Chương 8 Tảng Đá Và Hiểm Địa
Thời tiết thu lấp lánh chuyển biến xấu vào trưa hôm ấy. Nếu lúc sáng mây còn là những cuộn bông nhỏ bé hân hoan như thường lệ thì giờ đây chúng đang tối lại. Những tiếng sấm vang rền nghe như đang báo trước một điềm gở, dội trong khoảng không xa thẳm khiến khó ai xác định được chúng đến từ hướng nào. Chúng giống như luôn hiện hữu vô hình trong bầu khí quyển hơn là sản phẩm của một cơn bão cụ thể – một cảm nhận ngày càng rõ khi chúng vẫn cứ ở đó suốt mấy giờ liền, có vẻ như không kéo đến mà cũng chẳng hoàn toàn tan đi.
Chiều hôm ấy Madeleine đi xem hòa nhạc gần nhà với một người bạn mới ở Walnut Crossing. Đây không phải một dịp cô mong Gurney tham dự nên anh cảm thấy không cần phải chống chế cho quyết định ở nhà để tiếp tục dự án nghệ thuật của mình.
Cô đi chẳng bao lâu thì anh ngồi trước màn hình vi tính, mắt dán vào ảnh nhân diện của Peter Thú túi Piggert. Tới thời điểm này anh chỉ mới nhập vào tập tin ảnh và thiết lập một dự án mới có cái tên dễ thương đến mức dở khóc dở cười do anh đặt: Những kẻ tâm thần Oedipus.
Theo truyền thuyết Hy Lạp, bản của Sophocles, Oedipus giết một người đàn ông sau này hóa ra là cha mình, và cưới một người phụ nữ sau này hóa ra là mẹ mình và có với bà hai người con gái, gây nên đau khổ tột cùng cho tất cả các bên liên quan. Trong tâm lý học Freud, câu chuyện thần thoại Hy Lạp này là biểu tượng của giai đoạn phát triển trong đời một bé trai khi nó khao khát sự vắng mặt của người cha (muốn người cha biến mất hoặc chết) để có thể chiếm hữu hoàn toàn tình thương của người mẹ. Tuy nhiên, trong trường hợp của Peter Thú túi Piggert, không có yếu tố ngây thơ bất-khả-tri nào có thể biện hộ được, và cũng không ai đặt ra vấn đề về tính hình tượng trong vụ án. Peter biết rất rõ mình làm gì và làm với ai khi giết cha lúc mười lăm tuổi, nảy sinh mối quan hệ mới với mẹ, rồi sinh ra hai người con gái với bà. Nhưng sự việc không dừng lại ở đó. Mười lăm năm sau, hắn lại giết mẹ mình khi hai người đang tranh cãi về mối quan hệ mới nảy sinh giữa hắn và hai cô con gái mới 13 và 14 tuổi.
Gurney bắt đầu vào cuộc khi một nửa thi thể của bà Iris Piggert được phát hiện vướng vào bánh lái sau đuôi một tàu khách trên sông Hudson đang neo ở một cảng vùng Manhattan, và kết cục là Peter Piggert bị bắt trong một khu đất rào kín trên hoang mạc của tín đồ Mormon ‘truyền thống’ ở bang Utah, nơi hắn đến sống trong vai trò chồng của hai cô con gái.
Dù phạm phải tội ác đồi bại, nhuốm máu và nhuốm bi kịch gia đình khủng khiếp đến thế, nhưng Piggert vẫn ung dung, lầm lì trong mọi phiên tra hỏi và trong suốt các thủ tục hình sự chống lại hắn, vẫn che đậy kỹ càng thứ nhân cách ông Hyde[3] với dáng vẻ của một thợ máy ô tô bị trầm cảm hơn là một tên đa thê loạn luân giết cha hại mẹ.
