Chương 12
Ánh nắng đánh thức cô dậy. Cô nhìn đồng hồ. Đêm qua ai đó đã đắp chăn cho cô. Cô gạt tấm chăn phủ giường, đặt chân xuống sàn, và ngồi nhìn lung vào đôi chân dài của mình, ngạc nhiên khi thấy chúng đã hăm sáu tuổi. Đôi giày đế bằng đứng nghiêm ở chỗ cô tuột ra mười hai giờ trước. Một cái vớ nằm bên cạnh đôi giày và cô tìm ra bạn cặp đôi với nó còn nằm ở bàn chân cô. Cô tuột chiếc vớ ra và đi nhẹ nhàng tới bàn trang điểm, bắt gặp hình ảnh trong gương.
Cô nhìn buồn bã vào hình phản chiếu của mình. Mày đã có cái mà ông Burgess vẫn gọi là “Nỗi Kinh Hoảng”, cô nói với nó. Ôi trời, mình đã không thức dậy như thế này mười lăm năm rồi. Hôm nay là thứ Hai, mình về nhà từ thứ Bảy, mình còn lại mười một ngày nghỉ nữa, và mình bị khiếp sợ mà thức dậy. Cô bật cười vào mặt mình: được rồi, đây là lần dài nhất từng được ghi nhận - dài hơn những con voi và chẳng có gì để khoe cả.
Cô cầm lên một gói thuốc và ba que diêm nhà bếp, nhét mấy cây diêm vào trong lớp giấy kiếng của bao thuốc, và đi lặng lẽ ra tiền sảnh. Cô mở cánh cửa gỗ, rồi lớp cửa lưới.
Vào những ngày khác cô hẳn sẽ đứng chân trần trên cỏ ướt lắng nghe tiếng hót buổi sáng của chim nhại; cô hẳn sẽ ngẫm nghĩ về sự vô nghĩa của cái đẹp lặng lẽ, nghiêm trang tự tái hiện tươi mới mỗi bình minh và hiện diện mà một nửa thế giới không để mắt tới. Cô hẳn sẽ đi bộ bên dưới những cây thông ngả vàng vươn lên một bầu trời phía Đông rực rỡ, và các giác quan của cô hẳn sẽ trôi theo niềm vui của buổi sáng.
Nó đang chờ đợi để đón nhận cô, nhưng cô không nhìn cũng không lắng nghe. Cô có hai phút bình yên trước khi ngày hôm qua trở lại: không gì có thể bóp chết niềm vui người ta có được từ điếu thuốc đầu tiên trong buổi sáng sớm. Jean Louise cẩn thận nhả khói vào không khí yên tĩnh.
Cô chạm vào ngày hôm qua một cách dè chừng, rồi rụt lại. Bây giờ mình không dám nghĩ về nó, cho đến khi nó đã lui đủ xa. Thật kỳ quái, cô nghĩ, hẳn là giống cảm giác đau về thể xác. Người ta nói khi bạn không chịu được nữa thì thân xác bạn trở thành lớp bảo vệ cho chính nó, bạn mất cảm giác và không cảm thấy gì nữa. “Thượng đế không trút cho bạn nhiều hơn mức bạn có thể chịu đựng…” Đó là một câu nói cổ xưa ở Maycomb ở cửa miệng các quý bà mỏng mảnh thường ngồi thức canh xác, một việc được cho rằng sẽ an ủi tang quyến rất sâu xa. Tốt lắm, cô sẽ được an ủi. Cô sẽ ngồi hết hai tuần ở nhà trong sự xa cách lễ độ, không nói gì cả, không yêu cầu gì cả, không phê phán gì cả. Cô sẽ hành xử theo mức khá nhất có thể trông đợi trong hoàn cảnh này.
Cô đặt hai cánh tay lên đầu gối và gục đầu vào cánh tay. Giá như chỉ là tôi bắt được cả hai người tại một ổ ăn chơi với hai mụ đĩ thõa - bãi cỏ mọc cao quá rồi.
Jean Louise đi về nhà xe và đẩy cánh cửa trượt lên. Cô kéo ra một máy nổ chạy xăng, mở nắp bình xăng, và xem xét bên trong. Cô vặn lại nắp bình, gạt một cái cần nhỏ, đạp một chân vào máy cắt, giậm chân kia vững chắc trên mặt cỏ, và giật sợi dây thật nhanh. Cái máy khọt khẹt hai tiếng rồi tắt ngúm.
Quỷ bắt mày đi, mình làm nó ngộp xăng rồi.
Cô đẩy máy cắt ra ngoài nắng và trở vào nhà xe, lấy ra một cây kéo tỉa hàng rào to tướng. Cô bước tới đoạn cống ngầm ở đầu lối dẫn từ con phố lên nhà xe và tỉa mớ cỏ mọc sum suê ở hai đầu đoạn cống. Có gì nhúc nhích dưới chân cô, và cô khum bàn tay trái úp xuống một con dế. Cô luồn bàn tay phải xuống bên dưới hốt nó lên. Con dế chạy húc loạn xạ vào lòng bàn tay và cô đặt nó xuống. “Mày đi chơi khuya quá đấy,” cô nói. “Về nhà với mẹ đi.”
Một chiếc xe tải bò lên dốc và ngừng ngay trước mặt cô. Một cậu trai da đen từ bậc cửa xe nhảy xuống đưa cho cô thùng sữa ba lít. Cô mang sữa tới bậc thềm trước nhà, và khi trở ra chỗ đoạn ống cống cô giật máy cắt cỏ lần nữa. Lần này nó chịu nổ.
