốt tủy đó là một quý ông,” đã phản bội cô, một cách công khai, trắng trợn, và không hề xấu hổ.