Gurney chòng chọc nhìn Piggert trên màn hình, và Piggert nhìn lại. Kể từ buổi đầu thẩm vấn hắn, Gurney đã cảm nhận, và bây giờ càng cảm nhận rõ hơn, tố chất then chốt của tên này là một nhu cầu (đạt đến độ quái gở) phải kiểm soát môi trường xung quanh mình. Mọi người, kể cả gia quyến – thật ra thì đa số gia quyến – đều thuộc về môi trường này, và việc bắt họ làm chuyện hắn muốn là điều thiết yếu. Nếu phải giết ai đó để thiết lập quyền kiểm soát, hắn sẽ giết. Yếu tố tình dục, tuy có vẻ là một động lực rất lớn thúc đẩy hắn, lại có mối liên hệ với quyền lực hơn là ham muốn.
Khi anh quan sát khuôn mặt thản nhiên ấy để tìm ra chút manh mối của quỷ dữ, một guồng gió xoáy chợt cuộn lên đám lá khô. Chúng thổi bằng thứ âm thanh của chiếc chổi lông quét dọc sân hiên, vài chiếc lá đập nhẹ vào những ô cửa kính kiểu Pháp. Sự chuyển động không ngớt của đám lá, cộng với tiếng sấm từng hồi làm anh khó tập trung. Cái ý tưởng lặng yên một mình trong vài giờ làm việc với bức chân dung, thoát khỏi những câu hỏi khó chịu và những cặp mày chau, đã bắt đầu lôi cuốn anh.
Nhưng giờ đây tâm trí anh đang rối bời. Anh nhìn kỹ cặp mắt của Piggert, nặng nề và u tối – không có ánh mắt sừng sộ hoang dại tạo nên sức sống cho cặp mắt của Charlie Manson, hoàng tử tình dục và giết chóc trên những tờ báo lá cải – nhưng một lần nữa, cơn gió và đám lá làm anh phân tâm, rồi đến tiếng sấm. Xa xa dọc những ngọn đồi bên ngoài xuất hiện một tia sáng yếu ớt lóe lên trên bầu trời mờ mịt. Một cặp câu thơ từ một trong nhũng bài thơ dọa dẫm của Mellery vẫn cứ trôi ra dạt vào tâm trí anh. Lúc này nó lại hiện trong tâm trí anh và kẹt lại ở đó.
Ông sẽ trả thứ đã lấy khi ông nhận được thứ đã cho.
Trước hết, đây là một câu đố cực kỳ hóc búa. Ngôn từ rất chung chung; nói nhiều điều nhưng lại chẳng đem lại bao nhiêu ý nghĩa; nhưng anh cũng lại không thể đưa chúng ra khỏi tâm trí.
Anh mở hộc tủ bàn làm việc và lấy ra xấp thư theo thứ tự mà Mellery đã đưa. Anh tắt máy và đẩy bàn phím sang một bên bàn để có thể sắp xếp nội dung các lá thư theo thứ tự – bắt đầu với bức thư đầu tiên.
Ông có tin vào Định Mệnh không? Tôi tin là có, vì tôi đã tưởng sẽ không bao giờ gặp lại ông nữa – rồi một ngày kia, ông xuất hiện. Tất cả ký ức đều hiện về: cách ông nói chuyện, cách Ông đi đứng – và quan trọng nhất vẫn là cách ông suy nghĩ. Nếu có ai bảo ông hãy nghĩ đến một con số, thì tôi sẽ biết con số ông nghĩ là gì. Ông không tin tôi ư? Tôi sẽ chứng minh cho ông thấy, hãy nghĩ đến con số bất kỳ không quá một nghìn nào – con số đầu tiên mà ông tự nhiên nghĩ ra thôi. Hãy hình dung con số đó. Bây giờ hãy xem tôi biết rõ những bí mật của ông đến dường nào nhé. Mở chiếc phong bì nhỏ ra nào.