Cô hài lòng liếc nhìn vạt cỏ đã cắt gọn sau lưng mình. Cỏ nằm đó gọn gàng và tỏa mùi như bờ một khe suối. Dòng văn học Anh hẳn đã khác rất nhiều nếu ông Wordsworth có một máy cắt cỏ chạy xăng, cô thầm nghĩ. [52]
Có cái gì đó lấn vào tầm nhìn của cô và cô nhìn lên. Alexandra đang đứng ở cửa trước làm động tác tới-đây-ngay. Mình tin chắc bác ấy đã mặc áo nịt. Mình tự hỏi không biết bác có bao giờ trở mình trên giường vào ban đêm không.
Alexandra chẳng để lộ bằng chứng gì nhiều là có hoạt động như vậy khi bà đứng chờ cô cháu gái: mái tóc muối tiêu của bà được chải bới gọn ghẽ, như thường lệ, bà không trang điểm nhưng cũng chẳng có gì khác. Mình tự hỏi trong đời bác ấy có bao giờ thực sự cảm thấy gì không. Khi chào đời, Francis có lỡ đã làm bác đau, nhưng mình tự hỏi có bất cứ điều gì đã khiến bác xúc động không.
“Jean Louise!” Alexandra rít lên. “Cháu đánh thức cả mé bên này thị trấn với cái món đó đó! Cháu đã đánh thức bố cháu, mà ông ấy không chợp mắt được tới hai cái tối qua. Dừng nó lại ngay đi!”
Jean Louise tắt máy cắt cỏ, và sự im lặng bất ngờ phá vỡ cuộc đình chiến của cô với họ.
“Cháu phải đủ hiểu biết để đừng đi chân không mà chạy cái máy đó chứ. Fink Sewell bị chém lìa ba ngón chân vì thế đó, vả mới mùa thu rồi Atticus giết được một con rắn dài cả thước ở sân sau đấy. Nói thật tình, cái kiểu cháu đôi khi cư xử, bất cứ ai cũng có thể nghĩ cháu thuộc loại không chấp nhận được!”
Dù không cố ý, Jean Louise cũng nhăn răng cười. Có thể tin Alexandra sẽ thỉnh thoảng phát ra một cụm từ dùng sai, trường hợp nổi bật nhất là bình luận của bà về thói tham ăn ở thành viên nhỏ tuổi nhất trong một gia đình Do Thái ở Mobile khi tròn mười ba tuổi: Alexandra tuyên bố cậu Aaron Stein đó là đứa con trai ham ăn nhất mà bà từng thấy, rằng cậu ta ăn hết mười bốn trái bắp vào lễ Mãn kinh [53] của cậu ta.
“Sao cháu không đưa sữa vào nhà? Giờ này chắc nó vón cục rồi.”
“Cháu không muốn đánh thức cả nhà bác ”
“Thôi, mọi người thức rồi,” bà nói với vẻ bực mình “Cháu muốn ăn sáng không?”
“Chỉ cà phê thôi, xin bác.”
“Bác muốn cháu thay đồ và vào thị trấn giùm bác sáng nay. Cháu sẽ phải chở Atticus đi. Hôm nay ông ấy hơi bị cứng chân tay.”
Cô ước phải chi cô đã nằm nguyên trên giường cho đến khi ông rời khỏi nhà, nhưng kể cả vậy ông cũng sẽ đánh thức cô dậy để chở ông đi.
Cô vào nhà, xuống bếp, và ngồi ở bàn. Cô nhìn bộ thiết bị ăn kỳ cục mà Alexandra đặt bên đĩa của bố cô. Atticus đã dứt khoát phản đối chuyện có người đút cho ông ăn, và bác sĩ Finch giải quyết vấn đề bằng cách cắm các loại cán dao cán nĩa và muỗng vào đầu mấy ống chỉ lớn bằng gỗ.
“Chúc buổi sáng tốt lành.”
Jean Louise nghe tiếng bố cô vào phòng. Cô nhìn vào đĩa của mình. “Chúc buổi sáng tốt lành, bố.”
“Bố nghe con không được khỏe. Bố nhìn vào phòng con lúc bố về tới nhà và con đã ngủ say. Sáng nay ổn chứ?”
“Ổn bố.”
“Nhưng nghe không ổn.”
Atticus xin Chúa cho họ có tấm lòng biết tri ân những thực phẩm này và mọi ơn phước, nhấc ly của ông lên, và làm đổ ra bàn. Sữa chảy xuống đùi ông.
“Xin lỗi,” ông nói. “Nhiều buổi sáng bố phải mất một lúc lâu mới bắt đầu mọi chuyện được.”
“Cứ ngồi yên, con sẽ thu xếp.” Jean Louise bật dậy và bước tới bồn rửa. Cô ném hai chiếc khăn lau chén lên chỗ sữa đổ, lấy ra một tấm khăn nữa trong ngăn tủ, và thấm sữa trên quần và ngực áo của bố cô.
“Hồi này bố trả hóa đơn giặt ủi khá bộn,” ông nói.
“Vâng bố.”
Alexandra dọn cho Atticus thịt heo muối và trứng và bánh mì nướng. Sự chú ý của ông đã dồn vào bữa sáng, Jean Louise nghĩ cô sẽ an toàn ngắm nhìn ông.
Ông không thay đổi. Khuôn mặt của ông vẫn giống như mọi khi. Không hiểu sao mình cứ mong bố trông giống Dorian Gray hay ai đó. [54]
Cô giật bắn người khi điện thoại reo.
Jean Louise không có khả năng tái điều chỉnh bản thân theo những cú điện vào sáu giờ sáng, Giờ Của Mary Webster. Alexandra đi nghe điện và trở vào bếp.
“Điện của cậu, Atticus. Cảnh sát trưởng gọi.”
“Hỏi giùm xem ông ấy muốn gì, Zandra.”