Dù trước đó đã xem xét chiếc phong bì, nhưng giờ anh lại xem xét nó một lần nữa, trong lẫn ngoài, kể cả giấy viết thư, để chắc chắn không có bất kỳ một dấu vết mờ nào – kể cả dấu thủy ấn – của con số 658 có thể làm phát sinh trong đầu Mellery suy nghĩ về nó. Không có dấu vết nào như thế. Những giám định cụ thể hơn có thể được tiến hành sau, nhưng hiện tại anh đã rất hài lòng vì biết rằng bất luận điều gì cho phép kẻ viết thư biết Mellery sẽ chọn con số 658 thì nó cũng không được kín đáo giấu trên mặt giấy.
Nội dung bức thông điệp bao gồm một số câu phát biểu mà Gurney liệt kê ra trên một tập giấy màu vàng có đường kẻ:
• Tôi biết ông trước đây nhưng đã mất liên lạc với ông.
• Tôi tình cờ gặp lại ông, gần đây thôi.
• Tôi nhớ lại rất nhiều thứ về ông.
• Tôi có thể chứng minh mình biết những bí mật của ông bằng cách viết ra con số ông sẽ nghĩ và bỏ vào phong bì đi kèm.
Anh bất giác nhận ra giọng điệu bức thư bỡn cợt một cách rợn người, và chỗ đề cập đến việc biết ‘những bí mật’ của Mellery có thể hiểu là một lời đe dọa – cảm nhận này càng rõ hơn trước yêu sách buộc Mellery phải gửi tiền trong phong bì nhỏ.
Có phải ông rất sửng sốt khi tôi lại biết ông chọn con số 658 không?
Người nào lại hiểu ông rõ đến thế nhỉ? Nếu muốn biết câu trả lời, trước tiên ông phải trả lại tôi số tiền 289,87 đô tôi đã bỏ ra để tìm được ông.
Gửi đúng số tiền này tới
Hộp thư 49449, Wycherly, CT 61010.
Gửi tôi TIỀN MẶT hoặc SÉC CÁ NHÂN.
Trên séc đề tên người nhận là X. Arybdis.
(Đây chưa chắc là tên thật của tôi.)
Ngoài việc đoán được con số không thể lý giải ấy, bức thư còn lặp lại tuyên bố rằng hắn biết rất rõ Mellery và nêu rõ 289,87 đô là chi phí phát sinh trong việc tìm ra Mellery (mặc dù nửa đầu bức thư viết có vẻ như đây chỉ là cuộc chạm trán tình cờ). Nó còn là điều kiện tiên quyết để kẻ viết thư tiết lộ danh tính; nó đưa ra lựa chọn trả bằng séc hoặc bằng tiền mặt; nó cho biết tên của người nhận séc là ‘X. Arybdis’ giải thích tại sao Mellery sẽ không nhận ra cái tên đó, và cho biết một địa chỉ hộp thư ở Wycherly để gửi tiền đến. Gurney viết vội tất cả những dữ kiện này xuống tập giấy vàng vì cảm thấy làm như vậy anh sẽ sắp xếp suy nghĩ được dễ dàng hơn.
Suy nghĩ của anh tập trung vào bốn câu hỏi. Làm sao có thể giải thích trò đoán số mà không phải đưa ra giả thuyết về khả năng ngoại cảm hay thuật thôi miên nào đó như trong phim ứng cử viên Mãn Châu? Con số cụ thể còn lại trong bức thư là 289,87 đô còn có ý nghĩa nào khác ngoài ‘chi phí tìm ra ông’ không? Tại sao lại có lựa chọn trả séc hoặc tiền mặt? Lựa chọn đó nghe như nhái lại một mẩu quảng cáo tiếp thị trực tiếp vậy. Và cái tên Arybdis ấy là gì mà lúc nào cũng khiến cái góc tối trong ký ức của Gurney phải nhồn nhột không yên? Anh viết xuống những câu hỏi này cùng với những ghi chép khác của mình.
Tiếp đó, anh bày ra ba bài thơ theo trình tự dấu bưu điện được đóng trên phong bì.
Bao nhiêu thiên sứ rạng ngời
một chân múa nhảy hát lời ngân nga?