Alexandra lại xuất hiện và nói, “Ai đó yêu cầu ông ta gọi cho cậu…”
“Bảo ông ấy gọi cho Hank, Zandra. Ông ta có thể nói với Hank bất cứ chuyện gì ông ấy muốn nói với em.” Ông quay sang Jean Louise. “Bố mừng là mình có một cộng sự trẻ cùng với một bà chị. Người này bỏ sót điều gì thì người kia nhớ. Chẳng biết cảnh sát trưởng muốn cái gì giờ này?”
“Con cũng muốn biết,” cô nói hờ hững.
“Con yêu, bố nghĩ hôm nay con phải nhờ chú Allen khám cho xem sao. Con kỳ kỳ thế nào ấy.”
“Dạ bố.”
Một cách kín đáo, cô nhìn bố mình ăn bữa sáng, ông điều khiển bộ đồ ăn cồng kềnh cứ như nó có hình dáng và kích thước bình thường. Cô liếc trộm lên mặt ông và thấy nó phủ một lớp râu bạc mới nhú lởm chởm. Nếu ông để râu chắc nó đã bạc trắng, nhưng tóc của ông mới ngả màu và lông mày ông vẫn còn đen nhánh. Chú Jack đã bạc trắng tới trán, và bác Alexandra đã hoa râm hết cả. Khi mình bắt đầu già, mình sẽ khỏi sự ở đâu? Tại sao mình ngẫm nghĩ những chuyện này?
Cô nói, “Con xin phép”, và bưng cà phê của cô sang phòng khách. Cô đặt tách trên một cái bàn đèn và đang kéo rèm thì thấy xe của Henry bò lên đường dẫn vào nhà. Anh thấy cô đứng bên cửa sổ.
“Chúc buổi sáng tốt lành. Trông em xanh thấy sợ vậy,” anh nói.
“Cảm ơn. Atticus trong bếp.”
Henry trông lúc nào cũng vậy. Sau một đêm ngủ tốt, vết sẹo của anh ít nổi rõ hơn. “Em đang bực bội chuyện gì hả?” anh nói. “Hôm qua anh vẫy em trên ban công mà em không thấy.”
“Anh thấy em hả?”
“Thấy. Anh nghĩ em sẽ đợi anh với cha em bên ngoài, nhưng không có. Hôm nay thấy đỡ hơn chưa?”
“Đỡ hơn.”
“Tốt, đừng cấm cảu với anh.”
Cô uống cà phê, tự nhủ mình cần một tách nữa, và theo Henry vào bếp. Anh đúng dựa vào bồn rửa, xoay vòng vòng má chìa khóa xe trên ngón trỏ. Anh cao gần bằng tủ bếp, cô nghĩ. Mình sẽ chẳng bao giờ nói được một câu rành rẽ với anh nữa.
“… xảy ra tất nhiên.” Henry nói. “Nó chắc chắn sẽ như vậy không sớm thì muộn.”
“Nó có uống rượu không?” Atticus hỏi.
“Không phải uống, mà là say. Nó ló ra từ trận nhậu suốt đêm ở cái ổ ăn chơi của tụi nó.”
“Có chuyện gì vậy?” Jean Louise nói.
“Thằng con của Zeebo,” Henry nói. “Cảnh sát trưởng nói nó đang bị giam - nó yêu cầu ông ta gọi ông Finch tới lãnh nó ra - hừ.”
“Tại sao vậy?”
“Em à, lúc bình minh sáng nay thằng con Zeebo phóng như xé gió khỏi khu da đen, và nó cán ông Healy đang băng qua đường khiến ông ta chết tại chỗ.”
“Ôi, không…”
“Cái xe đó của ai?” Atticus hỏi.
“Của Zeebo, cháu đoán vậy.”
“Cháu định nói gì với cảnh sát trưởng?” Atticus hỏi.
“Bảo ông ấy nói với thằng con Zeebo rằng bác sẽ không dính tới vụ này.”
Atticus chỏi khuỷu tay vào bàn và đẩy người ra.
“Cháu không nên làm thế. Hank,” Ông nói nhẹ nhàng. “Đương nhiên mình sẽ nhận vụ này.”
Tạ ơn Chúa. Jean Louise thở ra thật nhẹ và dụi mắt. Con trai Zeebo là cháu nội Calpurnia. Atticus có thể quên rất nhiều chuyện, nhưng ông không bao giờ quên họ. Chuyện của ngày hôm qua mau chóng tan vào một đêm tồi tệ. Ông già Healy tội nghiệp, hẳn ông ấy đã say quá đến độ không bao giờ biết được cái gì đã tông trúng mình.
“Nhưng bác Finch,” Henry nói, “cháu nghĩ không có gì trong…”
Atticus xê dịch cánh tay trên góc của ghế. Khi tập trung suy nghĩ ông có thói quen rờ rẫm sợi dây chuyền đồng hồ và lơ đãng mò trong cái túi đựng đồng hồ. Hôm nay hai bàn tay ông nằm im
“Hank, bác e rằng khi mình biết mọi dữ kiện trong vụ này thì việc tốt nhất có thể làm là bảo thằng nhỏ xin nhận tội. Lúc này mình đứng về phía nó trước tòa không tốt hơn để nó rơi vào tay bọn tầm bậy sao?”
Một nụ cười chậm rãi nở ra trên mặt Henry. “Cháu hiểu bác muốn nói gì, bác Finch.”
“À, em không hiểu đấy,” Jean Louise nói. “Bọn tầm bậy nào?”
Atticus quay sang cô. “Scout, có lẽ con không biết, nhưng đám luật sư ăn lương của NAACP quẩn quanh dưới đây như lũ kền kền chờ những chuyện như thế này xảy ra…”
“Ý bố là luật sư da màu?”
Atticus gật đầu. “Ờ. Trong bang này hiện có ba hay bốn tay như thế. Họ chủ yếu ở Birmingham và những chỗ như thế, nhưng họ theo dõi và chờ đợi qua từng phiên tòa lưu động để chờ một tội nghiêm trọng do một người da đen nhắm vào người da trắng - con sẽ ngạc nhiên nếu biết họ mau chóng phát hiện thế nào - và họ xuất hiện rồi… rồi, nói cho con dễ hiểu, họ đòi phải có người da đen trong bồi thẩm đoàn trong những vụ như vậy. Họ yêu cầu các ủy viên đặc trách bồi thẩm đoàn phải hiện diện, họ đòi thẩm phán từ nhiệm, họ bày mọi mánh khóe pháp lý trong sách vở của họ - và thứ đó họ có cả đống - họ tìm cách ép quan tòa phạm sai lầm. Trên hết, họ cố đưa vụ xử tới một tòa liên bang nơi có những điều kiện thuận lợi cho họ hơn. Điều đó đã xảy ra trong phiên tòa ở hạt kế bên hạt mình, và không có gì đảm bảo chuyện đó sẽ không xảy ra ở đây.”
Atticus quay sang Henry. “Bởi thế nên bác mới nói mình sẽ nhận vụ này nếu cậu ta muốn có chúng ta.”
“Con tưởng NAACP bị cấm hành nghề ở Alabama,” Jean Louise nói.
Atticus và Henry cùng nhìn cô và bật cười.
“Em yêu,” Henry nói, “em không biết chuyện gì đã xảy ra ở hạt Abbott khi một chuyện đúng y thế này xảy ra. Hồi mùa xuân rồi mọi người nghĩ sẽ có rắc rối lớn trong một thời gian. Dân bên kia sông vùng này thậm chí, thấy có chỗ nào bán đạn dược là họ mua sạch…”
Jean Louise rời phòng.
Trong phòng khách, cô nghe giọng đều đều của Atticus:
“… chặn dòng một chút kiểu này… thật tốt là cậu ta yêu cầu một trong các luật sư Maycomb…”
Cô sẽ kềm lại không ói cà phê ra dù khó khăn tới đâu. Ai là người mà dòng họ Calpurnia sẽ luôn tìm tới trước hết? Atticus đã giành được bao nhiêu vụ ly dị cho Zeebo rồi? ít nhất là năm. Cậu trai này là con ai trong đó? Phen này nó gặp rắc rối lớn rồi, nó cần giúp đỡ thực sự và họ làm gì, họ ngồi trong bếp và nói về NAACP… không lâu trước đây, Atticus sẽ làm việc này chỉ vì lòng tốt, ông sẽ làm thế vì Calpurnia. Dứt khoát sáng nay mình phải đi thăm bà ấy…
Cái ảnh hưởng tồi tệ đổ xuống những người mà cô hằng yêu thương là thứ gì vậy? Có phải cô nhìn thấy nó nổi bật rành rành bởi vì cô đã ở xa nó? Có phải nó đã thẩm thấu dần dần qua bao năm tháng đến nay? Có phải nó luôn sờ sờ trước mắt cho cô thấy nếu như cô chịu mở mắt nhìn? Không, không với câu hỏi cuối cùng. Cái gì đã đẩy những người bình thường vào chỗ gào thét hết cỡ những lời tồi tệ đến như vậy, cái gì đã khiến những người cùng loại với cô trở nên nhẫn tâm và nói “mọi đen” trong khi từ đó chưa hề lướt qua môi họ trước đây.
“… giữ họ ở đúng chỗ hy vọng thế.” Alexandra nói, khi bà vào phòng khách cùng Atticus và Henry.
“Không có gì phải lo,” Henry nói. “Mình sẽ thoát ra lành lặn thôi. Bảy rưỡi tối nay, nghe cưng?”
“Dạ.”
“Ồ, em có thể tỏ ra hào hứng chút trong vụ này chứ.”
Atticus cười khúc khích. “Nó đã kịp chán cháu rồi, Hank.”
“Cháu chở bác vào thị trấn được không, bác Finch? Còn sớm lắm, nhưng cháu định xuống đó và coi sóc mấy chuyện trong lúc buổi sáng còn mát.”
“Cảm ơn, nhưng lát nữa Scout sẽ chở bác xuống đó.”
Việc ông dùng tên hồi nhỏ của cô chọc vào tai cô. “Đừng bao giờ kêu con bằng tên đó nữa. Người từng gọi con là Scout đã chết và nằm dưới mộ rồi.”
Alexandra nói, “Jean Louise, bác đã có danh sách các thứ cháu có thể mua ở Jitney Jungle này. Bây giờ đi thay quần áo đi. Giờ cháu có thế chạy xuống phố đấy - nó mở của rồi - rồi quay về đón bố cháu.”
Jean Louise vào phòng tắm và mở vòi nước nóng trong bồn tắm. Cô về phòng mình, lôi từ trong tủ ra một chiếc váy vải, và vắt trên cánh tay. Cô tìm được đôi giày đế bằng nào đó trong vali, chọn một cái quần lót, và đem hết vào phòng tắm.
Cô nhìn bóng mình trong tấm gương tủ thuốc. Bây giờ ai là Dorian đây?
Có quầng nâu xanh dưới mắt cô, và hai đường từ lỗ mũi tới góc mép cô đã hằn rõ. Hèn nào, cô nghĩ. Cô bẹo má sang một bên và nhìn kỹ vào đường pháp lệnh nhỏ xíu từ hai cánh mũi. Mình chẳng quan tâm. Đến lúc mình sẵn sàng kết hôn thì đã chín mươi rồi và lúc đó là quá trễ. Ai sẽ chôn mình? Mình là đứa trẻ nhất trong nhà và cách thế hệ trên rất xa - đó là một lý do để có con.
Cô pha nước lạnh vào nước nóng, và khi tới mức chịu được cô bước vào bồn tắm, kì cọ một cách bình thản, xả nước, lau khô người, và mặc quần áo mau lẹ. Cô xối nước rửa bồn, lau khô tay, vắt khăn lên giá, và rời phòng tắm.