Bao nhiêu hy vọng cao xa
bị dìm chết bởi một ca rượu nồng?
Ông có bao giờ hỏi lòng,
súng và ly rượu chỉ là một thôi,
và rồi tự hỏi một mai
Chúa ơi, con đã làm sai chuyện gì?
Ông sẽ trả thứ đã lấy
khi ông nhận được thứ đã cho.
Tôi biết ông nghĩ sao
Chớp mắt khi nào,
đã ở đâu
sẽ về đâu
Ông và tôi có hẹn đấy,
ông 658 ạ
Ta làm những việc đã làm,
Vì vui không phải, vì tiền cũng không,
Mà vì nợ phải trả xong,
vì những bù đắp chẳng mong kéo dài.
Vì màu máu đỏ không phai
như ai tô điểm một bông hoa hồng.
Để ai cũng phải nằm lòng
gieo gì gặt nấy, đừng hòng cậy ai.
Điều đập vào mắt anh trước tiên chính là sự thay đổi thái độ. Giọng điệu bông đùa của hai thông điệp diễn dịch bằng văn xuôi bỗng mang tính chất tố cáo trong bài thơ thứ nhất, mang tính chất đe dọa thái quá trong bài thứ hai, và mang tính chất thù hận trong bài thứ ba. Bỏ qua vấn đề cần nghiêm túc xem xét thông điệp đến mức nào, bản thân thông điệp rất rõ ràng: Người viết (X. Arybdis chăng?) muốn nói hắn sẽ trả đũa (giết chăng?) Mellery vì y đã phạm sai lầm nào đó trong quá khứ có liên quan tới rượu. Khi Gurney viết chữ giết vào phần ghi chú, sự chú ý của anh bỗng nhảy trở lại hai câu thơ ban đầu trong bài thơ thứ hai:
Ông sẽ trả thứ đã lấy
khi ông nhận được thứ đã cho.
Giờ thì anh đã hiểu chính xác ý nghĩa của những từ ngữ này, và ý nghĩa của nó đơn giản đến mức rùng mình: ông lấy mạng người, thì sẽ phải trả bằng mạng mình, ông gieo nhân nào thì sẽ phải gặt quả nấy.
Anh không chắc cảm giác rờn rợn mình đang cảm nhận thuyết phục anh là mình đúng hay vì biết mình đúng nên anh mới có cảm giác rờn rợn ấy, nhưng dù sao thì anh không còn hoài nghi gì nữa. Tuy nhiên, như vậy cũng chưa trả lời được những câu hỏi còn lại của anh. Nó chỉ làm những câu hỏi đó mang tính cấp bách hơn và phát sinh thêm nhiều câu hỏi mới nữa.
Lời dọa giết ấy chỉ đơn thuần là đe dọa để gây ra đau đớn vì sợ hãi – hay đó là một tuyên bố sẽ thực hiện ý định ấy? Kẻ viết thư đề cập đến điều gì khi nói ‘Ta làm những việc đã làm’ trong dòng đầu bài thơ thứ ba? Trước đây, hắn đã làm gì ai khác điều mà hắn định làm với Mellery chưa? Có khi nào Mellery đã làm chuyện gì cùng một người nào đó mà kẻ viết thư đã giải quyết xong? Gurney ghi lại để hỏi Mellery xem có bạn bè hay đối tác nào từng bị giết, tấn công, hay đe dọa không.
Có lẽ do tâm trạng được đem lại bởi những tia sáng đằng xa phía chân đồi đang tối sầm lại, hoặc do sự dai dẳng kỳ quái của tiếng sấm yếu ớt, hoặc do sự kiệt quệ của chính mình, nhưng cái tính cách đằng sau những bức thông điệp ấy đang hiện lên rõ ràng từ bóng đêm. Giọng điệu bàng quan trong những bài thơ ấy, sự kiên tâm khát máu và cú pháp thận trọng, sự thù hận và tính toán – trước đây anh đã thấy những đặc điểm như thế này phối hợp với nhau để gây ra một hiệu ứng kinh khiếp. Nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ căn phòng, vây quanh là bầu không khí bất an của cơn bão đang tiến gần, anh cảm nhận được trong những bức thông điệp ấy sự lạnh lùng của một kẻ rối loạn tâm thần. Một kẻ tâm thần tự xưng là X. Arybdis.