“Thoa chút son đi,” bà bác nói khi đụng mặt cô ở tiền sảnh. Alexandra vào phòng xép kéo máy hút bụi ra.
“Cháu sẽ làm việc đó khi trở lại,” Jean Louise nói.
“Khi cháu về lại thì xong rồi.”
Nắng chưa làm bỏng rộp những vỉa hè Maycomb, nhưng sẽ sớm thôi. Cô đậu xe trước cửa hàng tạp phẩm đi vào trong.
Ông Fred bắt tay cô, nói rằng ông rất vui khi gặp lại cô, rút từ máy bán tự động ra một lon Coca ướt, lau vào tạp dề, và đưa cho cô.
Đây là một điều tốt đẹp về cuộc sống không bao giờ thay đổi, cô nghĩ. Miễn là ông ta còn sống, miễn là cô trở lại, ông Fred sẽ có mặt ở đây và… chào đón cô một cách bình dị như thế. Nhân vật nào đấy nhỉ? Alice? Thỏ Brer? Đó là Chuột Chũi. Chuột Chũi, khi nó trở về sau một chuyến đi dài ngày nào đó, mệt khủng khiếp, đã thấy điều quen thuộc đang chờ đợi và chào đón nó một cách bình dị. [55]
“Bác sẽ lo các thứ hàng họ này cho cháu, cháu cứ thưởng thức lon Coca đó đi,” ông Fred nói.
“Cảm ơn bác,” cô nói. Jean Louise liếc qua danh sách và trợn tròn mắt. “Hồi này bác mình đang trở nên giống bác Joshua hơn. Bác ấy muốn gì với món khăn cốc tai chứ?”
Ông Fred cười khùng khục. “Bác độ chừng bà ấy muốn khăn giấy ăn. Bác chưa bao giờ nghe nói có ly cốc tai nào lướt qua môi bà ấy.”
“Bác sẽ chẳng bao giờ nghe thấy đâu.”
Ông Fred đi làm việc của mình, và lát sau nói vọng ra từ phía sau cửa hàng. “Có nghe vụ ông Healy không?”
“Ơ - hừm,” Jean Louise đáp. Cô là con gái ông luật sư mà.
“Không kịp biết cái gì tông mình luôn,” ông Fred nói. “Mà mình đang đi đâu cũng không biết luôn, ông già tội nghiệp. Ông ta uống rượu dởm nhiều hơn bất kỳ ai tôi từng thấy. Đó là thành tích duy nhất của ông ta.”
“Không phải ông ta từng thổi vò sao?”
“Có chứ,” ông Fred nói. “Cháu nhớ hồi người ta tổ chức những đêm hội tài năng ở tòa án không? Ông ta luôn có mặt ở đó thổi vò. Ông ta mang đến một vò đầy và uống một chút cho âm thanh trầm xuống, rồi uống thêm chút nữa cho âm thanh thật trầm, và rồi chơi màn độc tấu. Lúc nào cũng là bài ‘Old Dan Tucker’, và ông ta lúc nào cũng khiến các bà phát gớm, nhưng họ chẳng bao giờ chứng minh được gì. Cháu cũng biết rằng rượu tinh khiết không tỏa mùi nhiều mà.”
“Ông ấy sống ra sao?”
“Trợ cấp, bác nghĩ vậy. Ông ấy có tham gia Chiến tranh Tây Ban Nha - nói thiệt với cháu chứ ông ấy tham gia cuộc chiến gì đó mà bác không nhớ nổi là chiến tranh nào. Mớ hàng của cháu đây.”
“Cảm ơn bác Fred,” Jean Louise nói. “Chúa ơi, cháu quên mang tiền. Cháu để hóa đơn cho bố cháu trả được không? Chốc nữa bố cháu tới đây ngay.”
“Được rồi, cháu cưng. Bố cháu khỏe không?”
“Hôm nay bố cháu hơi mệt, nhưng bố cháu sẽ tới văn phòng dù có đại hồng thủy.”
“Sao chuyến này cháu không về luôn?”
Cô giảm bớt thế thủ khi thấy trên mặt ông Fred chẳng có gì ngoài nét vui vẻ hồn nhiên. “Có ngày cháu sẽ về.”
“Cháu biết đó, bác từng tham dự Thế chiến thứ nhất,” Ông Fred nói. “Bác không ra nước ngoài, nhưng bác đi rất nhiều nơi trong nước mình. Bác không có mong muốn về quê, nên sau chiến tranh bác còn lang thang chục năm nữa, nhưng càng xa quê bác càng nhớ Maycomb. Rồi tới một lúc bác cảm thấy rằng mình phải trở về hoặc là chết. Cháu không đời nào xóa nó khỏi xương tủy của cháu đâu.”
“Bác Fred ạ, Maycomb thì cũng giống mọi thị trấn nho nhỏ khác. Bác lấy một nhóm bất kỳ…”
“Không phải vậy đâu, Jean Louise. Cháu biết mà.”
“Bác nói đúng,” cô gật đầu.
Không phải vì đây là nơi cuộc sống của ngươi bắt đầu. Mà bởi vì đây là nơi người ta được sinh ra và sinh ra và sinh ra cho đến lúc sau cùng kết quả là ngươi, đúng uống một lon Coca trong cửa hàng Jitney Jungle.
Bây giờ cô cảm thấy một sự tách biệt dứt khoát, một sự chia cách, không chỉ tách khỏi Atticus và Henry. Toàn bộ thị trấn Maycomb và hạt Maycomb đang lìa bỏ cô theo từng giờ trôi qua, và cô tự động kết tội chính mình.
Cô lại va đầu khi chui vào xe. Mình sẽ không bao giờ quen được với những thứ này. Chú Jack có một số luận điểm đáng kể trong triết lý của chú.
Alexandra ôm mớ hàng tạp phẩm khỏi băng ghế sau. Jean Louise chồm tới và mở cửa cho bố cô; cô thò tay qua chỗ ông ngồi và đóng cửa lại.
“Cần xe sáng nay không bác yêu?”
“Không, cưng. Định đi đâu hả?”
“Vâng bác. Cháu đi không lâu đâu.”
Cô quan sát con đường cẩn thận. Mình có thể làm bất cứ gì ngoài việc nhìn bố và nghe bố nói và trò chuyện với bố.
Khi dừng xe trước cửa tiệm hớt tóc cô nói, “Bố hỏi ông Fred xem mình thiếu ông ta bao nhiêu. Con quên không lấy hóa đơn khỏi túi hàng. Có nói là bố sẽ trả.”
Khi cô mở cửa cho ông, ông bước ra đường.
“Cẩn thận nghe!”
Atticus vẫy tay với người lái trên một chiếc xe vụt qua. “Nó đâu có tông mình,” ông nói.
Cô lái xe vòng quảng trường và ra xa lộ Meridian cho đến khi gặp một ngã ba. Chắc đây là chỗ vụ đó xảy ra, cô nghĩ.
Có những vết sẫm màu trong lớp sỏi đỏ chỗ giáp với lề đường, và cô chạy xe qua vết máu của ông Healy. Khi đến một ngã ba trên con đường đất cô rẽ phải, và chạy theo một đường mòn nhỏ hẹp đến độ chiếc xe lớn choán hết con đường. Cô chạy tiếp cho đến khi không đi thêm được nữa.
Con đường bị chắn vì một dãy xe đậu nghiêng chúi lưng chừng xuống đường mương. Cô đậu sau chiếc gần nhất và bước ra. Cô đi dọc dãy xe qua một chiếc Ford đời 1939, một chiếc Chevrolet đời nào không rõ, một chiếc Willys, và một chiếc xe tang màu xanh trứng chim cổ đỏ với hàng chữ HÃY AN NGHỈ NƠI THIÊN ĐÀNG nổi bật trên một hình bán nguyệt mạ crôm ở cửa trước. Cô giật mình, và cô nhìn vào trong xe: ở phía sau có một dãy ghế bắt vít vào sàn xe và không có chỗ cho một thân người nằm, dù sống hay chết. Đây là một chiếc taxi, cô nghĩ.
Cô kéo vòng dây kẽm khỏi trụ cổng và vào trong. Chỗ của Calpurnia có một khoảng sân quét sạch: Jean Louise có thể thấy rõ nó vừa được quét gần đây, những vệt chổi vẫn còn thấy rõ giữa những dấu chân nhẵn mịn.
Cô nhìn lên, và trên hàng hiên ngôi nhà nhỏ của Calpurnia là những người da đen trong đủ loại trang phục: hai phụ nữ mặc đồ đẹp nhất của họ, một người đeo tạp dề bằng vải in hoa, một người mặc đồ đi dạo. Jean Louise nhận ra một người trong đám đàn ông là thầy Chester Sumpter, hiệu trưởng trường nghề Mt. Sinai, ngôi trường dành cho dân da đen lớn nhất ở hạt Maycomb. Giáo sư Sumpter, như mọi khi, vẫn mặc đồ đen. Người mặc đồ đen còn lại lạ mặt đối với cô, nhưng Jean Louise biết ông ta là mục sư. Zeebo mặc đồ lao động.
Khi thấy cô, họ đứng thẳng lên và lui khỏi mép hàng hiên, như nhập thành một khối. Các ông giở các loại mũ nón, người phụ nữ mặc tạp dề xếp hai tay bên dưới lớp tạp dề.
“Chào Zeebo,” Jean Louise lên tiếng.
Zeebo rời đội hình bằng cách bước tới. “Khỏe không, cô Jean Louise. Tụi tôi không biết cô đã về.”
Jean Louise ý thức rõ những người da đen đang quan sát cô. Họ đứng yên lặng, lễ phép, và đang chăm chú nhìn cô. Cô hỏi, “Calpurnia có nhà không?”
“Có thưa cô Jean Louise. Má ở trong nhà. Muốn tôi đưa bà ra không?”
“Tôi vào được chứ, Zeebo?”
“Được thưa cô.”
Những người da đen tách ra cho cô bước tới cửa trước. Zeebo, không chắc về phép tắc xã giao, mở cửa ra và đứng lui lại cho cô vào. “Dẫn đường đi, Zeebo,” cô nói.
Cô theo ông ta vào một phòng khách tối có mùi dịu ngọt của dân da đen sạch sẽ, thuốc lá hít, và thuốc làm tóc Hearts of Love. Nhiều bóng người đứng dậy khi cô bước vào.
“Lối này, cô Jean Louise.”
Họ đi theo một hành lang hẹp, và Zeebo gõ vào một cánh cửa gỗ thông không sơn. “Má,” ông ta nói. “Có cô Jean Louise tới.”
Cánh cửa mở nhẹ nhàng, và vợ Zeebo ló đầu ra sau cánh cửa. Bà ta bước ra hành lang, vốn không đủ rộng để chứa được cả ba người.
“Chào Helen,” Jean Louise nói. “Bà Calpurnia thế nào?”
“Má rầu rĩ chuyện đó quá trời, cô Jean Louise. Frank, trước giờ nó chưa từng gây rắc rối gì…”
Hóa ra là Frank. Trong đám con cháu đủ loại, Calpurnia tự hào nhất về Frank. Nó nằm trong danh sách chờ nhập học của Học viện Tuskegee. Nó là thợ ống nước bẩm sinh, có thể sửa chửa bất cứ thứ gì có nước chạy qua.
Helen, nặng nề với cái bụng phệ vì cưu mang quá nhiều con cái, dựa vào tường. Bà đi chân trần.