Dĩ nhiên, cũng có thể anh sai. Đây không phải lần đầu một tâm trạng nào đó, nhất là tâm trạng vào chiều, nhất là khi anh đang đơn độc, tạo ra trong anh những niềm tin mạnh mẽ dù chẳng dựa vào bất kỳ giả thuyết nào.
Dẫu vậy… cái tên ấy sao thế nhỉ? Nó đang chộn rộn yếu ớt trong ngăn ký ức đầy bụi nào thế?
Đêm đó anh đi ngủ sớm, trước lúc Madeleine đi xem ca nhạc về, cương quyết ngày mai sẽ trả lại Mellery mấy lá thư và bảo y gặp cảnh sát. Rủi ro quá lớn, hiểm nguy quá rõ. Tuy nhiên, nằm trên giường, anh cảm thấy khó lòng kết thúc một ngày như thế. Tâm trí anh là một đường đua không có lối thoát lẫn đích đến. Đó là một trải nghiệm rất quen thuộc – một cái giá phải trả (anh rốt cuộc cũng tin như vậy) cho bao chú ý cao độ mà anh đã cống hiến cho nhiều loại thử thách nhất định. Một khi cái tâm trí bị ám ảnh của anh rơi vào lối mòn vòng vo này thay vì chìm vào giấc ngủ, thì sẽ chỉ có hai phương án. Anh có thể để cái quy trình ấy tự kết thúc, có thể mất ba bốn giờ đồng hồ, hoặc ép mình ra khỏi giường và tròng quần áo vào.
Vài phút sau, trong chiếc quần jeans và chiếc áo len cô tông cũ thoải mái, anh đang đứng ngoài sân hiên. Mảnh trăng rằm khuất sau bầu trời ảm đạm tạo nên một vầng sáng yếu ớt, làm kho thóc hiện rõ mồn một. Anh quyết định dạo bộ dọc theo hướng đó, men theo con đường mòn băng qua bãi cỏ.
Băng qua bãi cỏ là hồ nước. Được nửa đường, anh dừng lại, lắng nghe tiếng xe đang đi trên đường đến từ hướng ngôi làng. Anh ước tính chiếc xe đang cách anh chừng một ki-lô-mét. Trong cái xó xỉnh tĩnh lặng ấy của vùng núi Catskills, nơi mà tiếng tru rú lác đác của những con sói Bắc Mỹ là âm thanh ồn ào nhất trong đêm, người ta vẫn có thể nghe được tiếng xe từ xa.
Chẳng mấy chốc đèn pha ô tô của Madeleine lướt qua mớ hoa gậy vàng rối bù đang hấp hối ở mép bãi cỏ. Cô rẽ về phía kho thóc, ngừng xe trên thảm sỏi cứng giòn, rồi tắt đèn xe. Cô ra khỏi xe và bước về phía anh – một cách thận trọng, mắt cô dần thích nghi với vùng tranh tối tranh sáng.
“Anh đang làm gì vậy?” Câu hỏi của cô nghe nhẹ nhàng, thân mật.
“Không ngủ được. Đầu óc cứ quay cuồng. Nên anh muốn đi dạo quanh bờ hồ.”
“Trông như sắp mưa.” Một tiếng sấm động trên bầu trời chợt làm gián đoạn lời nhận xét của cô.
Anh gật đầu.
Cô đứng cạnh anh trên đường và hít vào thật sâu.
“Mùi hương thật tuyệt. Đi nào, chúng ta đi dạo nào,” cô vừa nói vừa cầm cánh tay anh.