“Zeebo,” Jean Louise nói, “ông với Helen lại sống chung hả?”
“Dạ thưa cô,” Helen nói lặng lẽ. “Ổng cũng già rồi.”
Jean Louise mỉm cười với Zeebo, ông ta trông bẽn lẽn. Cố gắng cỡ nào, Jean Louise cũng không làm rõ được lịch sử gia đình của Zeebo. Cô nghĩ Helen hẳn là mẹ của Frank, nhưng cô không dám chắc. Cô biết rõ Helen là vợ đầu tiên của Zeebo, và cũng chắc chắn rằng bà ấy là vợ hiện nay của ông ta, nhưng có bao nhiêu bà ở khúc giữa đây?
Cô nhớ lần Atticus kể về cặp này trong văn phòng, nhiều năm trước khi họ đến bày tỏ ý muốn ly dị. Atticus, cố hòa giải họ, đã hỏi Helen có chịu cho chồng về lại không. “Hông, thưa ông Finch,” là câu trả lời chậm rãi của bà ta. “Zeebo, ổng la cà vui thú với mấy bà khác, ổng không vui thú gì tui, tui cũng không cần thứ đàn ông không vui thú với vợ.”
“Tôi gặp Calpurnia được không, Helen?”
“Dạ được cô, cứ vô trỏng.”
Calpurnia đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh bằng gỗ trong góc phòng cạnh lò sưởi. Trong phòng có một khung giường bằng sắt phủ một tấm mền in mẫu hoa văn Nhẫn Cưới Kép đã phai màu. Có ba bức ảnh lớn lồng trong khung mạ vàng chụp những người da đen và một tấm lịch Coca-Cola trên tường. Một bệ lò sưởi thô ráp chen chúc những món mỹ nghệ nho nhỏ xinh xắn làm bằng thạch cao, sứ, đất sét, và thủy tinh trắng đục. Một bóng đèn trần thắp sáng ở đầu sợi dây điện lòng thòng từ trần nhà, hắt những cái bóng sắc nét lên bức tường sau bệ lò sưởi, vào góc nhà chỗ Calpurnia ngồi.
Trông bà ấy nhỏ bé làm sao, Jean Louise nghĩ. Bà từng to cao như thế.
Calpurnia đã già và bà gầy còm. Thị lực của bà yếu dần, và bà đeo cặp kiếng gọng đen nổi bật tương phản gắt với màu da nâu ấm áp của bà. Đôi bàn tay to bè của bà đặt trên lòng, và bà giơ tay lên xòe những ngón tay ra khi Jean Louise bước vào.
Cổ họng Jean Louise thắt lại khi mắt chợt thấy những ngón tay gầy guộc của Calpurnia, những ngón tay dịu dàng biết bao khi Jean Louise bị bệnh và cứng như gỗ mun khi cô xấu tính, những ngón tay đã thực hiện những công việc phức tạp đầy thương yêu bao năm xưa. Jean Louise đưa chúng lên môi hôn.
“Cal,” cô gọi.
“Ngồi đi, cưng,” Calpurnia nói. “Có ghế đó không?”
“Có, Cal.” Jean Louise kéo một cái ghế lại và ngồi trước mặt người bạn già.
“Cal, con đến để nói với bà - con đến để nói với bà rằng nếu có bất cứ chuyện gì con làm được cho bà, bà phải cho con biết.”
“Cảm ơn, thưa cô,” Calpurnia nói. “Tôi chẳng thấy có gì hết.”
“Con muốn bảo bà rằng ông Finch sáng nay đã biết tin này. Frank nhờ cảnh sát trưởng gọi cho bố con và ông Finch sẽ… giúp cậu ấy.”
Lời lẽ tắt trên môi cô. Nếu là hôm kia cô hẳn sẽ nói “Ông Finch sẽ giúp cậu ấy” mà tin chắc rằng bố Atticus sẽ biến bóng tối thành ánh sáng.
Calpurnia gật đầu. Đầu bà ngẩng lên và bà nhìn thẳng tới phía trước. Bà ấy thấy mình không rõ, Jean Louise nghĩ. Không biết bà ấy được bao nhiêu tuổi. Mình chẳng bao giờ biết được chính xác, và mình không chắc bà ấy biết.
Jean Louise nói, “Đừng lo, Cal. Atticus sẽ làm hết sức.”
Calpurnia nói, “Tôi biết ông ấy sẽ làm vậy, cô Scout. Ông ấy làm luôn hết sức. Ông ấy làm luôn đúng.”
Jean Louise há miệng nhìn chăm chăm bà già ấy. Calpurnia ngồi với vẻ đường hoàng kiêu kỳ vốn chỉ xuất hiện trong những dịp trang trọng, và kèm với nó là văn phạm lộn xộn. Nếu bây giờ trái đất ngừng quay, nếu cây cối đông cứng, nếu biển trả lại những người chết nó đang giữ, Jean Louise chắc cũng không nhận ra.
“Calpurnia!”
Cô hầu như không nghe thấy Calpurnia đang nói: “Frank, nó làm sai… nó trả giá cho việc đó… cháu tôi. Tôi yêu nó… nhưng nó đi tù dù có hay không có ông Finch…”
“Calpurnia, thôi đi!”
Jean Louise đứng dậy. Cô cảm thấy nước mắt trào ra và cô bước đờ đẫn tới cửa sổ.
Bà già kia không động đậy. Jean Louise quay lại và thấy bà ngồi đó, có vẻ đang hít thở đều đều.
Calpurnia đang mang cung cách lịch sự trước mặt khách.
Jean Louise lại ngồi xuống trước mặt bà. “Cal,” cô kêu, “Cal, Cal, Cal, bà đối xử với con kiểu gì vậy? Có chuyện gì thế? Con là cục cưng của bà, bà quên con rồi sao? Sao bà gạt con ra? Bà đối xử với con kiểu gì vậy?”