Khi hai người đến bờ hồ, con đường rộng ra, nối với lối cỏ bị xén. Đâu đó trong rừng, một con cú mèo rít lên – hay chính xác hơn, có một tiếng rít quen thuộc mà họ nghĩ có thể là tiếng cú khi nghe lần đầu tiên vào mùa hè năm ấy, và mỗi lần nghe lại tiếng rít đó họ càng chắc đó là tiếng cú. Bản năng lập luận của Gurney nhận thấy quá trình ‘quả quyết ngày càng tăng’ này vô nghĩa về mặt logic, nhưng anh cũng biết rằng nếu chỉ ra điều đó, dẫu phát hiện này với anh có thú vị đến mấy, cũng sẽ làm cô bực bội và chán chường. Nên anh không nói gì, khấp khởi vì biết mình hiểu cô rõ nên biết khi nào thì im lặng, rồi họ đi thong thả qua bên kia bờ hồ trong sự tĩnh lặng thân mật. Cô nói đúng về mùi hương ấy – một mùi hương ngọt ngào trong không trung.
Hai người thỉnh thoảng có những khoảnh khắc như thế, những khoảnh khắc trìu mến êm ả và gần gũi lặng yên, làm anh nhớ lại những năm đầu tiên sau khi kết hôn, những năm trước cái tai nạn ấy. ‘Tai nạn’ – cái nhãn chung chung khó hiểu mà anh dùng để bọc sự cố ấy trong ký ức để những tình tiết sắc như dao cạo của nó không thể xẻ mỏng tim anh. Tai nạn ấy – cái chết ấy – thứ che khuất mặt trời, biến cuộc hôn nhân của hai người thành một khối hỗn hợp luôn thay hình đổi dạng gồm thói quen, bổn phận, một thứ tình bạn nhiều xung đột, và những khoảnh khắc hy vọng hiếm hoi – những khoảnh khắc hiếm hoi khi một thứ rực rỡ và rõ ràng như kim cương bắn qua bắn lại giữa hai người, nhắc anh nhớ đến những chuyện đã từng một thời tốt đẹp và cũng có thể sẽ một lần nữa tốt đẹp.
“Anh lúc nào cũng có vẻ như đang vật lộn với thứ gì đó,” cô nói, bám vào mặt trong khuỷu tay anh.
Lại nói đúng nữa.
“Buổi hòa nhạc thế nào?” cuối cùng anh hỏi.
“Nửa đầu là phong cách Barốc, hay tuyệt. Nửa sau là phong cách thế kỷ 20, không hay lắm.”
Anh định nói chen vào ý kiến không thiện cảm của mình về âm nhạc đương đại nhưng lại thôi.
“Chuyện gì làm anh không ngủ được thế?” cô hỏi.
“Anh cũng không rõ nữa.”
Anh cảm nhận được sự hoài nghi của cô. Cô buông tay anh. Có cái gì đó rơi vào mặt hồ và làm nước bắn tung tóe chỉ cách họ vài mét về phía trước.
“Anh không tài nào bỏ chuyện Mellery ra khỏi tâm trí được,” anh nói.
Cô không trả lời.
“Từng miếng từng mảnh của nó cứ chạy lòng vòng trong đầu anh – không đi đến đâu cả – chỉ làm anh khó chịu – quá mệt mỏi không thể nghĩ thông suốt được.”
Một lần nữa cô không thể hiện gì ngoài sự im lặng suy tư.
“Anh lúc nào cũng nghĩ đến cái tên ấy trong thư.”
“X. Arybdis ư?”
“Sao em…? Em nghe anh và hắn đề cập đến nó à?”
“Em có thính giác tốt mà.”
“Anh biết, nhưng anh luôn bị ngạc nhiên.”
“Anh biết đấy, có thể thật sự không phải là X. Arybdis gì cả,” cô nói theo cái cách ứng khẩu mà anh biết thật sự thì hoàn toàn không phải ứng khẩu.
“Sao cơ?” anh dừng chân nói.
“Có thể không phải là X. Arybdis.”
“Ý em là sao?”
“Em đã chịu đựng một trong những sự loạn điệu tàn bạo nhất trong suốt phần sau của buổi hòa nhạc, nghĩ bụng mấy nhà soạn nhạc đương đại chắc hẳn rất ghét vi ô lông xen. Sao lại buộc một thứ nhạc cụ tuyệt vời tạo ra những tiếng động nhói tai như vậy cơ chứ? Toàn là tiếng sột soạt và rền rĩ khủng khiếp.”
“Rồi sao nữa?” anh nhẹ nhàng nói, cố không để sự tò mò của mình nghe như cáu kỉnh.
“Rồi lúc đó đáng lẽ em về rồi nhưng không được vì em chở Ellie đến đó mà.”
“Ellie ư?”
“Ellie sống dưới chân đồi ấy – hay hơn là phải đi hai xe đúng không? Nhưng cô ta xem ra thích thú buổi hòa nhạc ấy lắm, có trời mới biết tại sao.”
“Sao nữa?”
“Nên em tự hỏi, mình có thể làm gì để giết thời gian và để kiềm chế không giết mấy tay nhạc công ấy?”
Lại có tiếng thứ gì đó rơi vào ao tung tóe, cô dừng chân lắng nghe. Anh nửa thấy, nửa cảm nhận được nụ cười của cô. Madeleine rất thích ếch.
“Rồi sao nữa?”
“Rồi em nghĩ bụng chắc bắt đầu lập danh sách quà Giáng sinh được rồi – bây giờ cũng tháng Mười một rồi còn gì – nên em lấy bút ra viết chữ ‘thiệp Giáng sinh’ ở mặt sau tờ chương trình, đầu trang – không phải nguyên chữ Christmas mà là từ viết tắt X-M-A-S,” cô đánh vần từng chữ.
Trong bóng đêm, anh cảm nhận ánh mắt dò hỏi của cô nhiều hơn trực tiếp thấy, vẻ như cô đang hỏi anh có hiểu vấn đề không.
“Nói tiếp nào,” anh nói.
“Mỗi lần thấy chữ viết tắt đó, em lại nhớ tới Tommy Milakos lúc nhỏ.”
“Ai cơ?”
“Tommy thích em hồi học lớp 9 ở trường Đức Mẹ Đồng Trinh.”
“Anh tưởng đó là trường Đức Mẹ Khổ Đau chứ,” Gurney nói, lòng thoáng bực dọc.
Cô ngừng một chập để trò đùa nho nhỏ của mình được cảm nhận, rồi nói tiếp. “Sao cũng được, có một hôm xơ Immaculata, một người phụ nữ rất to con, bỗng la mắng em vì đã viết tắt chữ Christmas thành Xmas trong một bài kiểm tra nhỏ về những ngày linh thiêng trong Công giáo. Bà ta nói ai viết như vậy là có ý ‘xóa Chúa ra khỏi từ Christmas’. Bà ta giận đùng đùng. Em tưởng bà ta đánh em rồi chứ. Nhưng ngay lúc đó Tommy – cậu bé mắt nâu dễ thương – nhảy ra khỏi ghế rồi hét lên, ‘Đó không phải là chữ X.’
“Xơ Immaculata bị sốc. Đây là lần đầu tiên có người dám ngắt lời bà ta. Bà ta chỉ nhìn anh ấy chằm chằm, nhưng anh ấy nhìn chằm chằm lại, nhà vô địch bé nhỏ của em. ‘Nó không phải là mẫu tự tiếng Anh’ anh ấy nói. ‘Nó là mẫu tự Hy Lạp cơ. Nó giống như mẫu tự ch trong tiếng Anh vậy. Nó là mẫu tự đầu tiên trong từ Christ theo tiếng Hy Lạp’. Và dĩ nhiên Tommy Milakos là người Hy Lạp, nên ai cũng biết anh ấy chắc hẳn nói đúng.”