Calpurnia nhấc hai bàn tay lên và đặt chúng lặng lờ xuống tay cái ghế bập bênh. Khuôn mặt bà là một triệu nếp nhăn li ti, và đôi mắt bà mờ tối sau lớp mắt kiếng dày.
“Tất cả các người đối xử với chúng tôi kiểu gì?” bà nói.
“Chúng tôi?”
“Phải thưa cô. Chúng tôi.”
Jean Louise nói chậm rãi, với chính mình hơn là với Calpurnia, “Cả đời mình con chưa từng mảy may tưởng tượng rằng có chuyện như thế này lại xảy ra được. Và nó đây. Con không nói chuyện được với con người duy nhất từng nuôi dạy con từ lúc con lên hai… nó đang xảy ra trong lúc con đang ngồi đây và không tin được chuyện đó. Nói với con đi, Cal. Vì Chúa hãy nói đàng hoàng với con. Đừng ngồi đó như vậy!”
Cô nhìn vào khuôn mặt của bà già và cô biết là vô vọng. Calpurnia đang quan sát cô, và trong mắt Calpurnia không hề có dấu hiệu trắc ẩn.
Jean Louise đứng dậy ra về. “Nói cho con biết một điều, Cal,” cô nói, “chỉ một điều trước khi con về - làm ơn đi, con phải biết. Bà có ghét chúng con không?”
Người phụ nữ già ngồi im lặng, chịu đựng gánh nặng của năm tháng đời mình. Jean Louise chờ đợi.
Sau cùng, Calpurnia lắc đầu.
“Zeebo,” Jean Louise nói. “Nếu có gì tôi làm được, vì Chúa cứ gọi cho tôi.”
“Dạ thưa cô,” người đàn ông to lớn nói. “Nhưng coi bộ không có gì cả. Frank, nó giết ông ta như vậy, và chẳng ai có thể làm gì được. Ông Finch, ông ấy không làm được gì với chuyện như thế. Tôi có thể giúp gì cho cô trong thời gian cô còn ở đây không, thưa cô?”
Họ đang đứng ở hàng hiên giữa lối đi được mở ra cho họ. Jean Louise thở dài. “Có đấy, Zeebo, ngay bây giờ. Ông có thể giúp tôi trở đầu xe lại. Tôi sẽ ra tới bãi trồng bắp liền.”
“Dạ, cô Jean Louise.”
Cô nhìn theo Zeebo xoay trở chiếc xe trong giới hạn nhỏ hẹp của con đường. Mình mong mình có thể về lại nhà, cô nghĩ. “Cảm ơn, Zeebo,” cô nói mệt mỏi. “Nhớ nghe.” Ông da đen chạm ngón tay vào vành nón và bước trở lại ngôi nhà của mẹ mình.
Jean Louise ngồi trong xe, nhìn đăm đăm vào bánh lái. Tại sao mọi thứ mình từng yêu thương trên đời này lại vuột khỏi tay mình chỉ trong hai ngày? Jem có quay lưng lại với mình không? Bà ấy yêu bọn mình, mình thề là bà ấy yêu nhà mình. Bà ấy ngồi đó trước mặt mình và bà ấy không thấy mình, bà ấy thấy bọn người da trắng. Bà ấy đã nuôi nấng mình, và bà ấy không quan tâm.
Mọi chuyện đâu phải lúc nào cũng như thế này, mình chắc chắn nó không hề như vậy. Người ta từng tin cậy lẫn nhau vì lý do nào đó, mình quên mất lý do nào rồi. Hồi đó người ta không canh chừng nhau như lũ diều hâu. Mình hẳn không gặp những cái nhìn như thế khi bước lên những bậc thềm ấy mười năm trước. Bà ấy không bao giờ có vẻ trịnh trọng tiếp khách trước mặt ai trong nhà mình… khi Jem chết, Jem yêu quý của bà ấy, chuyện đó gần như giết chết bà…
Jean Louise nhớ lần tới nhà Calpurnia một buổi chiều tà hai năm về trước. Bà đang ngồi trong phòng, như hôm nay, tròng kiếng trễ xuống mũi. Bà đã khóc nãy giờ.
“Lúc nào cũng dễ thu xếp như thế,” Calpurnia nói. “Chưa một ngày gây chuyện rắc rối trong đời, cậu trai ấy. Cậu ấy mang quà về cho tôi sau chiến tranh, cậu mang cho tôi một áo khoác điện.” Khi mỉm cười khuôn mặt Calpurnia rạn vỡ thành triệu nếp nhăn. Bà đi lại giường, và lôi từ gầm giường ra một cái hộp rộng. Bà mở ra và giơ lên một tấm da đen lớn. Nó là áo khoác của một sĩ quan phi hành Đức. “Thấy không?” bà nói. “Nó bật được đó.” Jean Louise xem xét cái áo và thấy những dây điện li ti chạy luồn trong đó. Có một cái túi đựng pin. “Cậu Jem nói nó giữ cho người tôi ấm vào mùa đông. Cậu nói tôi đừng hoảng sợ với nó, nhưng phải cẩn thận khi có sấm chớp.” Calpurnia với chiếc áo khoác điện là nỗi ghen tị cho các bạn bè và hàng xóm của bà. “Cal,” Jean Louise có nói. “Làm ơn trở lại đi. Con không thể quay về New York mà bình yên trong tâm trí nếu bà không ở đó.” Việc này có vẻ hiệu quả: Calpurnia thẳng người lên và gật đầu. “Dạ cô,” và nói, “Tôi sẽ trở lại.”
Jean Louise nhấn nút nhả thắng và chiếc xe di chuyển chậm rãi trên con đường. Cái tay là cái tay ngoằng. Tóm lấy cái ngón chân thằng mọi đen. Đến khi thằng mọi gào lên… [56] Chúa cứu giúp con.