Trời dù tối nhưng anh nghĩ mình vẫn thấy được nụ cười thoáng nở trên môi cô khi cô kể lại chuyện cũ, thậm chí anh còn nghi ngờ mình nghe được một tiếng thở dài nhẹ. Có lẽ anh đã nhầm về tiếng thở dài – anh hy vọng thế. Và một chuyện nữa khiến anh phân tâm – cô đã để lộ sở thích mắt nâu của mình với mắt xanh dương ư? Bình tĩnh lại nào Gurney, cô ấy đang nói về hồi học lớp 9 cơ mà.
Cô nói tiếp, “Cho nên có thể X. Arybdis thật ra là ‘Ch. Arybdis’ chăng? Hoặc có thể là ‘Charybdis’? Đó chẳng phải là cái gì đó trong thần thoại Hy Lạp sao?”
“Đúng đấy,” anh nói, đủ lớn cho cả mình và vợ nghe. “Giữa Scylla và Charybdis…”
“Kiểu như ‘giữa tảng đá và hiểm địa’ chăng?”
Anh gật đầu. “Đại loại như vậy.”
“Cái nào là cái nào cơ?”
Anh hình như không nghe câu hỏi đó, tâm trí lúc này đang hối hả lướt qua những ngụ ý về Charybdis, tung qua hứng lại các khả năng.
“Hả?” Anh nhận ra cô vừa hỏi anh gì đó.
“Scylla và Charybdis ấy,” cô nói. “Tảng đá và hiểm địa. Cái nào là cái nào cơ?”
“Đây không phải là cách dịch trực tiếp từng từ mà chỉ là phỏng dịch nghĩa gốc thôi. Scylla và Charybdis là hai hiểm họa hàng hải có thật ở eo biển Messina. Tàu thuyền phải đi giữa hai chỗ này và thường bị đánh nát trong lúc vượt qua. Trong thần thoại, hai nơi này được nhân cách hóa thành quái vật chuyên tàn phá.”
“Anh nói hiểm họa hàng hải… ví dụ như là gì?”
“Scylla là tên một mỏm đá lởm chởm mà tàu thuyền có thể bị va đập vào đó rồi dẫn đến chìm hẳn.”
Khi anh không tiếp tục câu chuyện ngay, cô hối thúc, “Còn Charybdis?”
Anh hắng giọng. Có cái gì đó về Charybdis dường như rất kinh khủng. “Charybdis là một xoáy nước. Một xoáy nước cực mạnh. Ai bị kẹt trong đó không bao giờ thoát ra được. Nó hút người đó vào rồi xé nát thành từng mảnh.” Anh nhớ lại một cách rành mạch đến rợn người một tranh minh họa xem cách đây đã lâu trong một ấn bản của Odyssey, trong đó mô tả cảnh một thủy thủ bị kẹt trong vòng xoáy dữ dội, mặt méo mó vì kinh hãi.
Lại có tiếng rít từ trong rừng.
“Nào,” Madeleine nói. “Mình vào nhà đi. Trời sẽ mưa bất cứ lúc nào đấy.”
Anh đứng lặng trong những ý nghĩ đang quay cuồng.
“Đi nào,” cô giục. “Không khéo chúng ta ướt mất.”
Anh theo cô vào xe, và họ lái chậm rãi qua bãi cỏ về hướng căn nhà.
Trước khi hai người ra khỏi xe, anh quay sang cô hỏi, “Em không nghĩ mọi chữ X em thấy đều có thể là ch chứ?”
“Tất nhiên là không.”
“Vậy thì tại sao…?”
“Vì ‘Arybdis’ nghe như tiếng Hy Lạp.”
“Phải. Dĩ nhiên rồi.”
Cô đưa mắt nhìn anh đang ngồi ở ghế trước, vẻ mặt anh lúc này, với sự tiếp tay của đêm tối mờ mịt, rất khó đoán.
Một chập sau, cô nói, kèm một nụ cười nhẹ, “Anh không bao giờ ngưng nghĩ ngợi được à?”
Và rồi, như cô đã cam đoan, cơn mưa bắt đầu đổ.